Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.23 KB, 55 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Từ thế kỉ X-XV Đặc trưng nổi trội thời Lý Trần là sự dung hòa tam giáo(nhophật-đạo),cồn gọi là chính sách tam giáo đồng nguyên.Tinh thần văn hóa lý trần là tinh thần khai phóng đa nguyên phối hợp phật nho đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của tôn giáo chămpa 1. Nho giáo… Do đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam như trên đã nói, nên ngay từ thời Lý – Trần, Nho giáo đã đóng vai trò là cơ sở tư tưởng của việc xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền, quản lý xã hội và hoạch định chính sách của triều đình phong kiến. Mặc dù xã hội thời Lý - Trần rất tôn sùng đạo Phật, nhưng căn cứ lý luận để xây dựng và phát triển hai triều đại này lại là những nguyên lý của Nho giáo. Từ những lời phát biểu của Đào Cam Mộc nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi đến Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh của Lý Chiêu Hoàng đều lấy những nguyên lý trong kinh điển của Nho giáo làm căn cứ. Những văn kiện quan trọng có liên quan đến việc phát động chiến tranh giữ nước, như bài văn Lộ Bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, v.v. thường sử dụng một số khái niệm của Nho giáo .Trên phương diện văn hoá - giáo dục, ngay từ thời Lý, khi được coi trọng và giữ vị trí là nền giáo dục chính thức của nhà nước.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> phong kiến, Nho học đã thể hiện rõ vai trò của một nền giáo dục có cơ chế, bài bản và đầy sức sống. Do đó, nó đã tạo ra một bước tiến vượt bậc về nội dung giáo dục, cũng như về mặt tổ chức và thực thi việc giáo dục và thi cử. Sang thời Trần, nhờ sự phát triển của nền giáo dục Nho học mà tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo.Họ tích cực tham gia chính sự, cũng như tham gia vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật, học thuật và tư tưởng đương thời.Chính vì thế, lúc bấy giờ, Nho giáo đã thực sự thúc đẩy các hoạt động văn hoá của nước Đại Việt tiến lên phía trước. Khác với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo đến nhà nước phong kiến, ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình, dòng họ và làng xã Việt Nam diễn ra chậm hơn. Trong thời Lý - Trần, ảnh hưởng đó còn mờ nhạt.Các thành viên của gia đình, dòng họ và làng xã còn chịu ảnh hưởng nặng của những giá trị đạo đức truyền thống và một phần của những giá trị đạo đức Phật giáo. Phải đến thế kỷ XV, khi Nho giáo được độc tôn, thì nhà nước phong kiến và các Nho sĩ mới áp đặt được những quy phạm đạo đức của Nho giáo xuống các gia đình, dòng họ và làng xã thông qua các điều luật, các chỉ dụ, các huấn điều và những quy ước về nghi lễ, như tang lễ, hôn lễ. Song, lý thuyết xây dựng chế độ quân chủ tập quyền và quản lý xã hội của Nho giáo cũng có nhiều hạn chế. Bởi vậy, ở Việt Nam, Nho giáo được độc tôn chưa đầy một thế kỷ, xã hội đã loạn lạc, các tập đoàn phong kiến nổi lên tranh quyền, đoạt vị suốt ba thế kỷ tiếp đó. Niềm tin vào Nho giáo, nhất là vào đức trung quân của Nho giáo, đã giảm dần. Nhưng, trong ba thế kỷ này, các tập đoàn phong kiến vẫn dùng Nho giáo làm vũ khí tư tưởng để trị nước.Lúc ấy, quyền lực trong xã hội vẫn thuộc về những người đứng đầu các tập đoàn phong kiến, nên dù đức trung quân có bị giảm sút thì nó vẫn được sử dụng để củng cố uy quyền của các vị vua, chúa mới nổi lên. Vào các thế kỷ XVII và XVIII, việc học hành và thi cử của Nho học tuy có những nét tiêu cực, nhưng cũng chính nền giáo dục Nho học lúc bấy giờ đã sản sinh ra những nhà thơ, nhà văn, nhà khoa.