mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là hai cuộc kháng
chiến ác liệt và gian khổ bậc nhất trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc
của dân tộc Việt Nam. Cuộc chiến với quy mô lớn, thời gian kéo dài,
tính chất khốc liệt đà để lại những dấu ấn không phai mờ trong
lòng dân tộc in đậm lên từng cuộc đời từng số phận con ngời Việt
Nam đặc biệt là ngời phụ nữ. Với ngời phụ nữ, họ không chỉ sống
và chiến đấu trên mặt trận có tiếng súng, thiên chức làm vợ, làm
mẹ khiến vai trò của ngời phụ nữ trở nên vô cùng quan trọng cũng
bởi thế mà nỗi đau, sự mất mát do chiến tranh gây ra với họ cũng
tăng lên gấp bội. Trong chiến tranh họ đà sống và chiến đấu nh thế
nào? sau chiến tranh cuộc đời, số phận của họ ra sao? Đó là tâm
điểm thu hút sự quan tâm chú ý của không ít ngời cầm bút có
trách nhiệm.
1.2. Viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh thể loại dài hơi truyện
ngắn đợc xem là một thể loại tiêu biểu có nhiều thành tựu đà thể
hiện rất thành công chân dung nhân vật nữ trong chiến tranh và
số phận của họ thời hậu chiến. Vì vậy nó là sự lựa chọn của rất
nhiều nhà văn, độc giả và giới nghiên cứu phê bình.
1.3. Nhân vật nữ trong truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh dù
ở giai đoạn nào cũng có giá trị và sức sống riêng của nó. Nghiên cứu
đề tài này giúp chúng ta thấy đợc những sắc thái khắc nhau của
chiến tranh thông qua nhân vật ngời phụ nữ, đồng thời cũng thấy
đợc giá trị thực sự của họ trong sự nghiệp đấu tranh chung của toàn
dân tộc.
1.4. Cuộc chiến đà lùi xa nhng thế hệ những ngời cầm bút hôm nay
vẫn rất quan tâm tới đề tài chiến tranh và số phËn con ngêi thêi
1
hậu chiến. Nghiên cứu đề tài này còn giúp chúng ta thấy đợc sự
vận động của văn học viết về đề tài chiến tranh nói chung,
truyện ngắn nói riêng qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
Nhân vật nữ truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh đà thu hút
đợc sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học. ở đây
chúng tôi chỉ đa ra những ý kiến, những bài viết, những bài nghiên
cứu phê bình có liên quan tới đề chúng tôi đang nghiên cứu làm rõ.
Truyện ngắn giai đoạn 1945-1975 Trong cuốn Con ngời trong
truyện ngắn 1945-1975. Tác giả Phïng Ngäc KiÕm ®· nãi tíi quan
niƯm nghƯ tht vỊ con ngời trong truyện ngắn 1945-1975 (trong
đó có nhân vật nữ). Tác giả Phùng Ngọc Kiếm đà nói đến những vẻ
đẹp khác nhau của ngời phụ nữ thông qua ngoại hình, hành động
dũng cảm của họ qua cái nhìn sử thi lÃng mạn, tức là thuần về cảm
hứng ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật nữ trong chiến tranh. Vì vậy,
chiến trờng có khốc liệt nh thế nào thì nhân vật xuất hiện với
khuôn mặt rạng rỡ và tâm hồn thanh thản, luôn sẳn sàng đơng
đầu với mọi khó khăn nguy hiểm. Tình yêu, niềm tin của họ là bất
diệt.
Chiến tranh đà lùi xa cũng là lúc ngời ta nhìn nhận và đánh giá lại
cuộc chiến một cách khách quan và trung thực. Nếu nỗi đau thơng
mất mát là điều ít đợc nói đến trong văn học trớc giải phóng thì
trong văn học hôm nay lại rất chú trọng thể hiện số phận của ngời
phụ nữ đà từng đi qua chiến tranh. Trong bài Vài nét về thân
phận ngời phụ nữ đi qua chiến tranh (Tạp chí văn học số 3-1991).
Tác giả Lê Quang Trang qua các tác phẩm Ngời mẹ tội lỗi của Xuân
Thiều, Nớc mắt đỏ của Trần Huy Quang, Chim én bay của Nguyễn
Trí Huân đà đặc biệt chú ý tới bi kịch những ngời phụ nữ đi qua
chiến tranh, tác giả nhấn mạnh Chiến tranh bao giờ cũng đi liền với
tàn phá chết chóc, bất hạnh, mất mát. Có lẽ đối tợng mất mát nhiều
2
nhất chính là phụ nữ, vì những đặc điểm riêng của giới tính. Nhng chiến tranh giành độc lập cho tổ quốc cho dân tộc, với sự cần
thiết của nó thì chính những mất mát kia chỉ làm cho chúng ta yêu
quý những gì chúng ta có hôm nay. Nói về số phận của những ngời phụ nữ đi qua chiến tranh tác giả Lê Quang Trang đồng thời
khẳng định vai trò của họ trong thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở bi kịch của ngời phụ nữ đi qua
chiến tranh còn các khía cạnh khác trong cuộc đời của họ cha đợc tác
giả đề cập tới.
Trong bi Một vài suy nghĩ về con ngời trong văn xuôi thời kỳ đổi
mới (Tạp chí văn học số 3- 2001). Tác giả Tôn Phơng Lan lại chú ý tới
nhân vật cô đơn trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, trong đó có nhân
vật Quỳ (Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh
Châu) là ngời Trong cái vỏ bọc là ngời bị bệnh mộng du đà sống
cuộc sống cô đơn vì lang thang đi tìm chân trời của những giá
trị tuyệt đối hoàn mỹ. Tác giả cũng cho rằng Văn xuôi thời kỳ này
nhất là những năm đầu của thập niên chín mơi, nhân vật cô đơn
là phụ nữ xuất hiện rất phổ biến. Những ngời phụ nữ đi qua chiến
tranh thờng không chỉ mang nỗi cô đơn vì thờng xuyên phải sống
nơi chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian, vì quanh năm
suốt tháng họ chỉ tiếp xúc với những ngời cùng giới với nhau trong
công việc sinh hoạt hàng ngay nh ngêi sãt l¹i cđa rõng cêi. Sau chiÕn
tranh khi cuộc sống trở lại cái yên ả đời thờng không ít ngời phụ đÃ
giật mình vì tuổi thanh xuân của họ đà không còn mà phần nửa
cuộc đời của họ đà nằm lại nơi chién trờng, hoặc không có cơ hội
để tìm lại đợc. Trong bài Những ấn tợng chung về nhân vật nữ của
Nguyễn Minh Châu (Tạp chí văn học, số 3-1985). Tác giả Hồ Thị
Minh Thái đà phát biểu những cảm nhận chung của mình về nhân
vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, tập trung vào nhân
3
vật Quỳ (Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) Trớc Nguyễn Minh
Châu trong văn xuôi hiện đại và cả những tác phẩm chính của
Nguyễn Minh Châu, tôi hầu nh cha gặp một nhân vật phụ nữ nào
có tính cách mạnh và rõ ràng đến thế, và theo một cách diễn đạt
thông thờng có khả năng làm chủ vận mệnh của mình đến thế!.
