Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

TỔNG HỢP BÀI VĂN HAY 10,11,12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.03 KB, 36 trang )

SĨNG KHỔ567
“Anh khơng xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...”
“Biển” – Xn Diệu,1962
Thơ tình trong cái khí bay bổng của văn chương thời hiện đại lúc nào
cũng đem đến cho ta sự rung động mạnh mẽ, ta bắt gặp “ơng hồng
thơ tình” – Xn Diệu say mê, mơ mộng trong những con chữ đắm tình,
dữ dội nhưng cũng bao la mà vỗ về, yêu thương qua hình ảnh bờ biển
đầy thi vị, trơi dọc theo dịng chảy của bến bờ tình yêu, ta lại được thấy
một Xuân Quỳnh dào dạt ý thơ, thăng trầm cảm xúc qua bài thơ
“Sóng” để rồi thấu hiểu tâm hồn, những cung bậc cảm xúc cũng như
khao khát được yêu thương của người phụ nữ, vượt qua những khuôn
mẫu, vượt qua khỏi những tư tưởng cũ, Xn Quỳnh đưa hình tượng
những con sóng vùng vẫy thỏa thích trong thơ, chạm đến ngưỡng của
một kiệt tác nghệ thuật, mà thể hiện rõ hơn cả qua ba khổ thơ 5,6,7.
“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, trong một
chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền, in trong tập thơ “Hoa dọc
chiến hào”. Xuân Quỳnh viết bài thơ này khi các nhà thơ khác vẫn
đang hịa chung tiếng nói của cộng đồng bằng cảm hứng yêu nước,
tinh thần ngợi ca:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Trong bối cảnh những năm 60, 70 của thế kỉ XX, giữa cuộc chiến tranh
chống Mĩ đang diễn ra khốc liệt, Xuân Quỳnh như một bông hoa tươi,
rực rỡ nở dọc chiến hào. Xuân Quỳnh đã “tự hát” giản dị và thật thà
những thổn thức sâu thẳm của người con gái khao khát đi tìm hạnh
phúc qua thể thơ ngũ ngơn, nhịp thơ êm đềm, du dương và sâu sắc,
mang âm hưởng của nhịp sóng tự nhiên, gợi nhịp tình cảm, cảm xúc
trong bài thơ. Ngơn ngữ thơ bình dị với những so sánh, liên tưởng gần


gũi, quen thuộc nhưng lại chứa đựng tình cảm mãnh liệt, nồng nàn, tha
thiết. Những suy tư, lo âu, trăn trở của người con gái khi yêu được bộc
lộ rõ nét qua từng nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin mãnh liệt vào
tình yêu. Lênh đênh theo những cơn sóng biển, ta được chìm trong nỗi
nhớ mênh mang, vơ bờ của sóng và em:
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”


Bằng phép điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối “dưới lòng sâu” –
“trên mặt nước”, ta dường như thấy được sự điệp trùng của những con
sóng với nhiều hình dáng khác nhau, hình ảnh thơ cũng trở nên sâu
hơn, giàu ý nghĩa hơn cả. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương
nhưng cũng có con sóng cuộn trào trong lịng biển cả. Con sóng ngầm
cịn mãnh liệt hơn cả con són trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau
tạo nên sự da dạng của sóng biển. Sóng là em, em cũng là sóng. Cũng
như con sóng kia, tâm hồn em chứa vô vàn những phức tạp khó hiểu.
Lúc lặng lẽ êm đềm, khi nồng nàn dữ dội, nhưng dù thế nào đi nữa, em
vẫn là em, vẫn mãi ơm trong lịng một nỗi nhớ thương khơng dứt. Sóng
và em phân đơi, soi chiếu vào nhau để làm sáng lên những tâm sự sâu
kín trong em. Đó là một nỗi nhớ mênh mơng sâu thẳm. Con sóng trên
mặt nước hay con sóng dưới lịng sâu mn đời vỗ nhịp trong lòng biển
cả, cồn cào một hướng vào bờ dẫu có mn nghìn cách trở. Ý thơ được
kết nối và phát triển thật tự nhiên, những câu thơ không ngắt nhịp
được đặt cạnh nhau liên tiếp như nhịp sóng miên man nhung nhớ.
Sóng chẳng cịn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ, trong nỗi nhớ của sóng
là cả một nỗi niềm thổn thức, vì thương, vì nhớ nên khao khát tìm về
với bến bờ, nỗi nhớ ấy mãnh liệt đến mức trải qua một chặng đường

dài từ sông ra biển vẫn còn tha thiết, bất chấp cả thời gian “ngày đêm
khơng ngủ được”. Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đúc kết nên thành
nỗi nhớ của em:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Xuân Quỳnh dùng từ “lịng” rất tinh tế, lịng là nơi sâu kín nhất của tâm
hồn con người, nơi bí mật thăm thẳm của tình u và nỗi nhớ. Khi Xn
Quỳnh nói “lịng em nhớ” nghĩa là nhân vật trữ tình đã phơi bày tất cả
gan ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu.
Câu thơ “cả trong mơ cịn thức” đã lóe lên điểm sáng của nghệ thuật,
nó làm đảo lộn nhịp sống bởi nó làm cho lịng em “bổi hổi bồi hồi, như
đứng đống lửa như ngồi đống than”, làm cho em ngay cả trong giấc
ngủ vẫn không ngừng thao thức, nhớ nhung. Cũng nỗi nhớ trong tình
yêu ấy, ta bắt gặp trong thơ của Xuân Diệu đầy nồng thắm:
“Trời cịn có bữa sao qn mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em”
Thế mới nói, cịn nhớ nhung nghĩa là cịn u, nỗi nhớ là hiện thân của
tình yêu, tha thiết mà bồi hồi, xao xuyến mãi không thơi.
Tình u của người con gái thật đẹp, đẹp hơn hết là tấm lịng thủy
chung son sắc:
“Dẫu xi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam


Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Sóng và em đan quyện vào nhau, em lặng lẽ đi để sóng trào lên,
nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang tâm tình của em. Hai câu
thơ đầu với hai cặp từ đối nhau “xuôi về phương Bắc” – “ngược về
phương Nam” đã thành công nhấn mạnh sự gian nan, trắc trở trên

đường đi của sóng, cũng chính là chặng đường tình yêu của em. Xưa
nay người ta vẫn thường hay nói “xi Nam, ngược Bắc” nhưng Xn
Quỳnh lại viết “Xi Bắc, ngược Nam”, một cách nói đầy mới lạ, có lẽ,
tình u đã làm cho con người ta đảo lộn, mất đi phương hướng.
Nhưng, dẫu cho ngược xuôi vất vả như thế nào đi chăng nữa, anh mới
chính là phương hướng của cuộc đời em, từ “dẫu” đã góp phần khẳng
định mạnh mẽ tình u thủy chung của người phụ nữ, một sự khẳng
định chắc nịch cho trái tim sắc son nồng nàn.
Tình yêu đem đến cho con người ta sức mạnh phi thường, niềm
tin vào tình yêu giúp cho “em” vượt qua mọi trở ngại, chông gai để đến
được bến bờ hạnh phúc, nơi có anh:
“Ở ngồi kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt,
những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này Xuân Quỳnh lại thể hiện
những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng chính là những cảm xúc quen thuộc
trong tình yêu. “Đại dương” tượng trưng cho cuộc đời lớn cịn “mn
vời cách trở” là những khó khăn, là sự xa xơi, là những phong ba bão
táp có thể gặp phải trong tình u. Tình yêu của người con gái thật
mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm
về cội nguồn yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó
khăn để đến với nhau, để sống trọn vẹn trong hạnh phúc lứa đơi. Sóng
muốn về với bờ phải vượt qua giông tố, bão bùng, cũng như em muốn
hướng về anh phải vượt qua những cạm bẫy của cuộc đời. Nhưng người
phụ nữ tin tưởng vào sức mạnh của tình u có thể vượt qua tất cả đề
tìm thấy được tình u đích thực của cuộc đời mình. Cũng như ơng cha
ta đã từng truyền tai nhau câu nói:
“u nhau mấy núi cũng leo,

Mấy sơng cũng lội, mấy đèo cũng qua.”
Tình yêu thật thiêng liêng, cao cả, qua hình tượng sóng và em vẻ
đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu hiện lên với đầy đủ những thăng
trầm cảm xúc, những gì cao cả nhất, để rồi cho ta thấu hiểu được phần


nào nội tâm của nữ thi sĩ. Âm điệu thơ khi nhẹ nhàng, khi rạo rực lên
xuống bồi hồi không dứt, hình ảnh thơ độc đáo, khắc họa sinh động
tồn bộ cảm xúc của người con gái khi yêu. Khép lại ba khổ thơ trong
bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, có lẽ ta vẫn chưa hiểu được hết về
tình u, nhưng đọng lại trong tâm trí vẫn là tiếng sóng rì rào vỗ về
bến bờ, khiến ta thêm trân trọng, tin tưởng vào sự vĩnh hẳng của tình
u đích thực.


