Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Huyen khong phi tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 154 trang )

HUYỀN KHƠNG PHI TINH
/>Phong thủy huyền khơng phi tinh (Phần I)
Phong Thủy Huyền Khơng
Nói về hai chữ HUYỀN KHƠNG
Chương trọng Sơn nói:” Vơ định, vơ cứ, khơng phương hướng, khơng góc cạnh,
khơng khởi đầu, khơng kết thúc, khơng hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi,
không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Khơng”
Lạc Sĩ Bằng viết:”Huyền nghĩa là trời đất khiến nó như thế. Khơng nghĩa là đất
phải bẩm thụ như thế. Chính vì chú trọng mặt đất như thế thì có gì là “Khơng”?
Nhưng đất cũng có lưu động, thơng dịng. Đấy chính là chỗ “khơng” của mặt đất
vậy. Đấy cũng chính là chỗ xảo diệu, khéo léo của đất vậy.
Thẩm Trúc Nhưng giải thích về Huyền Không: “Huyền nghĩa là nhất (một) (Huyền
giả nhất dã). Không cũng là vạch liền trong bát quái. Song “không “ở đây khơng
phải là khơng có gì mà khơng ở đây vẫn bao hàm cái có.
Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) nói về chữ “khơng”:
Sắc bất dị khơng
Khơng bất dị sắc
Sắc tức thị không
Không tức thị sắc
Thụ tưởng hành thức
Diêc phục như thị
“Sắc(vật) chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là
sắc. Cái cảm nhận và suy nghĩ cũng hệt như vậy”.
Khái niệm không ở đây phải dựa vào khái niệm có mà nên vậy.
HUYỀN KHƠNG là sự đến từ hư vơ rồi trở về hư vơ. Từ một đến chín, để suy
đốn sự sinh ra hay mất đi, thăng hay giáng, âm hay dương trong trời đất.
Thế giới chúng ta đang sống, con người – trời – đất , thời gian và không gian, mỗi
cái đều khác nhau. Nhưng cùng tồn tại theo một qui luật chung trong mối qn
bình hài hịa, Chúng đã ở đúng trong vị trí mà chúng phải tồn tại. Qui luật ln
biến đổi mà hài hịa cân đối đó chính là thuật “phong thủy” mà Huyền Khơng địa
lý nghiên cứu.


Sơn –tĩnh, Thủy – động, nhưng có mối quan hệ qn bình với nhau. Khơng thể chỉ
1


dùng mắt thường để xem mà phải dùng “tâm nhãn” để xem nữa.
HUYỀN KHÔNG nghiên cứu sự thay đổi, biến hóa của sự vật, biểu thị bằng các số
từ 1 đến 9 di chuyển theo một quĩ đạo nhất định là vịng “Lường thiên xích”
Bàn về vịng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết:
Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi,
Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi,
Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri
Tạm dịch:
Nếu đã nắm được vịng Lượng thiên Xích,
Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngồi xưa nay,
Tìm hiểu được sự sống chết và được mất,
Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Cho nên Huyền khôngđịa lý là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số
theo quỹ đạo của vịng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát qi mà đốn định sự
thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích
Hãy coi thử ma phương sau:

Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ
trụ
1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là
2



số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời
là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm
đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó
“Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp
với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và
điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo
“Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời
hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp
với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó
theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì mn vật mới
ln ln tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Bắt đầu từ Bắc đến Đơng, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung
ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh
Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào
trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đơng vì ở Bắc bán cầu:
Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm
nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đơng biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía
Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí
Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải phía Nam bán cầu “lường thiên
xích” bay ngược với Bắc bán cầu)

Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sơng hồng
hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi
chép lại, gọi là hà đồ
3


Khẩu quyết của hà đồ như sau:
“Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC.
Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM.

Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG.
Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY.
Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung”
Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC.
2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM
3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐƠNG
4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY
5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa”
Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là :
ĐƠNG-TÂY-NAM-BẮC mà thơi.

2 – Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ
1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư
vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc
kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khắc Thổ, rồi lại về Thủy, vì
Thổ khắc Thủy.