Từ nhận xét về nhân vật Quỳ, Nguyễn Thị Minh Thái đi đến cảm
nhận chung về nhân vật ngời phụ nữ của Nguyễn Minh Châu:
Những nhân vật đáng yêu nhất của Nguyễn Minh Châu chính là
những nhân vật ngời phụ nữ. Và chỉ riêng đóng góp cho những
tính cách văn học ấy của văn nghiệp của anh cũng khiến anh có một
vị trí trong những nhà viết văn xuôi Việt Nam hiện đại và khiến
cho anh có một diện mạo không thể hoà lẫn. Những nhận xét trên
đây tuy mới chỉ ở dạng nhận định, phát biểu cảm tởng về nhân
vật nữ của một tác giả nhng đà tiếp cận những nét riêng của nhân
vật nữ trong văn xuôi thời kỳ đổi mới so với văn học trớc đó.
Trong bài Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam
đơng đại. Tác giả Đoàn Cầm Thi đà gián tiếp bàn về nhân vật nữ
trong văn xuôi đơng đại qua một chủ đích khác: yếu tố tình dục
trong văn xuôi đơng đại viết về chiến tranh qua nhân vật nữ nh:
Thai, Huệ (Cỏ lau - Nguyễn Minh Châu), Thảo (Ngời sót lại của rừng
cời - Võ Thị Hảo), Hạnh, Thắm (Bến không chồng - Dơng Hớng), Phơng (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh), Diễm (Đàn sẻ ri bay về - Võ
Thị Xuân Hà). Bi kịch về tình yêu, tình dục càng khắc hoạ rõ nét
hơn số phận bất hạnh của nhân vật nữ trong và sau chiến tranh.
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu bàn về nhân vật nữ trong
truyện ngắn của một hoặc một nhóm tác giả đợc đăng rải rác trên
các báo, tạp chí uy tín khác.
Các tác giải nh: Trần Cơng, Nguyễn Văn Long, Bùi Việt Thắng, Bích
Thu, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Hoà, Đặng Văn Sinh, Nguyễn Thị Hơng
4
Giang, Nguyên Ngọcđà có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về
truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh. Nhng đối tợng chủ yếu là
những ngời lính nam mang phẩm chất, tâm hồn và dấu ấn của thời
đại. Nhân vật nữ là một đối tợng thẩm mỹ riêng biệt nhng lại rất ít
đợc đề cập tới và nếu có đề cập tới thì lại nằm trong cái nhìn
chung về nhân vật ngời lính.
Bên cạnh những bài phê bình nghiên cứu nói trên thì nhân vật nữ
còn là đối tợng nghiên cứu của một số luận văn thạc sĩ nh: Đào Đồng
Điện (2004), Nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam từ 1945 đến nay,
Đại học Vinh; Nguyễn Thị Thu Hơng (2004), Một số đặc điểm nổi
bật của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, Đại
học Vinh; Nguyễn Thị Hơng (2003), Truyện ngắn viết về đề tài
chiến tranh và ngời lính sau 1975, Đại học s phạm Hà Nội. Đây là
những đề tài có liên quan đến nhân vật nữ trong truyện ngắn
viết về đề tài chiến tranh nhng khác với góc độ và nhiệm vụ nghiên
cứu.
Tóm lại, có rất nhiều ý kiến bàn về nhân vật nữ trong văn xuôi viết
về đề tài chiến tranh nói chung và truyện ngắn nói riêng. Mỗi bài
nghiên cứu, mỗi bài viết, mỗi ý kiến thờng chỉ đề cập tới một hoặc
một vài khía cạnh nỗi bật của nhân vật nữ hoặc chỉ bàn về nhân
vật nữ của một tác giả tiêu biểu chứ cha thực sự nhìn nhận, xem
xét, lí giải nó trong tính hệ thống. Vì vậy nhân vật nữ trong
truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh vẫn còn là một vấn đề để
ngỏ. Tuy nhiên những tài liệu nói trên là cơ sở đầu tiên, những gợi
mở quan trọng để chúng tôi tiếp tục thực hiện đề tài này.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng
Nhân vật nữ trong truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
5
Với đề tài này ngời viết luận văn không có tham vọng khảo sát tất cả
truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945 đến nay mà chủ yếu
tập trung khảo sát nhân vật nữ trong các tuyển tập:
Truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài chiến tranh, Nhà xuất bản Hội
nhà văn xuất bản năm 1995.
Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc về chiến tranh, Nhà xuất bản Quân
đội Nhân dân, Hà Nội 1997.
Tuyển tập truyện ngắn đợc giải Văn nghệ quân đội,
4. Nghiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu nhân vật nữ trong những truyện ngắn về chiến
tranh (trớc và sau 1975) trên các phơng diện: Loại nhân vật, phÈm
chÊt - sè phËn, nghƯ tht x©y dùng nh©n vËt.
4.2. Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, để
tiếp tục nghiên cứu nhân vật nữ trong văn học viết về đề tài chiến
tranh.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt mục đích, nhiệm vụ đặt ra luận văn của chúng tôi
thực hiện bằng việc kết hợp nhiều phơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phơng pháp khảo sát - thống kê
5.2. Phơng pháp so sánh - đối chiếu
5.3. Phơng pháp phân tích - tổng hợp
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chơng:
Chơng 1: Khái quát chung về truyện ngắn và nhân vật nữ trong
truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh từ 1945 đến nay
Chơng 2: Phẩm chất và số phận nhân vật nữ trong truyện ngắn
viết về đề tài chiến tranh từ 1945 đến nay
Chơng 3: Vài nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật n÷
6
Chơng 1
Khái quát chung về Truyện ngắn và nhân vật nữ
trong truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh
từ 1945 đến nay
1.1. Truyện ngắn và u thế của thể loại
1.1.1. Truyện ngắn
Thuật ngữ truyện ngắn (tiếng pháp là: Nouvelle, tiếng Anh; Short
Story, tiếng Nga; Hoberra; tiếng Trung Quốc: Đoản thiên tiểu
thuyết)
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về truyện ngắn. Giáo s văn học
ngời Pháp D.Grônôpxki cho rằng: Truyện ngắn là một thể loại muôn
hình muôn vẻ biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hóa nh quả
chanh của Lọ Lem. Biến hóa về khuôn khổ: Ba dòng hoặc ba mơi
trang. Biến hóa về kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kỳ ảo. Hớng về
biến cố thật hay tởng tợng, hiƯn thùc hc phãng tóng. BiÕn hãa
vỊ néi dung thay ®ỉi v« cïng tËn. Mn cã chÊt liƯu ®Ĩ kĨ, cần
một cái gì đó xảy ra, dù đó là sự thay đổi chút xíu về sự cân
bằng, về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện ngắn, cái gì
7
cũng thành biến cố. Thậm chí sự thiết vắng tình tiết diễn biến
cũng gây hiệu quả, nó làm cho sự chờ đợi bị hụt hẫng.
Nhà văn ngời Nga Pautôpxky thực chất truyện ngắn là gì? Tôi
nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái
không bình thờng hiện ra nh một cái bình thờng và cái bình thờng hiện ra nh một cái không bình thờng.
ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan đa ra khái niệm truyện
ngắn nh sau: Trớc hết ta nên phân biệt thế nào là truyện ngắn,
thế nào là truyện dài. Loại truyện ngắn viết bằng văn xuôi theo
nghệ thuật Tây Âu là loại mới có trong văn học Việt Nam, từ ngày ta
chụi ảnh hởng của văn học Pháp. Ngày xa ta chỉ có truyện kể bằng
miệng hoặc viết bằng văn vần. Những truyện: Muỗi nhà, muỗi
đồng; Hai ông phật cÃi nhau trong Thánh Tông di thảo không phải là
lịch sử - tiểu thuyết. Cho nên loại truyện này viết theo nghệ thuật
Tây Âu, ta theo Trung Quốc mà gọi là tiểu thuyết, và cái nào viết
trong năm tranh gọi chung là trung thiên tiểu thuyết, cái nào viết
hàng trăm trang gọi là trờng thiên tiểu thuyếtNăm 1932, báo
Phong Hóa dịch đoản thiên tiểu thuyết ra tiếng ta gọi là truyện
ngắn. Rồi từ đó trờng thiên tiểu thuyết gọi là truyện dài trung
thiên tiểu thuyết gọi là truyện vừa.
Trong từ điển thuật ngữ văn học, mục từ truyện ngắn là: Hình
thức tự sự cỡ nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lợng nhỏ
hơn, tập trung miêu tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay
một vài biến cố xảy ra trong giai đoạn nào đó của đời sống nhân
vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xà hội. Cốt truyện
ngắn thờng diễn ra trong một khoảng không gian, thời gian hạn
chế. Kết cấu của truyện ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến
phức tạp. Truyện ngắn viết ra để thu liền một mạnh, đọc một hơi
không nghỉ, nên đặc điểm của, biết gọt tỉa và dồn nén. TruyÖn
8
ngắn phải có trình độ điêu luyện. Do đó trong khuôn khổ ngắn
gọn, những truyện ngắn thành công thể hiện đợc những vấn đề
xà hội có tầm khái quát rộng lớn.
Theo từ điển thuật ngữ văn học mục truyện ngắn là: Tác phẩm
thự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết
các phơng diện cđa ®êi sèng: ®êi t thÕ sù hay sư thi, nhng cái độc
đáo của nó là ngắn.
Tuy nhiên mức độ ngắn dài cha phải là đặc điểm chủ yếu để
phân biệt truyện ngắn với tác phẩm tự sự khác. Trong văn học hiện
đại có rất nhiều tác phẩm rất ngắn nhng thực chất là những
truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn
nhng cũng rất gần với truyện vừa. Các hình thức truyện kể về dân
gian ngắn gọn nh cổ tích, truyện cời, giai thoạilại càng không
phải là truyện ngắn.
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu t duy mới, một cái nhìn cuộc
đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng mang tính chất thể loại.
Cho nên truyện ngắn đích thực xuất hiện tơng đối muộn trong
lịch sử văn học.
Khác với tiểu thuyết là loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự
đầy đặn và toàn vẹn cđa nã, trun ng¾n thêng híng tíi viƯc
kh¾c häa mét hiện tợng, phát hiện một nét bản chất quan hệ nhân
sinh trong đời sống con ngời. Vì thế truyện ngắn thờng ít nhân
vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là
một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế
giới ấy. Truyện ngắn không nhằm hớng tới những tính cách điển
hình đầy đặn, nhiều mặt trong thơng quan với hoàn cảnh. Nhân
vật của trtuyện ngắn thờng là hiện thân cho một quan hệ xà hội, ý
thứ xà hội hoặc trạnh thái tồn tại của con ngời.
9
Cốt truyện của truyện ngắn thờng tự giới hạn về không gian thời
gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời
con ngời. Kết cấu truyện ngắn không bao gồm nhiều tầng tuyến mà
thờng đợc dựng theo lối tơng phản hoặc liên tởng.
Chi tiết và lời văn là những yếu tố quan trọng nghệ thuật viết
truyện ngắn. Lời kể và cách kể là những điều đợc ngời viết truyện
ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lý, nhằm đạt hiệu quả nh
mong muốn.
Trong 150 thuật ngữ văn học coi truyện ngắn là một: thể tài tác
phẩm thự sự cỡ nhỏ, thờng đợc viết bằn văn xuôi, đề cập đến hầu
hết các phơng diện của đời sống con ngời và xà hội. Nét nổi bật của
truyện ngắn là sự giới hạn về dung lợng; tác phẩm truyện ngắn thích
hợp với ngời tiếp nhận (độc giả) đọc một lần không nghỉ
Qua những định nghĩa trên về truyện ngắn cho ta thấy một cái
nhìn tơng đối đầy đủ về truyện ngắn trên các phơng diện nh:
dung lợng, nhân vật kết cấu,cốt truyện, sức khái quát hiện thực từ
đó chúng ta có thể rút ra những đặc điểm chính của truyện
ngắn nh sau:
Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ (nhỏ ở đây đồng nghĩa với
ngắn gọn,cô đúc, hàm xúc, tinh lọc và hay). Truyện ngắn tập trung
vào một mặt nào đó của cuộc sống hiện thực, các sự kiện tập trung
trong một khoảng không gian thời gian nhất định. Kết cấu của
truyện ngắn chặt chẽ và là kết cấu đơn tuyến. Nhân vật của
truyện ngắn thờng thể hiện trạnh thái tâm thế của con ngời thời
đại
1.1.2. Ưu thế của thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn n»m trong hƯ thèng chung cđa thĨ lo¹i trun kĨ. Nhà
văn kể lại một trờng hợp đặc biệt của nhân vật thay một số nhân
vật nào đó. Tuy có một số đặc điểm riêng biệt, nhng truyện ngắn
10
cũng có những đặc trng chung cho thể loại truyện. Đó là có: cốt
truyện, có nhân vật, đợc thể hiện qua phơng thức kể truyện và có
vai trò của ngời kể truyện. Lời kể, nhân vật, cốt truyện trong mỗi
tác phẩm có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Truyện ngắn trong xà hội hiện đại có những u thế riêng. Nhà nghiên
cứu M. Bakhtin đà chỉ rõ: Mỗi thể loại thể hiện một thái độ thẫm
mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế
giới và con ngời. Truyện ngắn cũng là một thể loại nh thế đặc biệt
là trong xà hội hiện đại. Vì thế, nó thu hút đợc sự quan tâm của ngời sáng tác, nghiên cứu và ngời đọc
Truyện ngắn là một thể loại tự thân nó đà hàm chứa cái thú vị,
những điều sâu sắc trong hình thức nhỏ xinh, gọn nhẹ và dẫn
truyền những thông tin cực nhanh những thông tin mới mẽ. Truyện
ngắn là một thể loại rất nhạy cảm với những biến đổi đời sống xÃ
hội. Với hình thức gọn nhẹ truyện ngắn luôn bắt kịp những vận
động của xà hội và những biến thái dù rất tinh vi của đời sống con
ngời. Ngày nay khi xà hội với sự phất triển nh vũ bÃo của các ngành
khoa học kỹ thuật và công nghệ con ngời luôn phải đứng trớc nguy
cơ tụt hậu, đòi hỏi mỗi ngời phải nỗ lực hết mình thì truyện ngắn
có thể nhanh chóng nắm bắt và mô tả đợc những bớc đi của con
ngời. Con ngời bị dồn ép về mặt thời gian hơn bao giờ hết. Con ngời không đủ thời gian cho những bộ tiểu thuyết đồ sộ hàng trăm
trang nh: Chiến tranh và hoà bình, Sông đông êm đềm, Những ngời khốn khổTruyện ngắn đà hàm chứa cái thú vị trong hình thức
nhỏ gọn, xinh xinh và đầy truyền cảm, truyền dẫn cực nhanh những
thông tin đà chinh phục đợc rất nhiều độc giả thời hiện đại.
Truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ nhng lại có khả năng to lớn trong
việc tái hiện cuộc sống của con ngời, vì nó là thể loại phát hiện đời
sống con ngời theo chiều sâu. Vậy dung lợng của truyện ngắn là rất
11
lớn. Nhà văn Nguyên ngọc đà nhậ xét trong độ ba trang giấy, mấy
nghìn chữ mà rõ cả bộ mặt của cả một cuộc đời, một kiếp ngời,
một thời đại. các truyện ngắn bây giờ rất nặng. Dung lợng của nó l
dung lợng của một cuốn tiểu thuyết.
Truyện ngắn hiẹn đại rất gần gủi với thể loại báo chí. Đây là một lợi
thế lớn bởi hiện tại báo chí kể cả báo điện tử phát triển với tốc độ
chóng mặt. Ngời ta quen và thích đọc những tác phẩm có dung lợng
ngắn nhng hàm chứa Truyện ngắn có tính thời sự cao, trong thời
đại ngày nay nó nhanh chóng nắm bắt, truyền tải những vấn đề
bức xúc của đời sống xà hội. Vì thế nó là trung tâm thu hút sức
sáng tạo của nhiều thế hệ cầm bút. Raymond Carer một trong
những bậc thầy truyện ngắn thế giới đà nghi nhận: ngày nay các
tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thoả mÃn nhất về nhiều
mặt, thậm chí tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trờng tồn, chính là
những tác phẩm viết dới dạng truyện ngắn.
Bớc sang thế kỉ xx truyện ngắn với thế nổi trội đà trở thành thể
loại
Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là ngắn, những chi
tiết, yếu tố cô đúc có dung lợng lợng lớn và lối hành văn nhiều ẩn ý,
tạo cho tác phẩm chiều sâu cha nói hết. Truyện ngắn là thể loại
gần gủi với đời sống hàng ngày, súc tích dễ đọc lại thờng gắn với
các hoạt đọng báo chí, do đó có tác động kịp thời trong dời sống.
Rất nhiều nhà văn đà thầnh công với thẻ lại truyện ngắn.
Truyện ngắn là một thể loại rất nhạy cảm với những biến đổi của
đời sống xà hội.
1.2. Cái nhìn chung về truyện ngắn viết về đề tài chiến
tranh từ 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công tạo ra một bớc ngoặt mới trong
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xà héi
12
®ång thêi nã cịng më ra mét thêi ®¹i míi trong văn học nghệ thuật.
Hơn nửa thế kỷ qua văn học đà có nhng bớc đi vững chắc gặt hái đợc nhiều thành tựu to lớn đóng góp một phần không nhỏ trong tiến
trình hiện đại hóa văn học.
Nền văn học mới ra đời và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử
đặc biệt, thời kỳ mà đất nớc có nhiều biến cố lịch sử lớn lao tác
động sâu sắc ®Õn toµn bé ®êi sèng x· héi vµ con ngêi. Trong vòng
ba mơi năm dân tộc ta đà phải lần lợt đánh đuổi hai tên đế quốc
sừng sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Sau năm 1975 dới sự lÃnh
đạo của Đảng chúng ta vừa phải bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nớc
theo định hớng xà hội chủ nghĩa. Ngay từ buổi đầu nền văn học đÃ
xác định đợc hớng đi cho mình phục vụ những mục tiêu cao cả của
cách mạng, phục vụ cuộc chiến đấu sống còn của dân tộc vì vậy
nền văn học cách mạng trở thành nền văn học chủ lu trong đời sống
văn học dân tộc gắn với từng bớc đi của lịch sử.
Văn học viết về đề tài chiến tranh gồm nhiều thể loại: thơ, tiểu
thuyết, ký, truyện ngắn... trong đó truyện ngắn là một loại tiêu biểu
đà đạt đợc nhiều thành tựu với nhiều tên tuổi lớn nh: Nam cao, Tô
Hoài, Hữu Mai, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu Truyện ngắn viết
về đề tài chiến tranh từ 1945 đến nay có thể chia làm hai giai đoạn
lớn giai đoạn đất nớc có chiến tranh (1945-1975) và giai đoạn hòa
bình thống nhất đất nớc từ 1975 đến nay.
1.2.1. Giai đoạn 1945-1975
Độc lập cha đợc bao lâu thì thực dân pháp quay trở lại xâm lợc nớc
ta một lần nữa, tiếp đến là đế quốc Mĩ. Thực hiện lời kêu gọi của
Hồ Chủ Tịch Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nớc
không chịu làm nô lệ lòng yêu nớc, tinh thần dân tộc lại một lần
nữa đợc bùng lên, cả nớc đồng loạt đứng dậy chống giặc ngoại xâm,
sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập tự do của dân tộc. Ba mơi năm
13
chiến tranh khói lửa với bao nhiêu chiến công oai hùng, biết bao nhiêu
máu và nớc mắt của chiến sĩ và đồng bào đà đổ xuống trở thành
một mảng hiện thực lớn, phong phú có sức hấp dẫn đặc biệt đối với
văn học nghệ thuật nói chung. Đó không phải mảng hiện thực gắn
bó với những mảnh đời nhỏ bé, những số phận bất hạnh hay những
mộng tởng cá nhân nh trong văn học giai đoạn 1930-1945 mà nó là
khí thế quật cờng của cả một dân tộc đang trỗi dậy vơn lên. Vì
vậy truyện ngắn giai đoạn này chủ yếu tập trung phản ánh những
vấn đề to lớn, những biến cố trọng đại của đời sống xà hội, kịp thời
ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của lịch sử dân tộc. Đó là
một giai đoạn đầy thăng trầm biến động của lịch sử đầy gian lao
thử thách nhng cũng không kém phần vẻ vang của dân tộc.
