Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Ham long kinh ghi chep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.14 KB, 6 trang )

臣臣臣臣:臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣.臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣臣
T
Thần đẳng cẩn án: cựu bản đề Đường Dương Quân Tùng soạn. Quân Tùng bất kiến
vu sử truyền, duy Trần Chấn Tôn Thư lục giải đề tải kỳ danh thị. Tống sử - Nghệ văn
chí tắc đãn xưng vi Dương Cứu Bần, diệc bất tường kỳ danh mạt. Duy thuật gia
tương truyền dĩ vi Quân Tùng danh ích, Đậu châu nhân. Chưởng Linh đài địa lý,
quan chí Kim tử Quang lộc đại phu. Quảng Minh trung ngộ Hoàng Sào phạm khuyết,
thiết cấm trung Ngọc hàm bí thuật dĩ đào, hậu vãng lai vu Kiền châu. Vô khế chi
đàm, cái bất túc tín dã. Nhiên kỳ thư nãi vi thế sở thịnh truyền. Hám long kinh
chuyên ngôn sơn long mạch lạch hình thế, phân Tham Lang, Cự Mơn, Lộc Tồn, Văn
Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phán Quân, Tả Phụ, Hữu Bật cửu tinh, danh vi chi thuyết.
Nghi long kinh thượng thiên ngôn Can trung tầm Chi, dĩ quan cục thủy khẩu vi chủ.
Trung thiên luận tầm long đáo đầu, khán diện bối triều nghênh chi pháp. Hạ thiên
luận kết huyệt hình thế, phụ dĩ nghi long thập vấn, dĩ xiển minh kỳ nghĩa. Táng
pháp tắc chuyên ngôn điểm huyệt. Hữu ỷ cái chàng niêm chư thuyết, Đảo trượng
phân thập nhị điều, tức thượng thuyết nhi dẫn thân chi. Phụ Nhị thập tứ sa huyệt
pháp, diệc lãm huyệt thời phân thốn mao li chi biện. án Trần Chấn Tôn Thư lục giải
đề hữu Nghi long kinh nhất quyển, Biện long kinh nhất quyển, vân Ngô Viêm lục dĩ
kiến di, giai vô danh thị, thị thử thư tại Tống tịnh bất đề Quân Tùng sở tác, kim bản
bất tri hắc nhi vân nhiên. Kỳ Hám long chi tức Biện long dữ phủ, diệc vô khả khảo
chứng. Nhiên tương truyền dĩ cửu, sở luận sơn xun chi tính tình hình thế, pha
năng đắc kỳ yếu lĩnh, lưu truyền bất phế. Diệc hữu dĩ dã. Cựu bản hữu Lý Quốc Mộc


chú tịnh sở phụ các đồ, dung lậu thiển tục, liễu vô khả thủ. Kim tịnh gia san tước,
bất sử dĩ bản văn tương hỗn yên.
Càn Long tứ thập lục niên thập nguyệt cung hiệu thượng.
[Thích nghĩa]
Chúng thần kính cẩn khảo xét: bản cổ có đề là do Dương Quân Tùng thời Đường
biên soạn. Quân Tùng không thấy được ghi lại trong sách sử, chỉ có Thư lục giải
đề của Trần Chấn Tơn là có nhắc tới họ tên. Trong Tống sử thiên Nghệ Văn chí thì gọi
là Dương Cứu Bần, cũng khơng ghi rõ ngọn nguồn. Chỉ biết theo giới thuật sĩ tương
truyền Quân Tùng vốn tên là Ích, người Đậu Châu. Từng giữ chức quản lý Linh đài
địa lý, làm quan đến bậc Kim Tử Quang Lộc đại phu. Những năm niên hiệu Quảng
Minh, gặp phải loạn Hoàng Sào xâm phạm kinh thành, bèn trộm Ngọc hàm bí thuật
trong cung cấm rồi chạy, sau đi đến Kiền Châu. Chỗ này không thấy ở đâu ghi lại, có
lẽ khơng đủ để tin. Nhưng sách của Quân Tùng thì được truyền rộng trong dân
gian. Hám long kinh chun nói về hình thế mạch lạch của sơn long, phân thành cửu