4


Theo truyền thuyết vua VŨ khi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên
lưng có đồ hình phương vị của cửu tinh. Vua Vũ sao chép lại và gọi đó là Lạc Thư.
Khẩu quyết của Lạc Thư :
“Đời Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục-Bát vi túc; Ngũ cư
trung vị”
Có nghĩa là : “ Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3; bên phải 7; vai là 4 và 2; chân là
6 và 8; cịn 5 ở chính giữa”

3- Tiên Thiên Bát Quái: từ Hà Đồ người đời sau này khi phát hiện được 8 quẻ dịch

mới lập thành 8 hướng và đưa 8 quẻ dịch vào đó (các chữ số là số quẻ tiên thiên)
4-Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi
lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị

5


của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư
và cũng là số quẻ Hậu Thiên)

Với việc phát minh và sử dụng 8 hướng trên la bàn, vua Vũ đã có thể tách rời các
cặp và phân bố chúng ra khắp 8 hướng, nhưng trên thực tế vẫn là qui tụ về những
cặp số của hà đồ tức tiên thiên. Trong Hà Đồ, 1-6 đứng chung ở phía Bắc. Cịn
trong Lạc Thư , 1 vẫn nằm ở phía Bắc, cịn 6 ở Tây Bắc. Nên tuy hình thức là tách
rời, nhưng thật ra vẫn là kề vai sát cánh, đứng bên cạnh nhau mà tạo thành thế
“đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và với sự ra đời của Hậu thiên bát
quái, tính chất, phương vị, ngũ hành của cửu tinh và của 8 quẻ đều đã được khẳng
định. Nên chúng chính là khởi điểm cho mọi ngành học thuật phương đơng, trong
đó có phong thủy.
Các quẻ bát quái đứng trong Hậu thiên (cũng như lạc thư) tạo thành một vòng
tương sinh.

6


Phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái như sau:
- Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên
số 9 mang hành Hỏa.
- Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ
Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy.

- Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐƠNG. Vì phương ĐƠNG là quẻ CHẤN-Mộc,
nên số 3 mang hành Mộc.
- Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐỒI-Kim, nên
số 7 mang hành Kim.
- Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc
quẻ KHƠN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
- Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐƠNG NAM. Vì ĐƠNG NAM thuộc quẻ
TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
- Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ
CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim.
- Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐƠNG BẮC. Vì phía ĐƠNG BẮC
thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
- Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là
nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng
mang hành Thổ.
Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau:
7


đơng nam..............nam...............tây nam
............4................9................2
đơng.....3................5................7 tây
............8................1................6
đơng bắc.............bắc..............tây bắc
Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu
thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về khơng gian và thời gian thì Cửu
tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi
là vịng Lượng thiên Xích.

ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH

Âm dương
Trong cuộc sống chúng ta luôn luôn tồn tại 2 cái trái nghịch nhau:
- Mặt phải và mặt trái
- Vui và buồn
- Quân tử và tiều nhân
- Tối và sáng
- Thuận và nghịch
- Nóng và lạnh
- V. v……..
Trong tất cả những cái giống nhau thì đều có điểm khác nhau
Trong tất cả những cái khác nhau thì đều có điểm giống nhau
Đó là Âm – Dương
Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý
nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương ln ln dung hồ lẫn nhau, bổ túc
cho nhau,…
Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng:
Thiếu dương: Khí dương cịn non.
Thái dương : Dương cực mạnh
Thiếu âm : Âm mới sinh
Thái âm : Âm dày đặc.
Đặc tính :
Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi
xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể.
8


Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại,
chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể
Trong sự biến hố tuần hồn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu
Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu

hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy ln dung hồ lẩn nhau, tương
giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trị quan trọng trong cuộc sinh thành của vạn vật.
Âm Dương và sự hình thành tám quẻ tượng
Chu Hy nói rằng : Dịch có Thái Cực sinh hai nghi (âm và dương) , hai nghi sinh
bốn tượng (tức thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm), bốn tượng sinh bát
quái (tức càn , đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) rồi bát quái lại sinh 64 quẻ
cũng như rễ thì có gốc, gốc có cành, cành lớn càng ít thì cành nhỏ càng nhiều. Âm
trường thì dương tiêu (âm lớn mạnh thì dương mất đi), dương trường thì âm tiêu
(mặt trời càng lên cao thì bóng tối dần càng mất đi). Đó là lẽ sinh sinh diệt diệt
trong vũ trụ. Như ta từ không mà đến rồi lại sẽ trở về không vậy.
Khôn (địa)
::: Khi trời đất cịn là mội cõi hư vơ . Do Đó tính của quẻ là Hư, Hình ảnh của quẻ
là lục đoạn, lý là nhu thuận, thuận dã, mềm mỏng, như mặt đất yêu thương mọi vật
trên đó (thổ), Dương thuận tòng,hòa theo lẽ, chịu lấy,ẩn, như tuân theo mà được
lợi, thấp, nhỏ, tối,là hình ảnh cũa mẹ già. Số tiên thiên là 8, sô hậu thiên là 2 (cũng
là số của cửu tinh)
Cấn (sơn)
::| Khơng cịn ẩn nữa và dương bắt đầu xuất hiện nhưng cịn non vì ở ngọn. Do đó
tính là Ngưng, hình ảnh quẻ là phủ hạ tức trùm lên cũng là hình trái núi (thổ). Lý là
Ngưng nghỉ. Chỉ dã, ngăn giữ, ở, thôi, ngừng lại, đậy lại, để dành, Ngăn cấm, vừa
đúng chỗ, che phủ. Ngôi thứ là trai út hay thiếu (dương cịn non). Ngơi thứ là thiếu
nam (trai út). Số tiên thiên 7, số hậu thiên là 8
Khảm (thủy)
:|: Dương lẩn vào trong tức được đứng vững. Do đó tính là Trụ (cây trụ muốn vững
thì cần cắm xâu) hình ảnh là trung mãn (đầy bên trong) là eo thắt, như được bao
kín (thủy) , Lý là hãm hiểm, hãm dã, hãm vào trong, bắt buộc, xuyên xâu vào
trong, hố xâu, trắc trở, hiểm hóc, gập ghềnh. Ngơi thứ là trung nam (đồng lấy dị
mà luận). Số tiên thiên là 6, số hậu thiên là 1
Tốn (phong)
:|| Xuất hiện thêm một hào dương, Âm lui dần về tức ẩn tàng, dấu diếm. Do đó tính

là Tiềm. hình ảnh là hạ đoạn (đứt dưới), như cây cổ thụ có rễ tỏa ra (mộc cỗi). Lý
là Thuận nhập, thuận dã (chiều theo), thuận theo ý trên, theo xuống, theo tới, theo
9


lui, có sự dấu diếm ở trong. Ngơi thứ là trưởng nữ. Số tiên thiên là 5, số hậu thiên
là 4
Chấn (lơi)
|:: Lúc này khí dương đã đủ sức xuống đến gốc để chuẩn bị chu kỳ mới bung lên.
Do đó tính là Khởi. Hình ảnh là ngưỡng thượng (chén ngửa), như mầm non mới
nhú (mộc non). Lý là động dụng, động dã, bung lên, khởi lên, sợ hải, nổ vang, chấn
động, chấn kinh, phân phát. Ngôi thứ là trưởng nam. Số tiên thiên là 4, số hậu thiên
là 3
Ly (hỏa)
|:| Xuất hiện một khí dương bên trên ngọn như ngọn lửa tỏa ra. Do đó tính là Vũ.
Hình ảnh là trung hư, rỗng ở trong , như ngọn lửa thấy vậy mà trong rỗng mà thơi
(hỏa). Lý là nóng sáng, lệ dã, sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô
trương, trống trơn, không yên. Ngôi thứ là trung nữ (gái giữa). Số tiên thiên là 3, số
hậu thiên là 9
Đoài (trạch)
||: Lúc này dương đã làm chủ đẩy âm hiện lên trên. Do đó tính của quẻ là Hiển.
hình ảnh là thượng khuyết, là khuyết mẻ , như lưỡi dao bị mẻ vậy (kim bén , mỏng)
. Lý là hiện đẹp, duyệt dã, vui lòng, vui vẻ, ưa thích, nói năng, khuyết mẻ. Ngơi thứ
là thiếu nữ (gái út). Số tiên thiên là 2, số hậu thiên là 7
Kiền (thiên)
||| Dương đã hoàn toàn xuất hiện như một điều hiển nhiên. Do đó tính là Như. Hình
ảnh tam liên, trịn đầy , cứng chắc như khối kim loại (kim khối, cục). Lý là cương
kiện, kiện dã, mạnh mẽ, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn , cao, dương sáng. Hình
ảnh của người Chồng hoặc Cha. Số tiên thiên là 1, số hậu thiên là 6
Tóm lại: sự hình thành tính chất của 8 quẻ qua các giai đoạn từ hư không cho đến