Hoàn cảnh lịch sử đem lại cho nhà văn phát hiện lớn lao: Phát
hiện ra sức mạnh quật khởi của dân tộc và con ngời Việt Nam trong
vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu văn
học đà khẳng định một nền nghệ thuật mới bao giờ cũng ra đời với
con ngời mới. Văn học giai đoạn này đà sáng tạo ra một thế giới nhân
vật đông đảo trong đó nhân vật trung tâm là những con ngời
mang t tởng của dân tộc và kết tinh những phẩm chất cao quý của
cả cộng đồng.. Quần chúng công - nông - binh trở thành nhân vật
trung tâm trong truyện ngắn kháng chiến chống Pháp. Các nhà văn
hớng tới quần chúng thể hiện sự ngạc nhiên thán phục, ngợi ca trớc
hành động dũng cảm, hồn nhiên và lạc quan của quần chúng cách
mạng (Cách mạng, Đôi mắt, Đờng vui, Trong rừng Yên Thế, Núi cứu nớc) Việc đa lên hàng đầu con ngời quần chúng con ngời cộng
đồng khiến cho truyện ngắn thời kỳ này thể hiện tinh thần yêu nớc
căm thù giặc, tình cảm tiền tuyến hậu phơng, ý thức giai cấp và sự
yêu thích đời sống trính trị. Trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam
Cao anh trai làng hăng say vác bó tre đi cản cơ giới địch, hăng say
14
đọc thuộc lòng bài Ba giai đoạn của cuộc kháng chiến, Trong truyện
ngắn làng của Kim Lân ngời nông dân tản c, thấy xấu hổ đau xót
khi nghe tin làng theo giặc bỗng trở lại vui mừng phấn khỏi khi biết
đó chỉ là tin đồn thất thiệt. Con ngời đến với cách mạng với sự hăm
hở, đầy nhiệt huyết. Mỗi con ngời đều tìm thấy mình trong cuộc
sống của cộng đồng. Tuy nhiên cái nhìn về quần chúng trong văn
học kháng chiến chống pháp khá đơn giản con ngời chủ yếu đợc thể
hiện qua hành động hớng ngoại cha có suy nghĩ gằng xé nội tâm.
các nhà văn cha đi sâu vào tờng tận từng nhân vật để thấy đợc
chân dung sinh động và có giá trị. Từ quan niệm con ngời quần
chúng trong truyện ngắn thời kháng chiến chống Pháp, với những
hình tợng tập thể còn khá mới mẻ đơn xơ, đến thời kháng chiến
chống Mĩ nhận thức về nhân dân đà đạt tới chiều sâu mới. Nhà văn
đà chú ý khắc hoạ những gơng mặt những chân dung cụ thể đó là
những con ngời mang dấu ấn, tầm vóc và t tởng của thời đại. Tinh
thần ngợi ca kháng chiến, ca ngợi cách mạng đà tạo nên khuynh hớng
sử thi xuyên suốt cả một thời đại văn học. Về sau này là sự kết hợp
giữa cảm hứng sử thi và cảm hứng lÃng mạn đà quy định cảm hứng
sáng tạo trong hầu hết các tác phẩm. đà tạo nên quá trình vận động
và phát triển của văn học cách mạng đáp ứng đợc những yêu cầu của
lịch sử xà hội.
Nếu nh trong văn học 1930-1945 mang âm điệu một thơng, bế tắc
thì trong văn học giai đoạn này âm hởng chủ đạo là khí thế hào
hùng tình thần làm chủ đất nớc của ngời dân Việt Nam trong thời
đại mới. Văn học 30 năm chiến tranh đà có những tác phẩm làm xúc
động hàng triệu ngời đang chiến đấu tạo nên những giá trị bền
vững cho các thế hệ mai sau.
Cuộc kháng chiến của dân tộc có quy mô rộng lớn cha từng có, tác
động mạnh mẽ đến cả một thời đại, với tính chất quyết liệt và hµo
15
hïng víi sù n¶y në rùc rì cđa chđ nghÜa anh hùng trong hàng triệu
quần chúng đà làm xúc động biết bao con tim, đồng thời ảnh hởng
trực tiếp đến thế giới quan của ngời sáng tác, là cơ sở cho một nền
văn học mới ra đời. Văn học trong giai đoạn này đà tập hợp đợc đội
ngũ nhà văn đông đảo với rất nhiều tài năng đợc tôi luyện trong môi
trờng chiến tranh và cách mạng nh Tô Hoài, Nguyễn Thi, Anh Đức,
Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Thành Trung, Mai
Ngữ, Đỗ Chu Họ vừa là chiến sĩ, vừa là nghệ sĩ luôn luôn có mặt
ở mũi nhọn cuộc sống, nhà văn trở thành ngời th kí trung thành của
thời đại theo sát những chặng đờng của cách mạng. Họ chính là
nguồn tinh lực đa nền văn học 1945-1975 đi đến đỉnh cao vinh
quang. Truyện ngắn Đôi mắt là một tác phẩm thể hiện là quá
trình nhận đờng của lớp văn sĩ đà trÃi qua cuộc các mạng vĩ đại
của dân tộc ngà ngửa ngời trớc vai trò to lớn của quần chúng nhân
dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hoàn cảnh mới
đà hun đúc lòng nhiệt tình lý tởng thẩm mĩ cho một thế hệ nhà
văn. họ luôn đứng ở tuyến đầu nắm bắt những bớc đi trọng đại
của lịch sử làm nên một thời đại vẻ vang trong văn học kháng chiến.
Có nhiều ý kiến phủ nhận nền văn học giai đoạn 1945-1975 coi đó
là khúc gảy là sự gián đoạn trong tiến trình hiện đại hóa văn
học giấy lên từ đầu thế kỷ. Nhng muốn đánh giá đúng văn học giai
đoạn này thì phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử ®· sinh ra nã. Con
ngêi trong chiÕn tranh cã nh÷ng tính cách, suy nghĩ và tập quán
riêng không giống với con ngời trong văn học giai đoạn trớc hay sau
nó. Suy cho cùng bất kỳ một nền văn học chân chính cũng gắn với
thời đại của mình, với đông đảo quần chúng của thời đại ấy. Văn
học giai đoạn 1945-1975 đà xác định ngay từ đầu hớng đi cho
mình là phơc vơ kh¸ng chiÕn phơc vơ kh¸ng chiÕn, phơc vơ cách
mạng, tự nguyện trở thành vũ khí đắc lực trong sù nghiƯp gi¶i
16
phóng và xây dựng đất nớc. Chính vì vậy nó đà làm tròn nhiệm vụ
lịch sử xà hội của mình. Tố Hữu đà từng khẳng định Thớc đo của
một nền văn học là nó phục vụ đợc bao nhiêu cho phong chào cách
mạng. Hiện thực của cuộc kháng chiến đà có những tác động rất lớn
đến thế giới quan của ngời sáng tác chính vì vậy bao trùm lên toàn
bộ văn học 30 năm chiến tranh là cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng nó tái hiện lại những năm tháng hào hùng của dân tộc
một cách sống động qua những biến cố những sự kiện lịch sử nổi
bật. Không có lòng yêu nớc tha thiết, không có niềm tin tuyệt đối
vào chiến thắng thì làm sao chúng ta có tinh thần để có thể vợt
qua đợc muôn vàn khó khăn gian khổ, đánh đuổi đợc kẻ thù lớn mạnh
hơn gấp nhiều lần. ở đây ta cảm nhận đợc khí thế vơn lên của con
ngời cách mạng, tinh thần chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của
đất nớc.
Truyện ngắn giai đoạn 1945- 1975 có nhiều điều kiện phát
triển hơn tiểu thuyết, trong tình hình đất nớc có chiến tranh..
ngày đà đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể về số lợng và chất lợng..Vì truyện ngắn gia đoạn này có điều kiện phất triển hơn so
với thể loại tiểu thuyết.
Thành tựu của thể loại truyện ngắn 1945-1975 đợc đánh dấu
bằng bề dày của những tác phẩm xét trên cả hai phơng diện số lợng
và chất lợng. Một khối luộng tác phẩm đồ sộ cha từng thấy trong lịch
sử văn học dân tộc viết về chiến tranh.