SĨNG 2 KHỔ ĐẦU
“Anh khơng xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...”
“Biển” – Xuân Diệu,1962
Thơ tình trong cái khí bay bổng của văn chương thời hiện đại lúc nào
cũng đem đến cho ta sự rung động mạnh mẽ, ta bắt gặp “ơng hồng
thơ tình” – Xn Diệu say mê, mơ mộng trong những con chữ đắm tình,
dữ dội nhưng cũng bao la mà vỗ về, yêu thương qua hình ảnh bờ biển
đầy thi vị, trơi dọc theo dịng chảy của bến bờ tình yêu, ta lại được thấy
một Xuân Quỳnh dào dạt ý thơ, thăng trầm cảm xúc qua bài thơ
“Sóng” để rồi thấu hiểu tâm hồn, những cung bậc cảm xúc cũng như
khao khát được yêu thương của người phụ nữ, vượt qua những khuôn
mẫu, vượt qua khỏi những tư tưởng cũ, Xuân Quỳnh đưa hình tượng

những con sóng vùng vẫy thỏa thích trong thơ, chạm đến ngưỡng của
một kiệt tác nghệ thuật, mà thể hiện rõ hơn cả qua hai khổ thơ đầu
tiên.
“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, trong một
chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền, in trong tập thơ “Hoa dọc
chiến hào”. Xuân Quỳnh viết bài thơ này khi các nhà thơ khác vẫn
đang hịa chung tiếng nói của cộng đồng bằng cảm hứng yêu nước,
tinh thần ngợi ca:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Trong bối cảnh những năm 60, 70 của thế kỉ XX, giữa cuộc chiến tranh
chống Mĩ đang diễn ra khốc liệt, Xuân Quỳnh như một bông hoa tươi,
rực rỡ nở dọc chiến hào. Xuân Quỳnh đã “tự hát” giản dị và thật thà
những thổn thức sâu thẳm của người con gái khao khát đi tìm hạnh
phúc qua thể thơ ngũ ngơn, nhịp thơ êm đềm, du dương và sâu sắc,
mang âm hưởng của nhịp sóng tự nhiên, gợi nhịp tình cảm, cảm xúc
trong bài thơ. Ngơn ngữ thơ bình dị với những so sánh, liên tưởng gần
gũi, quen thuộc nhưng lại chứa đựng tình cảm mãnh liệt, nồng nàn, tha
thiết. Hai khổ thơ đầu là những cảm xúc và suy nghĩ về sóng biển và
tình u của người con gái đang yêu, những cung bậc cảm xúc được
bộc lộ đầy mãnh liệt nhưng cũng rất khéo léo, tinh tế.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sơng khơng hiểu nổi mình


Sóng tìm ra tận bể”
“Sóng” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con gái đang yêu, là sự
hóa thân, phân thân của nhân vật trữ tình, hình tượng sóng bao trùm,
xuyên suốt bài thơ khắc họa cụ thể, sống động và toàn vẹn mạch cảm

xúc của Xuân Quỳnh – một trái tim đang chìm đắm trong bể lớn tình
u. Sóng là hiện hình của nhân vật trữ tình “em”, sóng và “em” hợp
thành cặp hình ảnh song hành, có lúc phân đơi ra để soi chiếu vào
nhau, làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hịa nhập vào nhau để tạo
nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài quấn quýt với
nhau như hình với bóng, song song tồn tại xuyên suốt bài thơ, soi sáng,
bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và
thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn dâng trào trong trái
tim nữ thi sĩ. Sóng có lúc cuộn trào dữ dội cũng có khi dịu dàng đằm
thắm, có khi ồn ã, rộn ràng nhưng cũng có lúc lặng thing, im ắng, đó
chẳng phải là những trạng thái cảm xúc của con người đây sao? Yêu,
ghét, giận hờn toàn thể các cung bậc cảm xúc ấy được Xuân Quỳnh gói
gọn qua những con chữ hàm súc ấy. Sóng được đặc tả ở hai trạng thái
đối lập nhau, tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng lại vơ cùng hợp lí,
diễn tả tâm hồn người con gái khi yêu, Xuân Quỳnh mới khéo léo làm
sao, sâu thẳm trong trái tim người con gái là những cảm xúc phức tạp
khó nắm bắt, khó diễn đạt bằng lời, khi yêu, trái tim rối bời trong sự
suy tư, lo âu được mất, cách biểu đạt tình yêu của người con gái cũng
rất khó hiểu, khó lí giải. Vì vậy, việc đưa các cặp từ đối lập nhau như
vậy khiến cho người đọc cũng bồng bềnh, trôi theo từng lớp sóng trào
dâng, lên xuống thất thường như tâm trạng người con gái đang u.
Nhịp sóng ở đây cũng chính là nhịp lòng của nữ thi sĩ đang rực cháy
trong ngọn lửa mãnh liệt của tình u, khơng chịu n định mà đầy
biến động, khao khát. Toàn bộ những cảm xúc khi yêu ấy khiến cho
người con gái không thể hiểu nổi bản thân mình, băn khoăn thắc mắc
rồi quyết định đi tìm cho mình một đáp án. Ba hình ảnh sóng, sơng, bể
gắn kết, liên hệ với nhau chặt chẽ, sơng và bể làm nên đời sóng, sóng
chỉ thật sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm
thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá khơng gian chật hẹp để khát
khao một không gian lớn lao. Biển sinh ra sóng, khơng có biển thì cũng

chẳng có sóng, cũng như cuộc đời sinh ra tình u, khơng có cuộc đời
thì chẳng có tình u. Hành trình tìm ra tận bể chứa sức sống tiềm
tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không
chấp nhận sống một đời sống chật hẹp, tù túng nên nó làm một cuộc
hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân
Quỳnh cũng vậy, tình u của người phụ nữ cũng khơng thể đứng n
chấp nhận những gì ích kỉ, nhỏ nhen, tầm thường, mà nhân vật “em” ở
đây vươn lên trên tất cả để để tìm đến một tình u đích thực, cao cả,
rộng lớn, bao dung. Sông đổ ra biển cũng chính là một quy luật của tự
nhiên, từ bao đời nay và đến sau này vẫn thế, điều đó còn tượng trưng
cho tấm lòng thủy chung, nguyên vẹn của người con gái khi yêu. Vượt
qua chặng đường dài đằng đẵng, vượt qua những phong ba bão tố


ngồi kia, chỉ có anh là bao dung, ơm trọn lấy “em” mà vỗ về, mà yêu
thương, chỉ có khi đứng giữa biển lớn tình yêu của anh, “em” mới thấy
cảm nhận được sự bình yên, mới thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Đây
cũng chính là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người
phụ nữ thời đại, khơng phải kìm nén, chịu đựng số phận như trong thơ
bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” nữa,
cũng khơng phải phó mặc cuộc đời như ca dao xưa:
“ Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Người phụ nữ của thời đại, nắm trong tay số mệnh của mình, chủ động
tìm kiếm hạnh phúc, chủ động tìm về cội nguồn của tình u để hiểu rõ
lịng mình, nét thơ mới tràn đầy trong tư tưởng, phóng khống, dào dạt
đầy cái lạ, cái tôi đậm phong cách Xuân Quỳnh.
Nỗi khát vọng trong tình yêu của nhà thơ càng làm cho ta thêm
phần cảm phục trước sự dũng cảm của một người mang trong mình nỗi
nhớ nhung, thầm thương:

“Ơi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình u
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Sóng, sơng mn đời vẫn thế, vẫn bấy nhiêu sắc thái trên hành trình ra
biển, đây là một quy luật vĩnh hằng của tạo hóa, một sự dâng hiến,
hóa thân để quay về. Thán từ “ôi” mở đầu khổ thơ như một sự bừng
ngộ, là những cảm xúc chân thành mãnh liệt nhất trong trái tim của
người con gái khi yêu phát hiện ra hành trình của sóng. Hai trạng từ chỉ
thời gian “ngày xưa” và “ngày sau” đã kéo dài không gian của thời
gian, để khẳng định rằng tình u ấy vẫn vẹn trịn, vẫn ln bồi hồi xao
xuyến, bởi con người có thể già đi, nhưng tình yêu chỉ cần biết vun
đắp, biết làm mới mỗi ngày thì sẽ tươi trẻ mãi mãi. Nhà thơ nêu ra quy
luật của tự nhiên để nhấn mạnh đến quy luật của tình u mn đời.
Khát vọng tình yêu là khát vọng vĩnh viễn của con người, nhất là con
người ở tuổi trẻ. Khát vọng của tuổi trẻ là có được tình u mà cũng chỉ
có tình yêu mới đánh thức được tất cả những đam mê trong trái tim
tuổi trẻ. Trong quan niệm của Xuân Quỳnh, đó là khát vọng mn đời
của nhân loại, khát vọng mãnh liệt nhất của tuổi trẻ. Nhịp thơ nối dài
liên tục như khơng có sự ngừng nghỉ của những con sóng, của những
trái tim khao khát yêu. Con sóng trên đại dương là hiện hình của những
con sóng trong lịng của trái tim người con gái. Sóng và em hịa vào


nhau đồng điệu, nhưng cũng thật đẹp, bởi chính tình yêu đang tỏa
sáng.
Bằng những gì chân thành, tự nhiên nhất của một trái tim đang
yêu và khao khát được yêu, Xn Quỳnh cùng hình tượng những con
sóng hiện lên khơng những chân thực, rõ nét mà còn dung dị, mộc
mạc, đáng u làm sao. Có lẽ sơng đi mãi rồi cũng tìm được biển của

đời mình, nhưng tình yêu bắt đầu từ đâu? Cái tìm về cội nguồn của tình
yêu để giải đáp băn khoăn về bản thân mình rồi sẽ được đáp lại:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”
Hay chỉ là một tiếng sóng dào dạt vỗ về bờ đọng lại trong tâm trí ta mà
thơi?


ĐÂY THÔN VĨ DẠ - 2 KHỔ ĐẦU
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh
nhất trong phong trào Thơ mới, một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng.
Những sáng tác của ông đi vào lòng người một cách rất tự nhiên, sâu
lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ để lại
ấn tượng mạnh mẽ nhất trong lòng người đọc của Hàn Mặc Tử đó là
“Đây thơn Vĩ Dạ” với vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế và tình yêu thiên
nhiên, yêu con người sâu sắc, đặc biệt là qua hai khổ thơ đầu.
“Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên”, theo một số tài liệu,
bài thơ gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái quê ở
thôn Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dịng sơng Hương nơi xứ Huế mơ mộng
và trữ tình. Xun suốt bài thơ là bức tranh thơn Vĩ mang vẻ đẹp gần
gũi, thân thương và đây chất thơ, đồng thời, qua đó, Hàn Mặc Tử cũng
thể hiện tình yêu thiên nhiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, cháy
bỏng, một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng, một tình
u đầy đau đớn và mặc cảm.
Khơng giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán, mà đó là một
câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi tu từ khơng có người trả lời làm cho mạch cảm xúc của bài thơ
trở nên bâng khuâng khó tả. Câu hỏi vừa như lời trách cứ, nhưng lại dịu

dàng, nhẹ nhàng như một lời mời, ở đây không phải “thăm” mà là
“chơi” điều đó đã thể hiện được sự gần gũi, thân mật đối với con người
và cảnh vật thôn Vĩ Dạ. Có chăng, nhà thơ muốn mượn lời của cơ thơn
nữ Vĩ Dạ để tự hỏi chính mình rằng sao lâu q rồi mà mình khơng về
thăm nơi thơn Vĩ. Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo,
uyển chuyển, ngọt ngào như nét duyên của người con gái, lời mời ấy
làm cho những kí ức đẹp đẽ về nơi thôn quê mộc mạc sống dậy, hiện
lên trong trí tưởng tượng của nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Một bức tranh thiên nhiên quê hương hiện lên đầy thân thuộc mà giản
dị, gần gũi, vẻ đẹp thơ mộng đặc trưng của xứ Huế hiện lên qua những
nét vẽ đầy khéo léo, tinh tế của Hàn Mặc Tử. Hàng cau thẳng tắp, vươn
lên cao đón nắng mới, cái nắng tinh khơi, trong trẻo của bình minh lại
càng làm cho cảnh sắc thêm thơ mộng. Nhựa sống tràn trề, vườn cây
“xanh như ngọc”, một phép so sánh đầy độc đáo, ta tưởng chừng như


những giọt sương còn đọng lại trên lá cành là những hạt ngọc, bởi cái
nắng mới chiếu xuống, trông thật lấp lánh, thật đẹp đẽ. Từ “mướt” lại
càng tô đậm thêm sức sống của thiên nhiên nơi đây, cây cỏ mơn mởn,
mượt mà mà óng ả, chứng tỏ có bàn tay con người chăm sóc chu đáo,
chăm chỉ. Trong khung cảnh thiên nhiên đầy thi vị, tươi mới ấy, hình
ảnh khuôn mặt chữ điền hiện lên đầy ấn tượng. Người Việt Nam quan
niệm rằng, mặt chữ điền là gương mặt phúc hậu, lâu nay, “mặt chữ
điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt của đàn ông, tuy nhiên trong ca dao
miền Trung, mặt chữ điền cũng dùng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu,
khả ái của người phụ nữ. Khuôn mặt chữ điền xuất hiện đằng sau vẻ
mảnh mai, thanh tú của lá trúc lại càng thêm phần sinh động bởi sự

kết hợp giữa thiên nhiên và con người.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp đầy tươi
sáng và tràn trề nhựa sống thì đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ chợt
chùng xuống, thôn Vĩ đêm trăng mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách,
mặc cảm:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Hai câu thơ tả cảnh nhưng dường như ta thấy nặng trĩu tâm tình. Hai
câu thơ gợi cảnh chia li buồn đến não nề, gió thổi mây bay thường
quấn quýt bên nhau nhưng ở đây gió với mây lại xa lạ, chia cách đôi
ngả. Nỗi buồn bao trùm lên khắp khơng gian, day dứt đến nỗi “dịng
nước” vơ tri vơ giác cũng trở nên buồn thiu, dịng nước chảy lững lờ
hay chính là dịng đời mệt mỏi, cay đắng đang chảy vào lịng Hàn Mặc
Tử khiến cho ơng chìm vào miên man của sự đau đớn. Hình ảnh “hoa
bắp lay” nhẹ nhàng trong gió gợi lên sự hiu hắt, trống vắng, quả thật,
đúng như lời Nguyễn Du từng viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nỗi buồn ấy càng nặng nề hơn khi ta nhìn thấy hình ảnh ánh trăng của
xứ Huế:
“Thuyền ai chở bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Ánh trăng là hình ảnh biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh
phúc và thanh bình. Đại từ phím chỉ “ai” trong “thuyền ai” không mang
sắc thái ý nghĩa mơ hồ nữa mà nó bộc lộ tâm trạng bâng khuâng, ngỡ
ngàng đồng thời chứa động khao khát giao cảm của thi nhân. Chỉ có
trong thơ mới có sơng trăng và hình ảnh thuyền chở trăng thi vị đến
vậy. Hình ảnh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử là hình ảnh đầy độc đáo
và rất lạ, gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả đang đắm chìm



trong sự bồng bềnh thơ mộng vừa thực vừa ảo. Đặt trong hoàn cảnh
thực tại của nhà thơ, khi căn bệnh đang ở giai đoạn trầm trọng thì
trăng cịn là nhân chứng cho tình u, hạnh phúc lứa đơi. Câu hỏi tu từ
“Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn chứa bao nỗi niềm khắc khoải chờ
mong của nhà thơ, niềm hi vọng vừa sáng lên, nhưng lại chợt mông
lung, xa vời. Trong câu thơ này, từ “kịp” rất đặc biệt, nó khơng chỉ tạo
điểm nhấn cho câu thơ mà còn hé mở cho ta thấy một cuộc đời đầy
mặc cảm, một cuộc sống đầy vội vàng chạy đua cho kịp với thời gian ít
ỏi cịn lại. Mạch cảm xúc chuyển biến đột ngột từ niềm vui của hi vọng
gặp gỡ sang trạng thái lo âu đau buồn khi nhà thơ nhớ và mặc cảm về
số phận bất hạnh của mình, đó cũng chính là tình u, u cuộc sống
mãnh liệt, tha thiết trong tâm hồn của Hàn Mặc Tử, niềm mong mỏi
gặp được người mình u giờ chỉ cịn là tha thiết chờ đợi trong vô vọng.
“Đây thôn Vĩ Dạ” bằng những cảm xúc chân thành, tình yêu, nỗi
niềm khao khát yêu cuộc sống, yêu quê hương đã được thể hiện rõ nét
và đặc sắc với ngôn từ gần gũi, cơ đọng, hàm súc mang lại cảm giác
gợi hình gợi cảm cao đã làm nên thành công của bài thơ. Giọng điệu
tha thiết, mạch cảm xúc có sự chuyển biến khéo léo, với nhiều câu hỏi
tu từ ẩn chứa trong từng câu thơ là những tâm tư, tình cảm sâu nặng
nhất của Hàn Mặc Tử. Tình yêu của Hàn Mặc Tử thật đẹp, nhưng cũng
thật buồn, thật đau khổ, da diết.