tinh Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả Phụ,
Hữu Bật, mỗi cái lại có bàn luận riêng. Nghi long kinh thiên đầu bàn về việc trong
mạch chính tìm mạch nhánh, lấy những cái có liên quan tới nơi dịng nước bắt đầu là
chủ đạo. Thiên giữa luận về việc tầm long đến nơi đến chốn, các phép xem trước
mặt, sau lưng, hướng nhìn, hướng đón. Thiên cuối luận về hình thế của nơi kết
huyệt, còn thêm vào phần phụ là Nghi long thập vấn (mười vấn đề về Nghi long), để
trình bày rõ ràng ý nghĩa. “Táng pháp” tức là luận về điểm huyệt, có các cách ỷ, cái,
chàng, niêm. “Đảo trượng” phân thành 12 điều mục, tức là trình bày rộng thêm
những cái nói tới bên trên. Phần phụ thêm Nhị thập tứ sa táng pháp cũng là biện
luận tỉ mỉ lúc xem huyệt. Khảo theo Thư lục giải đề của Trần Chấn Tơn thì Nghi long
kinh có 1 quyển, Biện long kinh có 1 quyển, cịn nói rằng trong ghi chép của Ngơ
Viêm cũng có nhắc tới, nhưng đều khơng ghi tên họ, theo đây thì sách này vào thời
Tống không hề ghi là trước tác của Quân Tùng, các bản ngày nay không rõ căn cứ
vào đâu mà khẳng định. “Hám long” liệu có phải là “Biện long” hay không, cũng

không dựa vào đâu mà khảo xét lại được. Sách truyền đã lâu, luận bàn về tình thế,
khí chất của núi sơng, rất khó nắm được yếu lĩnh, nhưng lưu truyền khơng bị mất đi
cũng có ngun do vậy. Bản cổ có chú cùng với đồ hình phụ thêm của Lý Quốc Mộc,
dung tục thô thiển, không thể giữ được. Nay san định lại, bỏ đi những cái ấy để
không khiến sách này bị rối loạn.
Càn Long, tháng 10 năm thứ 46, cung kính hiệu đính như trên
Tìm hiểu về “HÁM LONG KINH”
Hám long kinh được chép trong Tứ khố tồn thư, tác giả của nó là Dương Qn Tùng
thời nhà Đường, nó là điển tịch của phái phong thủy hình thế, nội dung chủ yếu là
giảng về hình thế của long mạch và phương pháp vận dụng cửu tinh tìm long, Hám
long kinh là tác phẩm tinh hoa về lý luận của phái hình thế.
1. Sách “Hám long kinh”: tác giả, địa vị và hoàn cảnh ra đời.
Hám long kinh thành sách vào thời vua Hi Tông nhà Đường, do Dương Quân Tùng
biên soạn. Tác giả của sách từng quản lý Địa lý Linh đài (cơ quan về địa lý), sau vào
Tam Liêu vùng Giang tây, truyền bá văn hóa phong thủy, là người mở đầu cho phái
phong thủy hình thế, Hám long kinh cũng trở thành tác phẩm đại biểu cho học phái
phong thủy hình thế.
[ Tác giả của “Hám long kinh”
Tác giả của Hám long kinh là đại sư phái phong thủy hình thế Dương Quân Tùng, tên
là ích, hiệu là Quân Tùng. Trong Cám châu phủ chí của Đổng Thiên Tích có giới thiệu
sơ lược qua về Dương Quân Tùng. Quế gốc của Dương Quân Tùng là ở Sơn Đông,
Đậu châu, sau ngụ cư ở Giang tây, Tam Liêu, tự xưng là Cứu Bần tiên sinh. Vào thời
Hi Tông cuối đời Đường (862 - 888), ông được phong là Quốc sư, làm quan tới chức
Kim Tử Quang lộc đại phu, quản lý Địa lý Linh đài. Sau khi nhà Đường diệt vong, ông
bèn ẩn cư, sau mất ở Kiền châu (Huyện Trị Cám, Cám châu, Giang tây).
[ Hoàn cảnh ra đời của “Hám long kinh”