Nền văn học mới ra đời trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt, gắn
liền với những biến cố lớn lao của lịch sử. Trong điều kiện chiến
tranh gian khổ và khắc nghiệt bản thân nó cũng phải tự vật lộn với
bao nhiêu khó khăn để khẳng định mình và trở thành một trong
những nền văn học tiên phong trong công cuộc chống lại chủ nghĩa
đế quốc. Tuy nhiên văn học giai đoạn 1945-1975 cịng kh«ng cã
17
những phần non yếu, sơ lợc công thức. Chúng ta mới chỉ nói nhiều
đến những chiến công, chiến thắng đến vẻ đẹp toàn bích của
con ngời trong kháng chiến mà cha đi sâu vào số phận cá nhân,
hạnh phúc cá nhân làm cho văn chơng mất đi . Hạn chế của văn
học gia đoạn này một phần là do lịch sử, trình độ nhận thức của
thời đại và cũng do nhiêu nguyên nhân chủ qua từ phía quản lý lÃnh
đạo và hạn chế cả trong công tác lí luận phê bình và tài năng của
ngời sáng tác.
1.2.2. giai đoạn 1975 đến nay
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đất nớc thu vỊ mét mèi nhng
cc sèng thêi hËu chiÕn kh«ng hỊ đơn giản xuôi chiều mà xô bồ
phức tạp hơn nhiều so với những năm tháng chiến tranh. Đặc biệt là
những hậu quả do chiến tranh để lại nó vẫn đè nặng lên mỗi cuộc
đời con ngời, là những tấn bi kịch vẫn cha có hồi kết. Nhà văn
Nguyễn Khải đà từng nói: Chiến tranh ồn ào náo động nhng lại có
cái yên tĩnh của nó. Hòa bình yên tĩnh nhng lại chất chứa bao nhiêu
sóng gió ở bên trong. Cc sèng thêi hËu chiÕn kh«ng chØ cã vinh
quang cđa ngời chiến thắng mà hơn hết nó còn là nỗi đau không
gì bù đắp đợc của những con ngời từng ®i qua chiÕn tranh. Trong
chiÕn tranh tÊt yÕu ph¶i cã những tác phẩm mang cảm hứng ngợi ca
chủ nghĩa anh hùng, những tấm gơng chiến đấu hy sinh anh dũng
để cổ vũ động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân, toàn quân
ta. Nhng khi chiến tranh kết thúc, cuộc sống trở về với muôn mặt
đời thờng thì hiện thực đa dạng phức tạp của cuộc sống trở thành
đối tợng phản ánh mới của văn học. Với độ lùi thời gian cần thiết nhà
văn có cơ hội để đánh giá lại cuộc chiến với cái nhìn khách quan,
trung thực. Nếu nh truyện ngắn giai đoạn 1945-1975 thờng khái
quát hiện thực ở tầm vĩ mô, thờng sử dụng nhiều tình tiết biến cố
để nói về cuộc chiến, về những trận đánh hay vỊ tÊm g¬ng chiÕn
18
sĩ anh hùng thì truyện ngắn sau 1975 phản ánh hiƯn thùc cđa
chiÕn tranh qua nh÷ng sè phËn, nh÷ng bi kịch bất hạnh của mỗi con
ngời. Hoà bình đà đem lại độc lập tự do, hạnh phúc, nhng chiến
tranh cũng góp phần rèn luyện thử thách con ngời để vẻ đẹp trong
mỗi con ngời có điều kiện để toả sáng. Trun ng¾n tríc 1975 thêng viÕt vỊ chiÕn tranh thêng che dấu những góc khuất đen tối của
hiện thực chủ yếu nói đến chiến công và tinh thần lạc quan vợt lên
hoàn cảnh của con ngời Nhng bản chất của chiÕn tranh lµ sù d·
man, tµn khèc, lµ sù hy sinh mất mát, là sự huỷ diệt ghê gớm tác
động mạnh mẽ đến số phận của mỗi con ngời. Để có đợc chiến
thắng ngày hôm nay biết bao nhiêu máu và nớc mắt đà đổ xuống,
biết bao nhiêu gia đình phải chịu cảnh sinh li tử biệt. Hiện thực
không còn đơn giản xuôi chiều và có thể đoán trớc đợc mà nó chứa
đầy những yếu tố ngẫu nhiên, phi lí, bất ngờ ở đó cái tốt lẫn với cái
xấu cái cao cả lẫn với cái thấp hèn. Góp phần lột tả đợc bộ mặt thật
của chiến tranh vốn rất dà man và tàn khốc. Chiến tranh trong
truyện ngắn hôm nay đợc tái hiện lại nh nó đà từng xảy ra.
Không phải văn học của chúng ta bây giờ mới viết về chiến
tranh. Văn học viết về đề tài chiến tranh ®· tån t¹i suèt mêi thÕ kû
qua nhng thùc chÊt suốt mời thế kỷ qua là nền văn học khẳng định
cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa của dân tộc, ca ngợi chiến
thắng và các chiến công anh hùng. Nhng nó mới chỉ dừng lại ở việc
mô tả cái nền mà trên đó con ngời bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp
của chủ nghĩa anh hùng. Nhng bản chất chiến tranh lµ sù d· man,
tµn khèc víi tÝnh chÊt tµn bạo vô nhân tính thì cha trở thành đối tợng nhận thức của văn học. MÃi đến sau này khi hai cuộc chiến tranh
chống Pháp và chống Mĩ qua đi ngời ta mới nhìn nhận đánh giá về
hiện thực bất thờng của chiến tranh nh nó vốn có và những tác
động to lớn của nó đến đời sống xà hội vµ con ngêi. Nhê vµo chđ ch19
ơng đờng lối đúng đắn của Đảng và nhà nớc đặc biệt là sự dân
chủ hoá trong sáng tác mà trong văn học hôm nay đà có những thành
tựu đáng kể. Văn xuôi nói chung đà chuyển dần từ t duy sử thi sang
t duy tiểu thuyết. Vấn đề cách mạng và chủ nghĩa xà hội không còn
đợc chú trọng nh trớc thay và đó là mảng hiện thực trớc đây hầu nh
bị bỏ quên: đó chính là vấn đề ®êi t thÕ sù. Tõ nh÷ng vÊn ®Ị lín
lao cđa đất nớc cho đến những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống
đời thờng đều đợc nhà văn quan tâm ở nhiều bình diện khác
nhau. Nếu nh trớc đây nhà văn quan tâm nhiều tới đời sống cộng
đồng, vận mệnh của dân tộc thì trong truyện ngắn hôm nay lại
quan tâm tới số phận cá nhân của mỗi con ngời. Khi viết về đề tài
chiến tranh và ngời lính truyện ngắn sau 1975 tập trung khai thác
mặt trái của chiến tranh, đặt ra những vấn đề nhức nhối có sức
ám ảnh nghê gớm đối với con ngời. Đó là những vấn ®Ị vỊ sè phËn
con ngêi trong chiÕn tranh vµ trong thời hậu chiến, vấn đề nhân
cách và nhân tính của con ngời.