8 CÂU ĐẦU VIỆT BẮC
Bàn về cảm xúc trong thơ , Tố Hữu nhận định rằng: “Thơ chỉ bật
ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy”, thơ là biểu hiện cao nhất
của sự thăng hoa tâm hồn, thăng hoa cảm xúc, mà nghệ thuật thì ln
xuất phát từ thực tiễn, kí ức có rung động, có cảm xúc thì mới bật ra
được những lời thơ hay. Có lẽ vì thế mà khi đến với bài thơ “Việt Bắc”

của Tố Hữu, ta luôn bắt gặp cảm xúc đong đầy, xun suốt thành một
mạch vẹn trịn, bởi bài thơ chính là lời chia tay của người lính với Việt
Bắc – căn cứ địa gắn bó suốt mười lăm năm, nơi lưu giữ toàn bộ những
kỉ niệm một thời vàng son, nơi có khó khăn, gian khổ nhưng chưa từng
vì thế mà chịu khuất phục, nơi có những người dân thân thiện, gần gũi
đong đầy yêu thương. Tình yêu ấy, nỗi niềm ấy đã tạo thành “cuộc
sống thật tràn đầy” mà thể hiện sắc nét hơn cả đó là khung cảnh chia
li đầy lưu luyến, cảm xúc qua tám câu thơ đầu.
“Việt Bắc” được viết theo kết cấu đối đáp của ca dao trữ tình với
sự luân phiên của người ở lại và người ra đi cùng với thể thơ lục bát của
dân tộc đã thành công tái hiện lại cuộc chia tay giữa người ra đi với
người ở lại. Bao trùm lên cả bài thơ là nỗi nhớ, với nhiều cung bậc đa
dạng, nhớ về con người, nhớ về thiên nhiên và chặng đường dài mười
lăm năm trời gắn bó với Việt Bắc thân thương, nỗi nhớ ấy được chắp
bút bởi chính người lính nên nó càng chân thành, tự nhiên, sâu sắc hơn
cả. Là một người thư kí ghi lại chân thực toàn bộ cảnh chia tay bịn rịn,
lưu luyến, Tố Hữu cịn thổi vào đó một hồn thơ rào rạt cảm xúc qua
ngòi bút đầy khéo léo, tinh tế, mà tất cả những nỗi niềm ấy càng được
khắc sâu hơn qua câu hỏi tu từ gợi nhiều suy nghĩ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Câu hỏi vang lên đầy tình tứ, tha thiết khiến cho tồn bộ những kí ức,
kỉ niệm một thời chợt ùa về, tràn đầy trong tâm tưởng, cánh cửa bước
vào miền kí ức ấy mở ra để người đọc bước vào mà chiêm ngưỡng, mà
đồng cảm. Mình và ta là một cách xưng hơ giàu ý nghĩa, mình và ta
không phải là nhân vật cụ thể nhưng lại rất giàu sức gợi, có lúc mình là
để chỉ những người chiến sĩ cách mạng, ta để chỉ những người dân hồn
hậu ở Việt Bắc, nhưng cũng có lúc mình lại là “ta”, có khi “ta” lại là
mình, sự thay đổi linh hoạt trong ngôi kể không những mang lại cho bài
thơ phong vị ca dao mà cịn góp phần thể hiện tình cảm giữa người ra

đi và người ở lại, giữa qn và dân, gắn bó khăng khít, sâu nặng, bền
chặt với nhau, tuy hai mà một. Mười lăm năm là quãng thời gian mà
những người chiến sĩ hoạt động cách mạng tại chiến khu Việt Bắc, một
quãng thời gian đủ dài để người ta khắc ghi những kỉ niệm vào trong
trái tim, huống chi, đây lại là quãng thời gian mà những người chiến sĩ
ấy được sống với nhiệt huyết, lí tưởng của đời mình, bên cạnh những


người dân lương thiện, hiền lành gắn bó, “thiết tha mặn nồng”, quãng
thời gian ấy đã trở thành một phần của trái tim, mãi khơng thể qn.
Sự gắn bó keo sơn ấy cũng chính là tấm lịng thủy chung son sắc của
người chiến sĩ luôn hướng tới, tin tưởng cách mạng và nhân dân, một
trong những phẩm chất đáng quý của họ.
Mạch cảm xúc tiếp tục được dâng trào trong câu hỏi tu từ thứ
hai:
“Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn”
Một lời ướm hỏi đầy khéo léo, nghệ thuật gợi nhắc cho những người
chiến sĩ nhớ đến cội nguồn cách mạng, đạo lí truyền thống và cũng
chính là nhớ về quãng thời gian đã từng trải qua đầy ắp kỉ niệm nơi
Việt Bắc xa xơi. Sơng và núi thì đi đâu ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp,
câu hỏi tu từ như muốn nhắc nhở rằng người chiến sĩ cách mạng hãy
luôn ghi nhớ ở trong lịng mình tất cả từ khó khăn đến thắng lợi, nơi
nào cũng có người dân Việt Bắc làm chỗ nương tựa, bất kì một chặng
đường nào, lối đi nào cũng đều nhờ Đảng sáng soi, chỉ lối. Cấu trúc
“Mình về mình có nhớ...” kết hợp với điệp từ “nhìn”, “nhớ” đã thành
cơng nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại, gợi lên trong tâm trí của người
đi nhiều suy ngẫm, nỗi nhớ cũng dường như đang bao trùm lên tồn bộ
khơng gian, đong đầy.
Nét đặc sắc trong “Việt Bắc” là ở chỗ, Tố Hữu không những ghi

lại chân thực khung cảnh chia ly mà ơng cịn biến khung cảnh ấy trở
nên hữu duyên, hữu hình, hữu ý qua ngịi bút trữ tình chính trị của
mình. Lời đáp của người ra đi ở đoạn thơ tiếp theo lại càng góp phần
thể hiện được điều đó, hai đoạn thơ liền mạch mà lại rất giàu cảm xúc,
giàu âm điệu:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
Mỗi một cuộc chia li đều sẽ để lại trong lịng con người ta chút gì đó
lắng đọng, một chút suy tư, cuộc chia tay sau quãng thời gian dài gắn
bó lại càng lưu luyến, khơng nỡ hơn bao giờ hết. Đại từ phiếm chỉ “ai”
ở đây chính là tiếng lòng của những người dân Việt Bắc, họ như muốn
níu kéo, giữ chân những người chiến sĩ cách mạng ở lại, âm thanh ấy
vẫn nghe thấy mỗi ngày, sao hôm nay lại thiết tha, lại não nề, muộn
phiền đến thế. Người ra đi tuy không trực tiếp trả lời câu hỏi nhưng ta
có thể cảm nhận được qua từ “bâng khuâng” – buồn nhớ lâng lâng,
không rõ ràng, xen lẫn với ý nghĩ luyến tiếc ngẩn ngơ và “bồn chồn” –
một trạng thái nôn nao, thấp thỏm, không yên lịng, làm sao có thể nỡ
rời đi nơi mà gắn bó một thời vàng son, nghe những âm thanh ấy, bước
chân cũng trở nên lúng túng, ngập ngừng. Nhưng sự nghiệp cách mạng


vẫn cịn dang dở, lí tưởng chưa hồn thành, người lính phải tạm chia
tay Việt Bắc, gác lại những tâm tư ấy để ra đi, vì đất nước, vì nhân dân,
vì một cuộc sống hịa bình, hạnh phúc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”
Áo chàm là chiếc áo màu nâu của những người nông dân quanh năm
chăm chỉ, cần mẫn với việc đồng áng, đây cũng là chiếc áo mang nét
đẹp đặc trưng, truyền thống của vùng núi Việt Bắc, có chăng những
người dân Việt Bắc đã gửi tặng lại cho người chiến sĩ những chiếc áo

