Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.37 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng.
7/Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,do nhân dân vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong <i>Cương lĩnhxây dựng đất</i>
<i>nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội </i>(bổ sung, phát triển năm 2011)có một số điều chỉnh quan trọng.
Thực ra, một số điều chỉnh mới trong Cương lĩnh 2011 về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội so với trong Cương
lĩnh 1991 đó được nêu ra từ Đại hội X của Đảng (2006). Nếu trong Cương lĩnh 1991 chỉ đưa ra 6 đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội thì trong <i>văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, </i>Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là:
1/ <i>Xã hội xã hội chủ nghĩa </i>mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh;
2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no,tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ;
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới4<sub>.</sub>
Theo đó, đặc trưng thứ nhất và thứ bảy <i>được bổ sung mới hoàn toàn </i>và trong một số đặc trưng khác (đặc trưng
thứ hai, ba và năm) có sự điều chỉnh nhất định về thuật ngữ (đương nhiên sự thay đổi về thuật ngữ dẫn tới sự
thay đổi về nội dung).
Như vậy, khơng có nghĩa là phải đến Cương lĩnh 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam mới có sự điều chỉnh, bổ sung
các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; trái lại, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những
nhận thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và
hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, như trên vừa đề cập, Đại hội X của Đảng đã
khẳng định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm 8 đặc trưng. Điều đó muốn nói lên rằng, một số điểm
mới về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 2011 không phải đến Đại hội XI mới được bổ
sung, mà đã được điều chỉnh từ trước đó; đồng thời, những điểm mới trong Cương lĩnh 2011 không chỉ mới so
với Cương lĩnh 1996, mà một số chi tiết (trong một số đặc trưng cụ thể) cũng mới hơn so với quan niệm của
Đảng nêu trong Đại hội X.
Vậy những bổ sung, điều chỉnh mới đó là gì?
chí <i>dân chủ </i>được đặt trước tiêu chí cơng bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện
dân chủ <i>giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng </i>trong đời sống xã hội. Dân chủ khơng những là mục tiêu, mà cịn
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và
hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu
căn bản của cơng cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta
chính là xây dựng <i>nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, </i>phát huy <i>quyền làm chủ</i> của nhân dân. Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên
quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
<i>Thứ hai</i>, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động làm chủ'' thì
trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''.
Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm <i>rộng hơn </i>so với khái niệm ''nhân dân lao
động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
<i>Thứ ba</i>, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần
thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ
công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trị hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu
<i>cũng chỉ là </i>một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản
xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng
<i>về sự phù hợp củaquan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.</i>
<i>Thứ tư, </i>cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng” trong đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991
(cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mơ hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn
kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của
con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất cơng.
<i>Thứ năm, </i>trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có <i>điều kiện </i>phát triển tồn diện'' (trong Cương lĩnh
1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ...
được <i>phát triển toàn diện''). </i>Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự
phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
<i>Thứ sáu, </i>trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng <i>tiến bộ</i>”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, <i>tương trợ, </i>giúp nhau cùng <i>tiến bộ</i>''<i>. </i>Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành
''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, <i>tơn trọng </i>và giúp nhau cùng <i>pháttriển''. </i>Việc thay
thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tơn trọng'' hồn tồn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung tồn
diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đồn kết, <i>tơn trọng</i> và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau”
(trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
<i>Thứ bảy, </i>nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương
lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''.
Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà
nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.