Phong thủy học của Trung Quốc cổ đại phân ra thành hai loại lớn là phái Hình thế và
phái Lý khí. Phái Hình thế nghiên cứu giảng giải về hình thế, hình pháp, loan thể,

phái này có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một giải Giang Tây. Phái Lý khí nghiên cứu
về lý khí, phương vị, hào quẻ, tơng miếu, phạm vi hoạt động của phái này chủ yếu ở
vùng Phúc Kiến. Trên thực tế, hai phái này có sự qua lại dùng thông nhau, thẩm thấu
vào nhau. Hám long kinh xuất hiện vào lúc phong thủy học mới bắt đầu phân ra
phái Hình thế và phái Lý khí, nó là chỗ dựa cho sự phát triển lý luận của phái Hình
thế.
[ Địa vị của Hám long kinh
Tác giả của Hám long kinh, Dương Quân Tùng là người khai mở phái Hình thế, ơng
khá chú trọng tới tổng thể hướng chạy của sơn thủy, hình thế sơn thủy bốn phía
xung quanh của mộ huyệt. Bởi vì tác phẩm này vốn có tính khai sáng, cho nên Tứ
khố tồn thư của nhà Thanh mới chép lại, biến nó trở thành hạt nhân của lý luận
phong thủy phái Hình thế.
[ Định nghĩa long mạch
Long, là thần vật trong truyền thuyết của Trung Quốc, tượng trưng cho một dải đông
tây liên miên liền mạch, trong phong thủy học Dương Quân Tùng gọi mạch núi trải
dài là long mạch, Hám long kinh chính là một cuốn sách chuyên luận về hình thế
của sơn long mạch lạc.
Gọi là sơn, thường chỉ bộ phận nhô cao trên mặt đất, nếu là thấp thì thành gị, đồi
v.v… Mạch núi (sơn mạch) là dáng duỗi dài của hình thể núi, giống như mạch lạc
trên cơ thể người. Cái phong thủy học gọi là long mạch, tức là chỉ bộ phận duỗi dài
của tuyến sơn mạch, long mạch bao gồm cả núi, đồi, gò … những bộ phận có hình
nhơ lên trên mặt đất.
Cứ theo cuốn Nhân tử tu tri -Long pháp của Từ Thiện Tục thì có thể biết, long mạch
của Trung Quốc xuất phát từ dãy Cơn Ln phía Tây Bắc, cịn có tên là Di sơn, theo
hướng Đông Nam mà duỗi ra ba dải long mạch. Bắc long, tức Cán long phương Bắc,
chỉ long mạch chủ ở phương Bắc sơng Hồng hà, nó từ Âm sơn, Hạ Lan sơn ở Ninh
Hạ thuộc nội Mông Cổ uyển chuyển uốn khúc đi vào Sơn Tây, vắt ngang qua Thái
Nguyên, gặp biển thì dừng lại. Trung long, tức long mạch ở giữa, chỉ long mạch chủ
ở khoảng giữa phương Nam sơng Hồng hà và phương Bắc sơng Trường giang, nó đi
từ Mân sơn của Tứ Xuyên vào Quan Trung thuộc Thiểm Tây, cho đến Thái sơn thì

xuống biển. Nam long, tức chỉ dải long mạch phía Nam, có mạch chủ ở phía Nam
sơng Trường giang, nó từ Vân Nam, Quý châu đi tới Hồ Nam, qua Phúc Kiến, Chiết
giang rồi nhập biển, chủ yếu có Vũ Lăng sơn, Hành sơn, Lư sơn, Thiên mục sơn v.v…
Mỗi một dải long mạch đều phân ra có Cán long (long mạch chủ), Chi long (long
mạch nhánh), Chân long (long mạch thật), Giả long (long mạch nhánh), Phi long ,
Tiềm long, Thiểm long. Thầy phong thủy khi xem xét long mạch trước tiên phải nắm
rõ mạch đến, mạch đi cho đến thế vận hành của long mạch.