chàm để làm vật kỉ niệm, trao cho họ chiếc áo cũng là trao cả niềm tin,
niềm hi vọng của một cuộc sống sung túc, ấm no hơn. Hành động cầm
tay nhau lại càng khẳng định được sự quấn quýt, quyến luyến của
người ở lại và người ra đi, họ cầm tay nhau nhưng khơng biết nói gì, có
lẽ là khơng cần phải nói gì, bởi họ đã thấu hiểu nhau nên chỉ cần một
ánh nhìn thơi cũng đủ hiểu, chỉ cần cái nắm tay cũng đã cảm nhận
được hết tất cả những gì mà họ muốn truyền đạt. Khơng khí trở nên im
ắng đến lạ thường, đây cũng là lúc mà mọi người lặng thinh để lưu giữ
toàn bộ kỉ niệm, giây phút lắng đọng trong tâm hồn để rồi bồi hồi, xao
xuyến. Cảnh chia tay thật xúc động, nghẹn ngào, nhịp thơ ở đây cũng
chính là nhịp điệu của tâm hồn, thoáng chút ngập ngừng, bồn chồn,
nhớ nhung, bịn rịn.
Sự thân thiết, lưu luyến giữa người ở lại và người ra đi trong cuộc
chia tay lịch sử tại núi rừng Việt Bắc qua ngòi bút của Tố Hữu hiện lên
đầy cảm xúc, lối đối đáp trong ca dao kết hợp với thể thơ lục bát, câu
hỏi tu từ, phép điệp cấu trúc, điệp ngữ đã khiến cho những vần thơ trở
nên sinh động, giàu sức gợi hơn cả. Miền kí ức của người chiến sĩ nói
chung hay của chính Tố Hữu nói riêng thật đẹp, giản dị nhưng sâu sắc,
mang đậm phong cách của người “bộ đội cụ Hồ”,tính dân tộc sâu sắc,
hình ảnh về cuộc chia tay để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc,
làm hiện lên một Tố Hữu chân thành, nồng hậu, gắn bó sâu sắc và
cũng u nhân dân vơ cùng.


9 CÂU ĐẦU ĐẤT NƯỚC
Mỗi một dịng sơng, ngọn núi, từng tấc đất, biển lớn xa ngoài
khơi, tất cả đều là dáng hình của đất nước mà chúng ta đã gắn bó,
nguyện dâng hiến cả cuộc đời. Chúng ta yêu đất nước, yêu quê hương
mình với một tình yêu sâu nặng và thiết tha, nhưng dường như không
mấy ai đi quay trở về để tìm hiểu cội nguồn của đất nước rốt cuộc được

bắt đầu từ đâu, bởi lẽ, đất nước là máu xương, là chính cuộc đời của ta,
cịn tình u đất nước thì ln hiện hữu, ln ấp ủ như một ngọn lửa
không bao giờ tắt trong trái tim. Nhưng đến với bài thơ “Đất nước” của
Nguyễn Khoa Điềm, ta được nhà thơ dẫn đi từ cội nguồn đất nước trải
qua quá khứ huy hoàng để hướng tới tương lai với niềm tin mãnh liệt,
hình ảnh đất nước hiện lên đẹp đẽ với chiều sâu trên nhiều bình diện,
độc đáo hơn cả đó là chín câu thơ đầu tiên.
“Đất nước” được trích trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng”
với thể thơ tự do được vận dụng một cách sáng tạo, phóng khống,
khơng bị bó buộc về số chữ trong câu, số câu trong một bài vừa tạo ra
nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy cảm
xúc được phát triển một cách tự nhiên, bài thơ là cái nhìn mới mẻ về
đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân, hình
ảnh đất nước hiện lên trải dài từ không gian đến thời gian để từ đó nêu
lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ - những con
người nắm trong tay số phận của đất nước. Chín câu thơ đầu là hình
ảnh đất nước được cảm nhận về các phương diện khác nhau nhưng
luôn rất chân thực và gần gũi:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay
kể”
“Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta – những người dân
đất Việt, khi chúng ta có thể nhận thức về những thứ xung quanh
mình, cũng là lúc ta nhận ra “đất nước đã có rồi”. Dù chưa đủ trí tuệ để
hiểu đất nước với những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ,
chủ quyền nhưng mỗi chúng ta ai cũng cảm nhận được đất nước là một
cái gì đó rất gần gũi, rất thân thương. Đất nước được hình thành, ni
dưỡng từ những gì gần gũi, dung dị nhất, đất nước xuất hiện trong
những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể để dỗ dành, đưa con vào
từng giấc ngủ sâu, mỗi một ngõ ngách của tuổi thơ, đều gắn liền với

đất nước, đất nước cùng ta lớn lên qua những câu chuyện du dương
mang cho ta niềm tin vào tương lai tươi sáng. Người mẹ Việt Nam luôn
hồn hậu mà chân thành, nồng nhiệt, những câu chuyện được kể bởi mẹ
ln có sức tác động mạnh mẽ đến nhận thức của con trẻ, đây cũng là
một trong những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, qua lời
kể mà dần hình thành lên đất nước trong trí óc của ta.


Đất nước chẳng đâu xa vời, đất nước ta được hình thành từ những
truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Đất nước thật giản dị, quen thuộc q! Ơng cha ta vẫn thường nói
“miếng trầu là đầu câu chuyện”, miếng trầu mà bà ăn là hình ảnh thân
quen trong ánh mắt trẻ thơ từ bao đời nay, miếng trầu là sự khơi mở
tình cảm khiến người với người cởi mở, gần gũi với nhau hơn, sự bắt
đầu của đất nước ta là từ truyền thống ăn trầu ấy – thứ đã trở thành
nếp sống, trở thành nét đẹp trong văn hóa dân tộc. Đất nước được nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận mang một sự sống của con người,
nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” như thể đây chính là tên riêng
của người, và chính vì thế mà đất nước cũng “lớn lên”, chiều dày lịch
sử dân tộc Việt Nam luôn phải đối mặt với chiến tranh tàn khốc, nhưng
người dân Việt Nam thì chưa từng chùn bước hay chịu đầu hàng, phó
mặc số phận, người Việt Nam hiên ngang, dũng cảm, gần gũi, gắn bó
với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên mà cứu nước: “trồng tre” để đánh
giặc. Cây tre vốn là một trong những biểu tượng để khắc họa phẩm
chất của người dân Việt Nam, tre dù mọc ở nơi cằn cỗi, nghèo chất
dinh dưỡng nhưng vẫn luôn vươn cao, thẳng tắp, người Việt Nam cũng
vậy, họ hiên ngang, đứng đắn, chân thực mà chất phác, giản dị. Câu
thơ gợi cho chúng ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng

đánh đuổi giặc Ân thuở xa xưa, có thể thấy, truyền thống yêu nước đã
được hình thành từ rất lâu, có lẽ được hình thành cùng đất nước mà
đến ngày nay vẫn luôn thiết tha, nồng nàn, không ngừng phát triển.
Đất nước luôn song hành cùng với những con người nơi đây, mà
trong tâm tưởng của chúng ta, đất nước là nơi có cha mẹ, có tình
thương của cha mẹ:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Mẹ là một phần của đất nước trong lịng chúng ta, mẹ là người hình
thành nên đất nước trong trí óc ta, lại là người tơ màu cho đất nước với
những hương vị khác nhau. Người phụ nữ búi tóc sau đầu là hình ảnh
mang nét đẹp truyền thống, một vẻ đẹp hiền hậu, duyên dáng, đất
nước lại một lần nữa được khắc họa bởi những nét đẹp truyền thống.
Đất nước là nơi có tình u của cha mẹ, câu thơ gợi từ một câu ca dao:
“gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”, ý thơ giản dị mà ý nghĩa vơ
cùng sâu sắc. Tình u được sinh ra và ni dưỡng từ trong cái nghèo
khó vì vậy nên càng đáng quý, đáng trân trọng hơn cả, tình u ấy sâu
sắc và bất diệt. Đó cũng chính là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thủy


chung đã trở thành truyền thống thiêng liêng được lưu truyền bao đời
nay.
Đất nước còn được bắt nguồn từ truyền thống lao động, khó khăn,
vất vả nhưng ln cần mẫn, chăm chỉ miệt mài:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”
Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt.
Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngơi nhà tổ