hiện tại:
8_Hư – 7_Ngưng – 6_Trụ - 5_Tiềm – 4_Khởi – 3_Vũ – 2_Hiển – 1_Như
Từ tám quẻ tiên thiên khi chồng nên nhau giống như những sự kiện được liên kết
lại mà hình thành nên 64 quẻ dịch.

Ngũ hành
Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành
được hình thành qua 2 giai đoạn
1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc,
đất 4 sinh sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành
2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ;
-Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên)
10


- trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên)
- Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên )
- Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ)
Phương hướng;
Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ
ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ.
Ngũ khí ;
- Phong khí ( gió)thuộc mộc
- Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả
- Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ
- Táo khí (khí khơ) thuộc kim
- Hàn khí ( khí lạnh)
Tạng phủ
- Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi

- Mộc: Lơng, tóc, tay chân, gan, mật
- Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận
- Hoả: Mắt, tim
- Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng
Hình dáng:
- Kim: Trịn, dày
- Mộc: hẹp dài
- Thuỷ : Khúc khuỷu
- Hoả: nhọn sắc
- Thổ: vuông vức
Quẻ dịch;
- Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI
- Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN
- Thuỷ: quẻ KHẢM
- Hoả: Quẻ LY
- Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN
Thiên can:
- Kim: canh, tân
- Mộc: Giáp, ất
- Thuỷ: Nhâm, quí
- Hoả: Bính đinh
- Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi:
- Kim: Thân, dậu
- Mộc: dần, mão
- Thuỷ: Hợi, tý
11


- Hoả: Tỵ, ngọ

- Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi
Sinh khắc của ngũ hành
Sinh:
- kim sinh thuỷ
- thuỷ sinh mộc
- mộc sinh hoả
- hoả sinh thổ
- thổ sinh kim
Khắc:
- Kim khắc mộc
- Mộc khắc thổ
- Thổ khắc thuỷ
- Thuỷ khắc hoả
- Hoả khắc kim
Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau
để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ
hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế),
nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thơi. Ngồi
ra, nó cũng bao hàm hết cả q trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.
Ngũ hành phản sinh
Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại
trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều
thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều q thì đơi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử
vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.
Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trơi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc
Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng
do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã khơng thể khắc được mà lại cịn
12


bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.
Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:
- Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trơi dạt.
- Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.
Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là
tương sinh hay tương khắc, mà cịn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ
xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền khơng mới
đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngơi nhà
nơi phía ĐƠNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thơng thường thì thấy
7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi
đó thì đốn là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn
kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐƠNG cũng hành Mộc.
Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu khơng thể khắc được, mà cịn bị
phản khắc lại. Vì thế nhà này khơng có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh
yếu phổi hay đau phổi mà thơi.
Lượng thiên xích
Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu
tinh đăng qi"
1- Lượng thiên xích thuận:
đơng nam.............nam.............tây nam
............9..............5..............7

đơng.....8...............1..............3...tây
...........4................6..............2
đơng bắc...............bắc...............tây bắc
(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
13


(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.
2- Lượng thiên xích nghịch
đơng nam..................nam...............tây nam
............2....................6................ ...4
đơng.....3....................1................. ..8...tây
............7....................5................ ...9
đơng bắc...................bắc.................tây bắc
(1) Từ trung cung lên ĐƠNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.

Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân
định âm-dương của Tam nguyên long.
Cửu tinh và ý nghĩa
- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế
loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thơng minh trí tuệ. Nếu suy
tử thì hại vợ, khơng thọ, cuộc đời trơi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát
mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát q về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt
quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về
bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
14


* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng
gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì
người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc
trở thành trộm cướp.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay

* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa
cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền q. Nếu suy tử thì
phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang
phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hồng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu
suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh khơng nên động.
Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ
thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì
cơng trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cơ độc hoặc
chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài
đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay
bị giam cầm, gia đạo khơng yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người

ham mê tửu sắc
15


* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú q dài lâu, con
cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh
dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu
dịng giữa được hưởng phú q. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị
bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm
Cịn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau.
Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm
vững để ứng dụng sau này.
Phong thủy huyền không phi tinh (Phần II)
Hướng nhà và Tâm nhà

1- Hướng nhà:
Hướng nhà là một trong nhiều căn bản của Huyền Không Phi Tinh. Tuy là căn bản
nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm . Nếu khơng thì sẻ nhận thức sai về phương
hướng của căn nhà . Phái phi tinh dùng hướng nhà chứ không dùng hướng cửa như
phái bát trạch
Đại đa số hướng nhà đều đi chung với hướng cửa ngoại trừ vài trường hợp như cửa
mở bên hơng nhà, nhà có kiến trúc khác thường, v.v.
Nói một cách đơn giản thì hướng nhà phải là hướng đối ngược với hướng của
người đi tới nhà . Như người đi tới hướng Nam để tới nhà thì hướng nhà là hướng
16


bắc.
Có người dùng cách lấy dương làm hướng, theo cách này thì dương là nơi khí
động, có thủy, thấp v.v. Như vậy sẻ gặp nhiều trường hợp rất khó quyết định, thí
dụ như có nhà phía sau trống trải và thấp cịn phía trước thì có đường lộ và đơi khi
cao hơn phía sau vậy làm sao định hướng. Có nhà phía sau rộng và thống, phía
trước hẹp lại có đường .
Khi phân vân thì ta phải lập nhiều tinh bàn rồi so sánh với diễn biến đã sảy ra trong
nhà đó phù hợp với tinh bàn nào thì dùng tinh bàn của hướng đó.

Đo hướng nhà thì đơn giản hơn nhận định hướng, chỉ cần chọn một vách nhà song
song với hướng của nhà, sau đó căng một sợi giây song song với vách đó và chạy
ra khỏi nhà khoản 2-3 mét . Để la bàn song song với sợi giây đó và xem bao nhiêu
độ . Nếu có khả năng canh bằng mắt thì khơng cần dùng giây .
Trong một vài trường hợp khơng có vách nào song song với hướng nhà thì chọn
một vách vng gốc với hướng nhà mà đo, sau đó cộng hoặc trừ 90 độ thì sẻ được
hướng nhà

17



Tại sao phải làm như dưới đây ? Tại gì đó là một cách đo chính xác nhất mà khơng
cần phải có nhiều kinh nghiệm. Có người thì đứng giửa nhà hay trước cửa nhìn ra
hoặc đứng trước nhà nhìn vào v.v. Những cách này khơng thể chính xác được . Tại
sao ? đó là gì la bàn khơng có điểm tựa, và người đứng khơng có điểm tựa, nhích
một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới
kết quả đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có
người lại phân ra 384 quẻ như vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi
đừng nói gì tới 1 độ
Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh)