Phong thủy về long mạch chú trọng tới hình thế, giảng giải về “Nghìn thước là thế,
trăm thước là hình”. Thế, là chỉ sự nhấp nhô lên xuống của các đỉnh; hình, là chỉ dãy
núi đơn độc. Thế thì coi khí thế hùng hậu, long mạch vận hành thuận lợi là tốt; hình
thì coi khả năng đựng gió, tụ khí, núi có dáng vịng, thủy bao là tốt. Xem thế thì phải
nhìn từ xa, xem hình thì phải xem ở gần.
Long còn là tượng trưng, tỉ dụ cho bậc vua chúa đế vương, như Tần Thủy Hoàng
được gọi là “Tổ long”, Hán Cao Tổ tự xưng là “Long chủng”. Nhân đó, long mạch cịn
chỉ những nơi có xuất ra tướng đế vương, hoặc có thể an táng đế vương hoặc mạch
sơn thủy tượng trưng cho hậu duệ. Từ đây, rất nhiều hoàng thất các triều đại
chuộng phong thủy, bốn phái “Tìm long thám huyệt” để tìm “phong thủy bảo địa”
(đất báu hợp phong thủy), chính là để tìm cho bản thân, hoặc đời sau, một nơi an
táng tốt đẹp, cho nên mới có các loại luận thuyết “mai kim cánh danh kiến tự miếu,
oa đoạn long mạch tiết vượng khí” (so với việc chơn vàng thì xây tự miếu cịn có
tiếng hơn, đào vào long mạch tiết ra vương khí).
[ Giải thích của “Hám long kinh”với Cửu tinh
Trong Hám long kinh Dương Quân Tùng chú trọng bàn luận về Cửu tinh, Cửu tinh
trong đây là chỉ Cửu tinh phong, cũng gọi là huyệt tinh hoặc tinh phong, là căn cứ
vào chín loại hình dạng khác nhau của đỉnh núi long mạch kết huyệt để đặt tên, lần
lượt là chỉ Tham Lang tinh phong, Cự Môn tinh phong, Lộc Tồn tinh phong, Văn Khúc
tinh phong, Liêm Trinh tinh phong, Vũ Khúc tinh phong, Phá Quân tinh phong, Tả
Phụ tinh phong, Hữu Bật tinh phong.

Tham Lang tinh phong, hình dạng núi như măng trồi lên khỏi mặt đất, bốn phái tròn
nhọn, bên trên bằng phẳng.
Cự Mơn tinh phong, sao của nó khơng cách xa tổ sơn, hình dạng khơng nhọn khơng
trịn mà thành ra vuông, trước mặt trông như cái cửa lớn, cho nên đặt tên như thế.
Lộc Tồn tinh phong, núi này phần trên có dáng trịn vng như cái trống, bên dưới
phình ra như hình hồ lơ.
Văn Khúc tinh phong, núi có hình dạng như rắn, lươn, uốn khúc quan co mà kéo dài,
thế của mình núi mềm thuận.
Liêm Trinh tinh phong, cịn có tên là Hồng kỳ tinh phong, tinh phong cao lớn chót
vót, trên đỉnh đá núi cheo leo, sắc núi đỏ đen như lửa lớn xông lên trời.
Vũ Khúc tinh phong, hình dạng như chng lớn úp trên mặt đất, trịn chịa ngay
ngắn, cao lớn đoan chính, trên dưới một thể, khơng có chân nhánh duỗi dài.
Phá Quân tinh phong, hình dạng như lá quân kỳ ba đỉnh, đầu phía trước cao vút, có
hình dạng các tinh phong khác, nhưng đuôi đằng sau dưới kéo dài, hai bên vách