ấm cho mọi gia đình đồn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu
dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình lâu dài, nhờ
bàn tay lao động xây dựng của con người từ thưở sơ khai, khi con người
tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương. Con
người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo, tạo
nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nước no ấm. Lao động
chưa bao giờ là dễ dàng, quá trình lao động lúc nào cũng là một chặng
đường đầy vất vả, câu thơ cũng dạy ta rằng, để có hạt gạo trắng ngần
là cả một quá trình cần sự khéo léo, bàn tay cần cù của người nông
dân. Gợi nhắc ta nhớ đến câu ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Cội nguồn của đất nước gần gũi, quen thuộc nhưng cũng rộng lớn quá,
đi từ trong câu chuyện của mẹ kể cho đến những truyền thống của dân
tộc và lịch sử dựng nước, giữ nước rồi đến quá trình lao động để phát
triển đất nước mà có thể nó cịn bao la hơn nữa, vì vậy nên nhà thơ đã
kết luận nguồn gốc của đất nước bằng cách: “Đất Nước có từ ngày
đó...”, một câu thơ giàu sức lắng đọng, để lại nhiều suy ngẫm.
Tìm về cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về
sự hình thành qua nhiều bình diện, tuy nhiên, ln rất dung dị, chan
hịa, gần gũi. Ẩn trong đó là tình u nước thiết tha, niềm tự hào về đất
nước thân thương, gắn bó cả đời. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu
văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất
liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen
thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều
đó khơng đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải là



một mơ-túyp sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng “đất
nước của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần
từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của
tác phẩm.
Chín câu thơ đầu với những cảm nhận về đất nước một cách đầy
mới mẻ và độc đáo khiến cho hình ảnh đất nước hiện lên thật đời
thường nhưng cũng rất phi thường, đất nước ta được dựng xây và phát
triển bởi nhân dân ta, những điều giản dị nhất cũng là những điều đẹp
đẽ nhất để tô màu cho bức tranh đất nước thêm sinh động, đất nước
giàu tính nhân văn và tác động mạnh mẽ đến nhận thức của ta, cũng
là lời thông điệp dành cho những người dân Việt Nam, đặc biệt là thế
hệ trẻ, nhận thức đúng đắn về nguồn cội của đất nước để cống hiến,
để sống cho đất nước, để hóa thân cho dáng hình xứ sở, để làm nên
Đất nước mn đời.


CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Cội nguồn của nghệ thuật là những điều giản dị, quen thuộc nhất
trong cuộc sống được thêu dệt qua ngòi bút đa chiều, đa nghĩa mà
hàm súc của người nghệ sĩ. Bất kì một nhà văn nào cầm bút lên đều
hướng tới cuộc sống để sáng tạo, để tìm tịi, thấu hiểu những điều chân
thực mà con người ta ít cảm nhận được trước mn hình vạn trạng của
cuộc đời rồi đặt hết tâm tư, tình cảm của mình vào đó để được gặp gỡ
những tâm hồn đồng điệu, cất lên một tiếng cảm thán. Chẳng những
thế mà trong “Tiếng nói của văn nghệ” Nguyễn Đình Thi đã đưa ra
quan niệm rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng vật
liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ khơng những ghi lại cái đã có rồi
mà cịn muốn nói một điều gì mới mẻ”. Thấm nhuần tư tưởng nghệ
thuật sâu sắc của Nguyễn Đình Thi, ta cảm nhận rõ ràng được sự đúng

đắn ấy qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn
Minh Châu, một tác phẩm đem đến cho ta khám phá mới lạ về cái đẹp,
về nghệ thuật và nhân sinh.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đậm phong cách tự sự
- triết lí của Nguyễn Minh Châu, truyện kể lại chuyến đi thực tế của
một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về
nghệ thuật và cuộc đời. Được sáng tác vào thời kì đất nước đang trên
đà đổi mới, cuộc sống còn tồn tại nhiều mặt trái, góc khuất khiến con
người ta băn khoăn, vì thế nên câu chuyện mang một màu sắc mới lạ
và hấp dẫn hơn cả, qua đôi mắt của người nghệ sĩ cùng cách nhìn nhận
vấn đề có chiều sâu, Nguyễn Minh Châu cùng “Chiếc thuyền ngồi xa”
khơng chỉ tái hiện được một cách chân thực, sinh động của hiện thực
cuộc sống của những người dân hàng chài mà còn đưa ra một thơng
điệp, một nỗi trăn trở về chính số phận con người. Tất cả những điều
đó được thể hiện rõ nét qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng
chài lam lũ, vất vả, chịu tủi nhục nhưng luôn hết lịng vì chồng con.
“Chiếc thuyền ngồi xa” được khai thác từ một tình huống truyện
độc đáo. Theo đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng
ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch cuối năm. Anh
bắt gặp cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm đẹp như
tranh vẽ mà có lẽ suốt cả một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ anh thấy
một cảnh đắt trời cho như vậy. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng
đã chứng kiến một cảnh tượng không đẹp của cuộc sống. Hai vợ chồng
hàng chài bước xuống, người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những
ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không thể ngờ rằng sau những
cảnh đẹp như mơ lại là bao ngang trái, bao nghịch lí của đời thường.
Chính tình huống truyện độc đáo này đã gợi lên trong lòng người đọc
những tò mò, và hình ảnh người đàn bà hàng chài dần được hé lộ, khắc
họa lên với hình tượng cao cả như bao người phụ nữ, bao người mẹ
thương con sâu nặng khác trong nét đẹp truyền thống của người phụ



nữ Việt Nam qua cái nhìn của nghệ sĩ Phùng. Nguyễn Minh Châu gọi chị
là “người đàn bà” – một cách gọi phiếm định. Có lẽ đây là một dụng ý
nghệ thuật của nhà văn, số phận bất hạnh ấy khơng phải của riêng chị,
mà đó có thể là của biết bao người đàn bà như thế nữa. Người đàn bà
hàng chài được miêu tả với vẻ ngoài trạc bốn mươi, chị mang “một
thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch”. Đây đều là những chất liệu rất đỗi bình thường,
quen thuộc của cuộc sống, nhà văn không tô vẽ, không khoa trương về
vẻ đẹp nhân vật trong truyện của mình, bởi hiện lên trong bức tranh
cuộc sống vùng biển, ta thấy người đàn bà hàng chài trơng thật xấu xí,
khn mặt rỗ, tái ngắt và mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới,
một hình ảnh gợi cho ta liên tưởng về cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Chị
là một người phụ nữ đau khổ, là nạn nhân của sự lạc hậu đói nghèo,
thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng. Chị không chối bỏ, khơng trốn tránh khi bị q tịa hỏi
mà thành thật trả lời:
“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn
ông thuyền khác uống rượu...Giá mà lão uống rượu... thì tơi cịn đỡ
khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ
mà đánh...”
Ngay từ cách xưng hô, ta đã thấy chị là một người thấu hiểu lẽ đời, tuy
học ít mà tỉnh táo và sáng suốt. Người đàn bà làng chài ấy vì yêu con,
thương con nên cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách
bình tĩnh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi
như một phần của cuộc đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của
người đi biển đánh cá phải chấp nhận việc đương đầu với sóng to, gió
lớn. Một từ “xin” đã đủ để khắc họa lên sự nhẫn nhục lớn lao của chị,
cũng chính vì thế mà Đẩu và người nghệ sĩ Phùng không thể hiểu nổi

làm sao mà một người phụ nữ “chân yếu tay mềm” có thể gắng gượng
trước những trận địn roi đau đớn của người đàn ông với sức chịu đựng
ghê gớm đến như vậy.
Bằng tấm lòng chân thành cao cả của một người làm mẹ, chị đã
khiến cho Đẩu và người nghệ sĩ Phùng hiểu ra cội nguồn của sự nhẫn
nhục cam chịu ấy, đó chính là tình u của người mẹ dành cho con của
mình, cũng chính là trách nhiệm, là trọng trách, bổn phận của một
người vợ, một người mẹ trong gia đình: “Là bởi vì các chú không phải là
đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất cả của người
đàn bà trên một chiếc thuyền khơng có đàn ơng...”. Thương con, sợ
con có những hành động nơng nổi với bố mình, chị đã gửi thằng Phác
cho bố ruột mình ni. Khơng muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh đập
mẹ, chị xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh, khi khơng có mặt con. Tất
cả những nỗi niềm ấy, đều được xuất phát từ việc suy nghĩ cho con,
người đàn bà ấy khơng màng đến bản thân mình sẽ đau đớn ra sao, sẽ


bị hành hạ đến nhường nào, mà chỉ lo sợ con mình bước vào cái sai
như cha của nó. Đó cũng là một cách cư xử rất nhân văn, giàu lòng
nhân đạo mà Nguyễn Minh Châu đưa vào trong nhân vật của mình.
Người đàn bà làng chài hiểu rằng, cuộc sống của mình bất hạnh,
chịu nhiều khổ đau khi chung sống với người chồng vũ phu, nhưng chị
cũng hiểu được rằng, cuộc sống còn càng khốn cùng hơn nếu thiếu đi
chỗ dựa là một người đàn ông: “Mong các chú cách mạng thông cảm
cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tơi cần phải có người đàn
ơng để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một
sấp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Khơng chỉ hiểu mình, chị
hiểu cả tấm lịng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình đau
khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung, chịu đau khổ để cho đàn
con được nuôi dưỡng bằng một mái ấm gia đình hồn chỉnh mà khơn