18


2- Tâm nhà :
Tâm nhà củng như hướng nhà là một căn bản mà người học phong thủy lẩn người
muốn xem phong thủy cần biết . Nếu lấy hướng sai thì xem phong thủy sẻ sai, nếu
lấy tâm nhà sai thì xem phong thủy củng sai .
Đại đa số những thầy phong thủy đều dựa vào kinh nghiệm của mình và mức phán
đốn của mình mà chọn tâm nhà . Mức độ chính xác dựa theo cách này thì tùy theo
kinh nghiệm của mổi người .
Nhưng nếu dựa vào bản vẻ và tốn học để tìm tâm nhà thì mức độ chính xác sẻ cao
và khơng phân biệt giửa người khơng có kinh nghiệm và người có kinh nghiệm .
Tâm nhà trong phong thủy gọi là thái cực và củng có nhiều người gọi là thiên tâm.
Thái cực là danh từ dùng chung cho các tâm điểm chứ không riêng về tâm nhà .
Mọi vật đều có thái cực và ý nghĩa của thái cực là điểm giửa của các vật, nơi mà
vật đó phụ thuộc vào để giử thăng bằng .
Hình dạng nhà cửa ngày nay cũng rất phức tạp và đa dạng, khiến cho việc tìm tâm
nhà đang từ là 1 vấn đề dễ dàng đôi lúc cũng trở nên khó khăn. Đối với những nhà

được xây theo hình vng hay hình chữ nhật thì tâm nhà là giao điểm của 2 đường
chéo.
Đối với những nhà có hình tam giác, lục giác, hình thang... thì cách tính tâm nhà
cũng là cách tính tâm những hình này trong các lớp tốn tiểu học. Cịn đối với
những nhà có nhiều góc cạnh khơng đồng đều thì việc định tâm nhà tương đối khó
khăn hơn. Phương pháp đơn giản nhất để tìm tâm của những căn nhà này (và ngay
cả những nhà hình tam giác, lục giác...) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ơ vng theo
đúng tỉ lệ kích thước của căn nhà, rồi in hình đó sang 1 tấm bìa cứng. Sau đó cắt
hết những phần thừa của tấm bìa cứng đi, chỉ để lại phần sơ đồ căn nhà mà thôi.
Rồi lấy 1 vật nhọn (như đầu viết chì, viết big...) để nâng tấm bìa cứng có hình sơ
đồ căn nhà lên. Tới lúc nó có thể nằm thăng bằng trên đầu cây viết thì điểm đó
chính là tâm của căn nhà. Dùng bút chì để đánh dấu điểm đó, xong bạn vẽ 2 đường
thẳng đi ngang qua điểm đó: 1 đường thẳng góc với 2 bên hơng nhà; 1 đường thẳng
góc với 2 mặt trước, sau của căn nhà. Đường thẳng thứ 2 này sẽ là tọa và hướng
của căn nhà. Từ đường thẳng này bạn có thể phân ra 8 hướng và 24 sơn chung
quanh nhà để xác định chính xác vị trí của mọi thứ trong nhà trước khi luận đốn
cát, hung, hay tìm cách sửa đổi Phong thủy cho căn nhà đó.
3- Vẽ sơ đồ nhà:
19


Trước hết ta cần có giấy trắng kẻ ơ vng và một cây thước đo. Ta đo chiều dài,
chiều rộng của căn nhà là bao nhiêu mét (hay feet), rồi tùy theo nhà lớn hay nhỏ
mà tính theo tỷ lệ cứ 1mét hay 1 feet = 1 ô hay 2 ô trên giấy. Kế đến, ta vẽ cách bố
trí cuả căn nhà, như cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phịng khách, phòng ăn, bếp, phòng
ngủ, phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của 4 bức
tường. Dĩ nhiên là phải đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi vẽ, ví dụ nếu ta muốn
vẽ vị trí bếp thì phải đo xem nó cách bức tường phía trước (hay phía sau) khoảng
bao nhiêu. Và cách bức tường bên phải (hoặc bên trái) khoảng bao nhiêu. Rồi nó
lớn khoảng bao nhiêu. Và nhìn về bức tường nào?...

Sau đó, ta áp dụng cách tìm tâm nhà như đã nói ở trên để xác định tâm nhà trên sơ
đồ vừa vẽ xong. Kết hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã nói ở bài trước) ta sẻ
xác định được 8 hướng trên sơ đồ nhà. Như vậy là ta có được một sơ đồ nhà hồn
chỉnh.
Nếu các bạn dùng phần mềm AUTOCAD để vẽ và định tâm nhà thì sẽ cho chính
xác khá cao.

PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN
Xác định tọa hướng nhà:
Theo độ số mà ta đã đo áp dụng vào sơ đồ ta sẽ xác định được tọa hướng nhà

20


Thí dụ: nhà đo độ hướng được 91’ tức nằm trong cung Mão vậy là nhà tọa Dậu
hướng Mão
Lường Thiên xích : Là hướng bay của cửu tinh khi có một sao nhập trung cung
Lường thiên xích thuận:

Lường thiên xích nghịch:

Sơn & Hướng:
Hậu thiên bát quái được chia thành tám hướng đều nhau, mỗi hướng chiếm 45 độ
trên la bàn và đi với một số của cửa tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8),
ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) ,
TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa
Mỗi hướng lại chia thành 3 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ:
- Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
- Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
- Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT

- Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
- Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
- Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
- Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
- Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Độ số chính giữa của mỗi sơn : sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ
15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105
độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đơ; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH
21


195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ;
TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Độ chính giữa (+)(-) 3 độ thì gọi là chính hướng. Cịn (+)(-) trên 3 độ thì gọi là
kiêm hướng.
Tam nguyên long:
Tam nguyên long gồm có : Thiên nguyên long, nhân nguyên long và địa nguyên
long
@ THIÊN NGUYÊN LONG: có 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
@ ĐỊA NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
@ NHÂN NGUN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Dựa vào tính chất âm dương của tam nguyên long mà ta sẽ biết được lường thiên
xích đi thuận hay đi nghịch.
Phương pháp lập tinh bàn:

1 - Vận bàn:
Thời gian được chia làm 3 nguyên, gồm: thượng nguyên, trung nguyên và hạ
nguyên. Mỗi nguyên lại chia làm 3 vận. Mỗi vận là 20 năm
- Thượng Nguyên gồm : Vận 1, 2, 3. Tổng cộng là 60 năm
- Trung nguyên gồm : vận 4, 5, 6. Tổng cộng 60 năm
- Hạ nguyên gồm : Vận 7, 8, 9. Tổng cộng 60 năm
Tổng 3 nguyên là 180 năm. Hết hạ nguyên lại tới thượng nguyên.
Chúng ta đang sống trong hạ nguyên;
- Vận 7 từ 1984 đến 2003
- Vận 8 từ 2004 đến 2023
- Vận 9 từ 2024 đến 2063
Đến vận của sao nào thì lấy sao đó nhập trung cung, xác định các sao khác theo
vịng lường thiên xích thuận
Thí dụ: Nay ta đang ở vận 8. Lấy 8 nhập trung cung bay thuận ta được vận bàn

22


2 - Hướng bàn: Sau khi có vận bàn ta lấy số ở hướng cho nhập trung cung, rồi cho
bay thuận hay nghịch theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy cùa sao ấy.
Thí dụ 1: nhà tọa Càn hướng Tốn, Hướng có sao số 7, lấy 7 nhập trung cung, Tốn
là thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7
bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên phải của vận tinh)

3 - Sơn bàn: "Sơn" chỉ khu vực sau nhà , tức phương toạ. Lấy số của vận bàn tại
phương toạ đem nhập trung cung, để ở góc bên trái. Xem phương toạ là sơn gì?
Thuộc tam nguyên long nào? Thí dụ : toạ càn thuộc thiên nguyên long.Tiếp theo
coi số của vận tinh thuộc tam ngun long đó tính chất âm dương là gì? Nếu là
dương thì theo lường thiên xích thuận cịn nếu là âm thì theo lường thiên xích
nghịch Thí dụ : Vận 8 vận tinh tại càn là 9. Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính

chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung cung bay nghịch.