Hiện thực cuộc sống luôn là đối tợng khám phá của văn học, ở mỗi
gia đoạn khác nhau của lịch sử nhà văn có quan niệm khác nhau về
hiện thực. Trong văn học bao giờ cũng thể hiện mối quan hệ giữa
hiện thực khách quan và ý thức chủ quan, nó là sự nhào nặn những
chất liệu cuộc sống qua thế giới chủ quan của nhà văn. Hiện thực
trong truyện ngắn 1945-1975 thờng là hiện thực cần có chứ không
phải là hiện thực đang tồn tại. Vì vậy dù trong ma bom bÃo đạn đói
khát bệnh tật cũng không làm tổn hại gì đến con ngời (Nguyệt
Mảnh trăng cuối rừng, Ba cô gái trên cao điểm - Những ngôi sao xa
xôi,
Một ngày không bình thờng- phạm Hoa, những vẻ đẹp khác
nhau-) hoặc nếu có hi sinh mất mất thì càng làm tô đậm thêm cái
cao cả vĩ đại của ngời lính và sự vĩ đại của chiến thắng (Ráng đỏ
- Đỗ Chu, Một đoạn đờng chiến tranh - Cao Duy Thinh, Hai §ëm - Chu
20
Lai). Truyện ngắn hôm nay có sự mở rộng về dung lợng hiện thực có
những miền hiện thực mới đợc xuất hiện có những mảng hiện thực
trớc đây cha có hoặc bị né tránh. Đó chính khốc liệt của chiến
tranh, về những khó khăn gian khổ mà con ngời hàng ngày phải đối
mặt. Bom đạn chết chóc với rừng thiêng nớc độc, với đói khát và
bệnh tật ở đó sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc
Máu của lá - Võ Thị Hảo, Chiều vô danh - Hoàng dân Thung lũng
hoa vàng Huỳnh Thạch Thảo... Chiều vô danh Hoàng Dân kể
về cuộc chiến đấu anh dũng ngoan cờng của quân ta. Trận đánh
kết thúc thắng lợi thuộc về ta nhng cái giá phải trả cho chiến thắng
là quá đắt, không có tiếng reo hò của niềm vui chiến thắng. Bao
trùm trong không gian của chiến trờng là không khí yên ắng sặc mùi
tử khí. Bắn lên bầu trời là hàng loạt Ak và tiếng kêu tên tên đồng đội
thảm thiết của những ngời may mắn còn sống. Chiến trờng khốc
liệt trong cảnh Hàng nghìn quả đại bác và hàng chục phi đạn ĐKB
gầm rít vang trời. Không gian nh vỡ toác và rùng rùng chuyển động
cả một vùng trời đất bị nung nóng ngùn ngụt lửa khói không thể
phân biệt nổi tiếng nổ súng của ta và của địch, chỉ có một mớ
âm thanh hỗn độn ù ù nh xay lúa, chát cháu nh muôn vàn cặp đe
búa đập loạn xạ bên mang tai. Con số thơng vong tăng lên chóng
mặt, hầu hết các cán bé trung ®éi tiĨu ®éi ®· hy sinh. Sù hi sinh
của ngời lính thất thản khốc Một viên đạn xuyên qua trán Bình. Máu
và óc trăng phun ra xối xả. Hào giật gói bộc phá trong tay Bình,
đứng dậy vụt lên nhng cả một băng tiểu liên cực nhanh AR15 của
địch hất anh ngà ngửaNgọ đứng ở phía sau tiếp tục bò lên tiếp
tục công việc đang còn đang dở của Bình. Anh trúng đạn toàn
thân Ngọ đỏ rực nh một bó đuốc Đau đớn và thê thảm nhất có lẽ
là sự hy sinh của Thời, trong thời khắc quyết định anh đà hy sinh
cho đồng đội đợc sống thân thể anh tan tành trong không gian chỉ
21
còn lại những nhúm nhỏ hoà vào trong đất cát đang bị đàn kiến
đen tranh giành, xâu xé. Thung lũng hoa vàng Huỳnh Thạch
Thảo kể về cuộc rút chạy của những kẻ ở bên kia chiến tuyến trong
ngày cuối cùng của chiến tranh. Trong cuộc rút chạy xô bồ và hỗn loạn
này đà có biết bao nhiêu cái chết, bao nhiêu cảnh tợng hÃi hùng đà sảy
ra khiến những ngời đà trÃi qua không bao giờ có thể quên đợc. Cảnh
súng ống vứt lăn lóc cùng ngời chết, vật dơng vøt v¬ng v·i nh cã mét
c¬n b·o lín võa quét qua. Từng đoàn ngời vẫn chảy. Máu vẫn sùi bọt
trên đờng nhựa hầm hập nóng, trên những hành lang với những đôi
mắt trừng trừng không còn sự sống. Rồi cảnh từng bầy quạ đen
dày đặc bÃi sông. trên khúc sông dài xác ngời vẫn trôi xuống và
thung lũng sông Ba trỏ thành nghĩa trang khổng lồ vì đói, vì
bệnh tật, vì thanh toán lẫn nhau để giành lấy sự sống. Đó chính
là thiện thực dà man khốc liệt của chiến tranh đợc nhà văn sau 1975
miêu tả rất chi tiết và chân thực. Hiện thực cuộc chiến không còn
đẹp đẽ lÃng mạn nh trong văn học giai đoạn trớc đây. Chiến trờng là
nghĩa địa khổng lồ trôn vùi đi biết bao nhiêu sinh mạng của con
ngời. Trong chiến tranh sè phËn con ngêi thËt nhá bÐ c¸i chÕt cã thể
ập đến bất cứ lúc nào, nhanh chóng và tàn khốc. Trong truyện ngắn
Máu của lá - Võ Thị Hảo, Hoàng và Tuân đang đi trong một khu
rừng yên tĩnh, tởng rằng chẳng có một mối nguy hiểm nào thị
bục một viên đạn lạc phút chốc đà lấy đi mạng sống của Tuân. Cái
chết đến với con ngời thật bất ngờ không đợc dự báo trớc Sự ra đi
của Thanh (Đốm lửa- Nguyễn Minh Thuý) cũng vậy. Ngọc và Mĩ chờ
anh ở điểm hẹn mÃi mà không thấy thì ra Thanh đà hy sinh từ lúc
nào không biết, sáng hôm sau hai ngời mới phát hiện ra xác Thanh bị
ép ngay sát bờ. Thuyền gạo của Đài và Lan bị mắc cạn cố gắng đẩy
thuyền ra của biển thì Lan cứng chết khi ngân mình trong nớc lạnh
quá lâu trong khi đang bị kinh nguyệt. Đài trở xác bạn trên thuyÒn
22
và kéo theo một xác chết không rõ danh tính không biết đà chết từ
lúc nào dới dòng sông. Qua những truyện ngắn về đề tài chiến
tranh sau giải phóng, chóng ta nhËn thÊy mét thùc tÕ lµ sinh mƯnh
con ngời thật nhỏ nhoi trong lửa đạn của chiến tranh. Trong cuộc
chiến tàn khốc đó con ngời bị đẩy và những trận đánh, vào những
hoàn cảnh bất khả kháng, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái
chết chỉ là trong gang tấc. Chiến thắng có đợc không chỉ toàn vinh
quang mà nó còn là máu và nớc mắt của biÕt bao con ngêi.