lớn, trưởng thành. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như
những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng
trên sóng nước, gia đình trên dưới chục đứa con, nếu khơng nghe
những tâm tình ấy, khơng thấu hiểu được hết những nỗi niềm ấy của
chị, có lẽ chúng ta cũng mãi khơng thể hiểu được lí do người đàn bà
hàng chài chấp nhận sống một cuộc sống như vậy. Nhà văn khơi lên
một vấn đề nan giải qua chính hiện thực về cuộc sống của người đàn
bà hàng chài nhưng cũng rất tinh tế khi để người đọc tự nhìn nhận và
phát hiện ra thơng điệp đầy ẩn ý phía sau câu chuyện, đó là một nhận
thức đầy mới mẻ mà cả Đẩu và nghệ sĩ Phùng chưa từng nghĩ đến,
cũng là một quan niệm nhân sinh rất sâu sắc.
Trong cái gai góc của hiện thực, điều trái ngược hoàn toàn với vẻ
đẹp nghệ thuật trong tâm tưởng của nghệ sĩ Phùng, ta lại tìm thấy một
nét đẹp trân quý, nét đẹp của cuộc sống, gắn liền với hiện thực, vẻ đẹp
chân thực khác xa với vẻ đẹp của những bức tranh nghệ thuật trau
truốt thêu dệt tỉ mỉ. Người đàn bà hàng chài chọn sống một cuộc đời vì
con “Đàn bà ở thuyền chúng tơi phải sống cho con chứ khơng thể sống
cho mình như ở trên đất được!”, cuộc sống vốn dĩ có nhiều bất trắc,
khó khăn, cuộc sống của những người đàn bà hàng chài ven biển
quanh năm đều đối mặt với những khó khăn cịn nhiều hơn, đó là hiện
thực của cuộc sống, nhưng cuộc sống muôn màu muôn vẻ, chỉ cần con
người ta chấp nhận sống với dáng vẻ như vậy, thì đó cũng là một loại
hạnh phúc. Huống hồ, người đàn bà hàng chài yêu thương và trân
trọng cuộc sống đạm bạc ấy của gia đình, vì tình thương nên chị mới
nhẫn nhịn, mới hi sinh để giữ gìn tổ ấm, hơn ai hết, chính chị hiểu rằng,
chồng mình khơng phải là một người xấu, tuy cục tính nhưng chồng chị
là một người hiền lành, vì cuộc sống vất vả, áp lực kinh tế nặng nề đè
nén nên chồng chị mới trở thành một người vũ phu, hay đánh đập,
hành hạ vợ mình. Thế nhưng trong cuộc sống, “ở trên chiếc thuyền
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tơi sống hịa thuận, vui vẻ”, khơng

phải điều gì q xa xơi, hạnh phúc gia đình mới là bức tranh nghệ


thuật đẹp nhất của đời người, chẳng cần như nghệ sĩ Phùng, tìm kiếm
vẻ đẹp nghệ thuật xa vời, ta tìm thấy vẻ đẹp của nghệ thuật sáng ngời
hiện lên trong chính bức tranh ảm đạm của cuộc sống nghèo khổ lúc
bấy giờ. Trên khuôn mặt của người đàn bà hàng chài xấu xí “chợt ửng
sáng lên như một nụ cười” khi nghĩ về khoảnh khắc gia đình hạnh phúc
quây quần bên nhau và khi chị nghĩ về lúc ngồi nhìn đàn con được ăn
no là một hình ảnh đắt giá trong tác phẩm, gia đình đầm ấm, hạnh
phúc khơng chỉ là niềm ước ao mà còn là điều mà chị khao khát, quý
trọng và thực hiện nó bằng tất cả khả năng của mình. Vốn dĩ, nghệ
thuật khơng xa rời cuộc sống cũng bởi lẽ vậy, từ chính số phận của
người đàn bà hàng chài, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một
thông điệp cho chúng ta: hãy nhìn nhận sự việc một cách chân thành
và sẵn sàng thấu hiểu, sự thật về cuộc sống không thể được cảm nhận
một cách đơn giản, máy móc mà cần ta đi sâu vào tìm tịi, khám phá
những câu chuyện ẩn chứa bên trong. Cuộc sống không phải lúc nào
cũng như ý muốn, ta đơi khi phải học cách thích nghi và chấp nhận
sống với những điều bất hạnh, khó khăn tuy nhiên hãy không ngừng
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách khắc
họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất
linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm
kết hợp với giọng điệu giàu tính chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp
với tình huống nhận thức đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, nhà văn đã thể hiện
một cái nhìn đầy nhân đạo sau câu chuyện buồn về cuộc đời của người
đàn bà hàng chài chính là vẻ đẹp của tình mẫu tử, là sự hi sinh nhẫn
nhịn, là lòng vị tha và sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời, bản lĩnh của người

phụ nữ hiện đại. Đó là “hạt ngọc ẩn dấu” trong cái lấm láp đời thường
mà người nghệ sĩ phải đi sâu tìm hiểu và khám phá, ca ngợi và nâng
niu.
Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển nhưng ta
không khỏi băn khoăn, day dứt, làm thế nào để số phận những người
phụ nữ như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Có
chăng chỉ cần có động lực, niềm tin và tình u thì con người ta vẫn từ
cái khổ tìm thấy hạnh phúc của đời mình?


CHIỀU TỐI
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Bác
không chỉ là một nhà chính trị gia sắc sảo, một vị tướng tài ba mà còn
là một vị thi sĩ đầy sáng tạo, sâu sắc. Sinh thời, Bác đã viết nhiều tác
phẩm, mỗi một tác phẩm lại mang một màu sắc, ý nghĩa riêng, và một
trong những tác phẩm hay nhất của Người đó tập thơ “Nhật kí trong
tù” đặc biệt là bài thơ “Chiều tối” – một bài thơ thể hiện rõ chất trữ tình
và chất “thép” trong thơ của Bác.
Tập thơ “Nhật kí trong tù” được viết trong những ngày tháng mà
Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vơ cớ, trong vịng mười
ba tháng ở tù, tuy bị đày ải vô cùng cực khổ nhưng Bác vẫn làm thơ.
“Nhật kí trong tù” gồm 134 bài thơ được viết bằng chữ Hán, trong đó
bài thơ “Chiều tối” là bài thơ thứ 31 của tập thơ. “Chiều tối” được gợi
cảm hứng từ chuyến hành trình Bác bị áp giải chuyển lao từ Tĩnh Tây
đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942, bài thơ không chỉ là bức tranh
thiên nhiên đầy thi vị mà đó cịn là bức tranh về con người, mang tầm
tư tưởng, ý chí của một nhà thơ, một người chiến sĩ lạc quan, yêu đời
vượt qua khỏi gian lao xiềng xích để hướng đến sự sống, ánh sáng và
tương lai.
Cảnh chiều tối là cảnh quen thuộc trong thi ca, khung cảnh buổi

chiều về tối thường dễ sinh tình nên vì thế, buổi chiều đã đi vào bao
áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ kiệt tác. Thơ chiều cổ điển
thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của
thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Đến với “Chiều tối”
của Hồ Chí Minh ta cũng bắt gặp được nỗi buồn thấm thía bao trùm lên
cảnh vật như vậy chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng
trưng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên khơng”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng”
Cánh chim và chịm mây là hình ảnh quen thuộc thường xuất
hiện trong thơ tả cảnh chiều, cánh chim bay lượn trên bầu trời cao rộng
đã mở ra một không gian rộng lớn bao la với chiều cao mang tầm vóc
vũ trụ. Cùng tả về cảnh cánh chim bay trên bầu trời, trong “Tràng
Giang” Huy Cận lại viết “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”,
Nguyễn Du tả cảnh chiều trong truyện Kiều như sau: “Chim hơm thoi
thót về rừng”, hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan lại viết: “Ngàn mai
gió cuốn chim bay mỏi”, dường như, thơ tả cảnh chiều mà thiếu đi
cánh chim thì bức tranh thiên nhiên sẽ thật trống trải, chưa hoàn thiện.
Nếu như các nhà thơ khác khi tả về cánh chim đều là khơng có điểm
dừng, vơ tận, xa xăm, thì trong thơ của Hồ Chí Minh, cánh chim đó lại
có phương hướng, có điểm dừng, mục đích bay rõ ràng. Bởi, nghệ thuật
luôn phản ánh đúng tâm tư của con người, không cần phải che đậy,
dấu giếm, ta dường như bắt gặp ở đó hình ảnh Bác Hồ đã có được lí
tưởng sống của đời mình, tìm thấy con đường cứu nước và Bác đang
thực hiện điều đó với một niềm tin vững chắc, có phương hướng rõ