Tóm tắt
- lấy số của vận bàn tại toạ hoặc hướng nhập trung cung.
- Nếu là thiên hoặc nhân nguyên long: Số chẵn bay thuận, số lẻ bay nghịch.
- Nếu là địa nguyên long: Số chẵn bay nghịch, số lẻ bay thuận
Thế quái
Khi nhà bị lệch (+)(-) Trên 4 độ cho tới dưới 7 độ thì phải dùng thế quái để lập tinh
bàn.
23


Phương pháp lập tinh bàn thế như sau:
- Lập vận bàn.
- tam nguyên long của sơn hoặc hướng là gì?
- coi số của vận bàn tại phương toạ hoặc hướng thuộc tam ngun long đó gốc là
gì?
Thí dụ: toạ càn vận 7. Càn là thiên nguyên long. Bát (8) đáo toạ, thiên nguyên của
8 là cấn
- Không dùng 8 nhập trung cung mà dùng số thế theo bài khẩu quyết của Khương
Nghiêu:
Bốn sơn : Tí Quí Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Năm sơn : Nhâm Mão Ất Mùi Khôn, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Sáu sơn : Tuất Càn Hợi Thìn Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Năm sơn : Tân Dậu Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Bốn sơn : Ngọ Đinh Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Thí dụ : theo thí dụ trên thì thiên ngun của 8 là cấn, dùng phá quân (7) thay thế.
Vậy lấy 7 nhập trung cung. Cấn dương nên đi thuận.

Trong này ta thấy có một số sơn phải dùng thế mà khơng thế. Thí dụ : sơn Tý thế

bằng 1 thực ra số của sơn Tý cũng là 1.
Ngoại trừ các sơn thế mà khơng thế ra ta cịn:
Hai sơn : Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Ba sơn : Nhâm Mão Ất, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Hai sơn : Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Ba sơn : Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Hai sơn : Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Tóm tắt:
Để dễ nhớ thế quái ta thuộc bài thơ sau:
Cửu, Canh Dần
Nhất, Giáp Thân
Nhị, Nhâm Mão Ất
Lục, Thìn Tốn Tị
Thất, Sửu Cấn Bính
Tức là:
Số 9 thế cho Canh Dần
1 thế cho Giáp Thân….
24


Thí dụ: Số ở hướng là 3 lại ở địa nguyên long. Địa nguyên long của 3 là Giáp. Vậy
số thế cho Giáp là 1
Các cung khác không trong bài thơ này tức khơng có số thế. Thí Dụ: Số 6 ở thiên
nguyên long. Thiên nguyên long của 6 là Càn. Càn khơng có số thế nên vẫn lấy 6
nhập trung cung bay thuận.
Lập tinh bàn cho nhà kiêm 7 độ hoặc 7,5 độ
Còn đối với trường hợp hướng nhà lệch 7 độ hay 7 độ rưỡi thì khơng thể dùng tinh
bàn của 1 hướng được nữa, mà phải lập tinh bàn cho cả 2 hướng. Cho nên ngoại
trừ những hướng kiêm giữa quẻ Phụ mẫu (Thiên) với Thuận tử (Nhân)( dùng thế
quái như kiêm 5 độ)ra, còn những hướng kiêm khác đều sẽ xuất hiện 2 hướng tinh

và 2 sơn tinh tại mỗi cung của địa bàn, nếu hướng nhà đó kiêm trên 7 độ.
Nói rỏ hơn là nếu kiêm 7 độ trừ trường hợp kiêm giữa thiên và nhân nguyên long(
vì 2 tinh bàn này là 1) ra ta phải lập tinh bàn thế quái cho cả hai hướng
Dưới đây là trạch vận căn nhà toạ nhâm hướng bính kiêm 7 độ vận 3
.....2 ...........7 .............9
...7 .8 .......3. 3 ..........5. 1
...9 .6 .......4. 2 ..........2. 4
.....1 ...........3 .............5
...6 .9 ........8 .7 .........1 .5
...1 .5 .......................6 .9
.....6 ...........8 .............4
...2 .4 ........4 .2 .........9 .6
...5 .1 ........3 .3 .........7 .8
(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập
trạch vận thì đem những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay
chuyển theo cả 2 chiều thuân-nghịch cho phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂMBÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ có 2 Sơn tinh và 2 Hướng tinh và dĩ
nhiên là phải dùng thế quái cho cả hai).
Phong thủy huyền không phi tinh (Phần III)
Sự kết hợp của các cặp Sơn - Hướng tinh
Phi tinh (khí) và Loan đầu (hình thế) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong
việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, cịn thiết kế bên trong cũng có tác dụng
nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×