HiƯn thùc trong trun ng¾n viÕt vỊ đề tài chiến tranh hôm
nay rất đa dạng nó không chỉ là thế giới thực mà con ngời đang
sống mà có thể đó là một thế giới ma quái hoang đờng (Thiên sứ
Phạm Thị Hoài; Bến trần gian Lu Minh Sơn; Đốm lửa - Hồn trinh nữ Võ thị Hảo, Một đêm cả đời ngời- Kiều Vợng). Hiện thực trong tác
phẩm không nhất thiết phải đồng nhất với hiện thực đời sống nó có
thể là những câu truyện hoàn toàn bịa đặt hoặc đầy dẫy những
yếu tố hoang đờng kỳ ảo. Nhà văn đà sử dụng thế giới không có thật
nh phơng tiện để chiêm nghiệm để trình bày quan điểm t tởng
của mình về đời sống. Góp phần làm cho hiện thực trong truyện
ngắn hôm nay đa dạng và chân thực, đồng thời cũng lột tả đợc bộ
mặt tàn khốc của chiến tranh rõ nét hơn.
Sự thay ®ỉi vỊ quan niƯm vỊ hiƯn thùc dÉn ®Õn sù thay
đổi quan niệm về con ngời. Trong văn học 1945-1975 thờng xây
dựng những nhân vật anh hùng trong tập thể anh hùng trong đó ngời lính với vẻ đẹp toàn bích, không tì vết là biểu tợng của ngời anh
hùng thời đại. Đó là mẫu hình lý tởng của một thời vinh quang và
oanh liệt của dân tộc. Thì văn học sau 1975 nhà văn lại nói nhiều
đến những con ngời bình thờng trong cuộc, những mối quan hệ
hết sức phức tạp giữa con ngời với con ngời. Trớc đây với t duy sử thi,
cảm hứng lÃng mạn đà chi phối cách nhìn cuộc đời, nhìn con ngời
23
của các nhà văn nên khi nói về hiện thực và con ngời trong chiến
tranh còn có nhiều hạn chế. Cái nhìn xuôi chiều đơn giản một cách
rạch ròi thiện - ác, địch- ta, cao cả - thấp hèn giờ đợc thay thế bằng
những hình tợng văn học với những tính cách đầy đủ trọn vẹn.
Chiến tranh kết thúc trở vỊ víi cc sèng ®êi thêng, con ngêi cã
®iỊu kiƯn quan tâm tới gia đình, cá nhân của mỗi con ngời, cũng
từ đó mà những lợi ích cá nhân cũng đợc chú trọng. Vì vậy con ngời đợc khám phá dới góc độ cá nhân, tồn tại độc lập với tính cách
riêng, tâm t tình cảm cũng nh số phận riêng không ai giống với ai.
Con ngời hôm nay tồn tại cùng với những mâu thuẫn, không trùng khít
với chính mình, mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ với chiều sâu tâm
hồn rất khó nắm bắt. Văn học sau giải phóng vẫn tiếp tục với đề tài
chiến tranh và ngời lính nhng lại đợc nhìn ở một góc độ khác. Đó là
quan niệm hoàn toàn mới về hiện thực vµ con ngêi trong chiÕn tranh
cịng nh sau chiÕn tranh tạo nên những bớc tiến quan trọng tiến
trình hiện đại hoá văn học. Những tác phẩm nh: Hai ngời trở lại
trung đoàn - Thái Bá Lợi, Bức Tranh - Nguyễn Minh Châu là những tác
phẩm mở đầu cho phong trào đổi mới trong văn học đà có sự đổi
mới quan niƯm râ rƯt vỊ con ngêi so víi thêi kú trớc đó. Không còn
kiểu phân tuyến rạch ròi nh văn học giai đoạn trớc đó mà xuất hiện
kiểu nhân vật lìng diƯn, con ngêi cđa sù phøc t¹p lÉn lén giữa
những cái tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, ¸nh s¸ng - bãng tèi. Trun
ng¾n bøc tranh – Ngun Minh Châu là sự xuất hiện của kiểu
nhân vật mới kiểu nhân vật tự nhận thức (Trí- hoạ sĩ). Ngời lính
không còn xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện, không tì vết có thể
chiến thắng hoàn cảnh, làm chủ mọi tình thế. Ngời hoạ sĩ đà tự
dằn vặt tự ý thức đợc về tội lỗi, về sự ích kỷ, thiếu tránh nhiệm mà
mình gây ra cho mẹ con ngời lính. Ngời anh hùng hôm nay vẫn
mang những phẩm chất của con ngời đời thờng. Lực trong Cỏ lau là
24
một ngời chỉ huy tài giỏi bản thân anh là một nạn nhân của chiến
tranh là một ngời chụi nhiều cay đắng bất hạnh trong cuộc sống nhng anh cũng phạm sai lầm nh bất kỳ một con ngời nào. chỉ vì sĩ
diện của bản thân anh đà ra mệnh lệnh vô lí và giết chết một ngời
lính trẻ. Anh sống trong sự dằn vặt, trong đau đớn và cắn dứt lơng
tâm anh tự nhận mình là kẻ sát nhân: giết đồng đội một cách oan
ức chỉ vì t thù nhỏ nhen. Hoà trong Ngời đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành của Nguyễn Minh Châu là con ngời đợc đơn vị tôn vinh là
anh hùng, trở thành hình mẫu ngìng mé cđa anh em nhng anh vÉn
cã nh÷ng khut điểm về mặt thân thể, đạo đức, tâm hồn. anh
cũng hí hửng mừng rỡ khi đợc thăng cấp, Cũng yêu ngời này nói
xấu ngời kia. Anh lại có bệnh mồ hôi tay hai bàn tay lúc nào cũng
dấp dính và lạnh. Những kẻ tha hóa, cơ hội không chỉ trong hàng
ngũ địch mà nằm ngay trong hàng ngũ của ta. Trí trong truyện
ngắn hai ngời trở lại trung đoàn là một ngời lính dũng cảm, một chỉ
huy tài giỏi nhng anh vẫn là một con ngời hẹp hòi ích kỷ, đó kị,
cũng dở những thủ đoạn hèn nhát để chiếm lấy tình cảm của Mây
rồi lại ruồng bỏ cô. Mây cũng là một ngời giỏi giang trong công tác
nhng lại có những sai lầm nghiêm trọng trong cuộc sống đời thờng
và tình cảm riêng t. Kiểu nhân vật này ngày càng xuất hiện nhiều
trong văn học tạo nên sự đa dạng trong truyện ngắn giai đoạn sau
1975.
Truyện ngắn hôm nay nãi nhiỊu tíi nh÷ng ng êi lÝnh trë vỊ tõ
chiÕn trờng mang trong mình những vết th ơng của chiến tranh
Mây- Ngời bến sông Châu; Thảo - Ngời xót lại của rừng cời, Lực - cỏ
lau, Thời- Hoàng Dân, ngời lính Biển cứu rỗi, Thục (chỗ dựa- Trầm
Hơng)
trong cuộc chiến họ là những ngời lính dũng cảm, sẵn
sàng chiến đấu và hy sinh vì tổ quốc thế khi trở về với cuộc sống
đời họ lại là những con ngời bất hạnh, chụi nhiều thiệt thòi khi cuộc
25