ràng. Hình tượng cánh chim trong thơ Bác khơng chỉ được quan sát ở
trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa mà còn được cảm
nhận từ rất sâu trạng thái bên trong, cánh chim mỏi tìm về với tổ ấm,
cịn người tù thì mỏi mệt sau một ngày đường mà vẫn chưa có chỗ
dừng chân, chịm mây cơ đơn chầm chậm trơi giữa bầu trời cao rộng,
cịn người tù thì cơ đơn giữa nơi đất khách q người, ngoại cảnh đã
thể hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình, nỗi cơ đơn, sự mệt mỏi ấy đã
nhuốm màu tâm trạng lên từng cảnh vật, cảnh thiên nhiên đẹp nhưng
trĩu nặng dư ba. Trong hoàn cảnh như vậy, Bác vẫn có thể ngắm nhìn,
thưởng thức cảnh thiên nhiên, đó là cái tài ba của một người chiến sĩ,
thi sĩ giàu nghị lực, ý chí phi thường. Chỉ vài nét chấm phá của bút
pháp ước lệ tượng trưng, cảnh thiên nhiên hiện ra đầy thi vị, chỉ bằng
những hình ảnh hết sức quen thuộc, giản dị, cánh chim và chòm mây
trong “Chiều tối” được cảm nhận qua ánh mắt trìu mến của người nghệ
sĩ tài năng, ung dung hòa hợp với thiên nhiên bởi vậy nên cảnh thơ rất
có hồn, tuy lời thơ dịch khá uyển chuyển nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi
trôi nổi của áng mây khi người dịch bỏ đi chữ “cô” và chưa thể hiện hết
được ý nghĩa của từ láy “mạn mạn”.
Nếu như “Chiều tối” chỉ mang vẻ đẹp cổ điển, thì chắc chắn bài
thơ sẽ bị lẫn với hàng nghìn bài thơ khác, thú vị là ở chỗ, bài thơ còn
lung linh một sức sống hiện đại. Chính màu sắc hiện đại đã mang đến
sự độc đáo và ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc, vẻ đẹp hiện đại
được thể hiện rõ nét trong hai câu thơ cuối khi hình ảnh con người hiện
lên giữa bức tranh thiên nhiên, trở thành trung tâm của bức tranh:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn, lơ dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết, lị than đã rực hồng”
Xóm núi gợi lên tưởng tượng về một cuộc sống bình yên, thân

thuộc mà gần gũi, ở đó ta bắt gặp hình ảnh cơ thơn nữ đang xay ngơ
tối. Hình tượng người thôn nữ được khắc họa bằng bút pháp hiện đại
trở thành tâm điểm của bức tranh, làm thay đổi triệt để khơng khí thơ,
cảm hứng thơ, khiến cho nỗi cơ đơn của đất trời cũng trở nên hữu
duyên hữu hình hữu ý. Người con gái được miêu tả với trạng thái đang
xay ngô – một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống và lao
động hăng say không quản thời gian. Không giống như các nhà thơ
khác, thơ Hồ Chí Minh đưa vào hình ảnh người con gái không phải với
vẻ đẹp “liễu yếu đào tơ” chỉ biết “Cầm, kì, thi, họa” và sống trong cảnh
“phịng kh khép kín” mà đó là cái đẹp trong lao động, một vẻ đẹp
bình dị nhưng cũng rất mới mẻ. Nghệ thuật điệp vòng ở cuối câu ba
đầu câu bốn “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn” cùng với động tác
quay vòng của cối xay kết hợp với động tác lăp đi lặp lại của cô thôn
nữ đã khiến cho bức tranh càng trở nên thi vị, một vịng tuần hồn
cùng với động tác nhịp nhàng của người con gái đã thành công khắc
sâu công việc cần mẫn của cô thôn nữ, đó cũng chính là sự trân trọng,
ngợi ca của Hồ Chí Minh dành cho người lao động. Đối với Bác, chỉ cần
là người lao động chân chính, thì dù ở đâu cũng thật đáng quý, đáng


trân trọng, khơng bị ràng buộc về mặt địa lí, bởi lẽ, cô thôn nữ là người
lao động của xứ người – xứ Trung Hoa, nhưng trong Bác ln có tình
“hữu ái giai cấp”, đó có chăng là lí do Người cảm nhận, trân trọng và
đưa hình ảnh cơ thơn nữ vào trong thơ của mình. Chất chiến sĩ của Bác
nói riêng hay của tất cả những người chiến sĩ cách mạng nói chung đã
trở thành những phẩm chất cao đẹp, gắn liền với họ, ta cũng bắt gặp
tinh thần trẻ trung, giàu lí tưởng cách mạng, sục sơi tinh thần yêu nước
và giàu lòng nhân đạo ở Tố Hữu trong bài thơ “Từ ấy”, đó là tấm lịng
đồng cảm, xót xa cho những số phận lao khổ, lịng u nước sâu nặng,
lấy điều đó làm động lực để quyết tâm thực hiện mục tiêu của đời mình

dù chặng đường phía trước cịn nhiều khó khăn gian khổ đi chăng nữa.
Cùng với hình ảnh người thơn nữ thì hình ảnh “lị than rực hồng”
đã góp phần làm bừng sáng lên vẻ đẹp của bức tranh lao động. Toàn
bộ cảnh thiên nhiên chuyển đổi từ gam màu xám sang màu tối, đưa
hình ảnh lị than trở thành tâm điểm của bức tranh, tỏa sáng và để lại
ấn tượng sâu sắc. Ngọn lửa khơng chỉ mang lại ánh sáng mà cịn đem
đến cả sự ấm áp, trời về tối, khắp nơi bị màn đêm bao phủ dường như
có phần heo hút, lạnh lẽo, ngọn lửa đã sưởi ấm cho cả xóm núi, xua
tan bóng đêm lạnh của núi rừng. Hình ảnh thiếu nữ xay ngơ tối và lị
than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm gia đình, tương phản hồn
tồn với hoàn cảnh đơn lẻ của thân phận bị tù đày cơ đơn nơi xứ người
của nhà thơ, nhưng mục đích của thi nhân là hướng về sự ấm áp
đó chứ không phải khắc tạc nỗi cô đơn và gian khổ của bản
thân. Bài thơ tả cảnh chiều nhưng kết thúc khơng phải bóng đêm âm u
mà là ngọn lửa bừng sáng ấm áp của cuộc sống lao động. Từ “hồng” ở
đây vì thế khơng chỉ để chỉ màu sắc mà còn là ánh sáng và sự ấm áp.
Từ “hồng” lại được kết hợp với một từ mạnh “dĩ” (rực) nên hình ảnh thơ
càng nổi bật. Nó là sự hội tụ, kết tinh ánh sáng của tồn bài, là hình
ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động. Vì thế từ “hồng”
chính là thi nhãn của bài thơ,màu hồng của ánh lửa rực sáng lên bởi
niềm tin, ấm áp trong đêm tối, đó cịn là màu của sự lạc quan, tin
tưởng vào tương lai. Sự thanh bình và yên ả đó cịn ẩn dụ cho mục
tiêu phấn đấu của người chiến sĩ cách mạng cho quê hương mình,
Người hướng về một cuộc sống đời thường, bình dị nhưng ấm cúng và
hạnh phúc, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo sâu sắc mà khơng chỉ
trong thơ của Hồ Chí Minh, Người cịn để nó vào trong tim, biến nó trở
thành lí tưởng, quan niệm sống. Đặt trong hồn cảnh Bác đang bị áp
giải một cách vô cùng cực khổ, thì niềm lạc quan, tinh thần sống với ý
chí, khát vọng mãnh liệt của Bác thật đáng ngưỡng mộ, đúng như lời
Hồng Trung Thơng viết:

“Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mơng bát ngát tình”
Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, chỉ cần tâm vẫn vững vàng, chỉ
cần đủ dũng khí, đủ niềm tin, phương hướng rõ ràng thì chẳng có bất
cứ điều gì có thể làm gục ngã được ta, thơ Bác nhẹ nhàng, súc tích mà
thấm thía, phải đọc và ngẫm nghĩ thật lâu mới có thể hiểu được hết
những gì Bác muốn gửi gắm vào trong đó. Bài thơ kết thúc mà dường


×