nghiêng.
Tả Phụ tinh phong, hình như người xưa búi tóc nhơ lên, trước cao sau thấp, có hai
nhánh chân chạy thấp bằng phía dưới. Hai bên của Vũ Khúc tinh phong thuwongf có
Phụ tinh, hình dáng giống Vũ Khúc, là hình cái nồi úp xuống, dưới thấp thì trịn.
Hữu Bật tinh phong, khơng có hình núi xác định, hoặc giống con thoi, hoặc như sợi
tơ, hoặc như con trùng, hoặc giống cá, hoặc giống rắn, hoặc giống Tả Phụ tinh, tùy
theo hình dạng tinh phong khác mà định.
Trong Cửu tinh có Tam cát tinh (ba tinh tốt), tức là Tham Lang tinh, Cự Mơn tinh, Vũ
Khúc tinh cịn Tả Phụ tinh, Hữu Bật tinh cũng thuộc loại tốt vừa cho nên hợp lại là
ngũ cát tinh (năm tinh tốt). Phá Quân tinh, Liêm Trinh tinh, Lộc Tồn tinh, Văn Khúc
tinh liệt vào hàng tinh xấu. Lành dữ, họa phúc cảm ứng đến con người. Trong thiên
hạ có nhiều dải núi uốn khúc, phương thức kết huyệt của chân long cũng đa phần là
cát tinh, hung tinh đan xen.
[ Giới thiệu về “Nghi long kinh”

Nghi long kinh cũng là tác phẩm của Dương Quân Tùng, sách này trình bày một
cách hệ thống thuật tầm long điểm huyệt, tức là lý luận và yếu lĩnh cơ bản của việc
tìm ra khu vực có hồn cảnh lý tưởng để xây dựng. Tất cả phân ra là thượng, trung,
hạ ba thiên; thượng thiên chủ yếu giảng giải cách tìm hướng chạy của chủ long và
chi long cho tới bố cục thủy khẩu của long huyệt; trung thiên chủ yếu giảng giải làm
thế nào để phân biệt, biện luận bố cục các núi xung quanh của mộ huyệt; hạ thiên
chủ yếu dạy cách biết được các hình thế khác nhau của mộ huyệt. ở phía cuối cịn
có thêm Nghi long thập vấn, đề cập tới khá nhiều nghi vấn thường gặp về mối quan
hệ về phú quý giữa chủ mộ và con cháu, đồng thời giải đáp một cách kỹ càng từng
vấn đề. Cho nên, Nghi long kinh là tác phẩm kinh điển về lý luận hình dạng, là kinh
điển phải có của các nhà nghiên cứu học thuật phong thủy.
Hình “Long huyệt đồ”: các núi uốn khúc, hình như tấm bình phong trùng trùng điệp
điệp, che trở bao bọc nhau, kết thành long huyệt.
Hình “Minh Thập tam lăng”: là tên gọi chung cho lăng tẩm của 13 vị Hoàng đế triều
Minh, phong thủy xung quanh đó cực kỳ điển hình, Đơng, Tây, Bắc ba phía có các
dải núi, các cánh rừng như những tấm bình phong bảo vệ.
[ Giới thiệu về “Táng pháp đảo trượng”
Táng pháp đảo trượng cũng là tác phẩm do Dương Quân Tùng biên soạn. “Táng
pháp” chuyên luận về điểm huyệt, có các luận thuyết về ỷ, cái, chàng, niêm; “Đảo
trượng” là chỉ các chuẩn tắc dựng huyệt, đặt quan tài, thập nhị trượng lần lượt là:
thuận trượng, nghịch trượng, súc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, li
trượng, một trượng, đối trượng, tiệt trượng, đột trượng, phạm trượng. Sau lại thêm
“thập nhị tứ sa táng pháp”, cũng là giảng giải làm như thế nào để dựng huyệt. Bởi vì


học thuyết phong thủy của Dương Quân Tùng vốn có tính khai sáng trong lịch sử,
cho nên Tứ khố tồn thư ghi lại toàn bộ Hám long kinh, Nghi long kinh và Táng pháp
đảo trỵng.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×