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> học và y học kiệt xuất, như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm, v.v.]. [ Cho đến khi Vương quốc Đại Việt được hình thành độc lập sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dai dẳng kiên trì ngót ngàn năm, thì truyền thống cộng đồng dân tộc cũng được phát huy, nền dân chủ công xã được tôn trọng, tín ngưỡng dân gian được duy trì. Nhà nước quý tộc xuất thân từ các cộng đồng bộ tộc mạnh nhất như Đinh, Lê, Lí, Trần tuy đang trên đà phong kiến hóa, nhưng lại rất cần một tôn giáo phiếm thần luận, và một chủ nghĩa đại từ đại bi (Phật có ở mọi nơi, ai cũng thành Phật được, Phật thương yêu trăm họ) (Vua là Bồ tát hiện thân của Đức Phật) để đề cao và phổ biến hóa vương quyền và thống nhất dân tộc, nghĩa là qui tất cả các công xã có quyền tự trị (có lệ làng và thần thành hoàng riêng) vào một mối (phép vua và ơn vua). Vì vậy đạo Phật vẫn chiếm địa vị chủ yếu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” nói lên lòng dân còn tán dương đạo Phật, nói lên sự việc nhà chùa còn được thay mặt “Bồ tát vua” quản lí đất làng và đời sống tinh thần ở làng. Cũng vì vậy mà chế độ tăng thông (quốc tăng) hình thành có chân rết xuống tận sư làng, gần như là tổ chức hành chính - tôn giáo kiểu Khmer và Lào mà ngày nay ta còn quan sát được. Mặt khác, nhân dân cũng đang cần một sự viện trợ tinh thần để cứu chữa nỗi bất hạnh đầu tiên đang diễn ra trong xã hội phụ quyền tư hữu phong kiến có người giàu, người nghèo, người sang, người hèn, người mạnh, người yếu, người ác, người hiền, v.v... nên nhiệt liệt đón nhận Phật giáo. Tình hình này được phản ánh rất rõ ở trong truyện cổ tích thần kì lấy Bụt làm lực lượng phù trợ cho những nhân vật hiền lành bị áp bức bóc lột. Như thế là đến lúc đó Nho giáo cũng vẫn chưa nhập cuộc hoàn toàn vào đời sống tinh thần Việt Nam.Tuy nhiên, Nho giáo đang cố tìm chỗ đứng cho nó ở trong các tầng lớp quý tộc, nhất là trong đám văn quan, võ quan đã được triều đình trọng dụng. Chế.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> độ phong kiến càng phổ biến, tính chất xã hội đẳng cấp quan liêu càng phát triển, ý thức bảo vệ chế độ và xã hội phong kiến càng tăng thì việc đẩy mạnh Nho học và cải cách xã hội theo quan điểm Nho giáo từ trên xuống lại càng rõ rệt. Từ bên dưới chế độ công xã gia trưởng càng bị phân hóa và từ bên trên chế độ vương quyền tập trung càng được xác lập xuống tận địa phương, thì cái khung xã hội và hệ thống văn hóa giáo dục nho học cũng hình thành. Cũng từ bên dưới, đi liền với chế độ khoa cử tuyển dụng ngày một rộng rãi hơn, những người có học vấn nho học ra làm quan và sự phát triển các học đường nho gia ở từng vùng nó đẩy lùi dần uy lực của Phật giáo cơ sở. Cũng từ bên trên là sự bành trướng do các nho phái đại thần trong triều đình đẩy lùi dần uy lực của tăng lương đạo Phật ra khỏi địa vị cố vấn của vương quyền. Những kiểu người Bồ Tát - Vua (như Ỷ Lan, Lí Nhân Tông thời Lí, như Thái Tông, Nhân Tông thời Trần) đã bị phê phán; sự xa hoa viển vông và lãng mạn của Phật giáo bị đả kích, sự thống nhất giữa thiền sư và trí giả không còn đầy đủ nữa; tiếng nói ngọt ngào nhã nhặn giữa cao tăng và đại thần cũng mất. Tiếng nói của những Chu An, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, v.v... dần dần có hiệu lực. Các sử gia nho học vừa là những nhà hành trị tích cực như Lí Tế Xuyên, cũng bắt đầu thu hút lý tưởng chinh phục thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân vào lịch sử đương đại của vương quốc Đại Việt, bằng cách hiện đại hóa huyền thoại và truyền thuyết Việt cổ, hiện đại hóa tín ngưỡng thành hoàng của các công xã theo ý đồ huyền thoại hóa uy lực của vương quyền và tướng lĩnh mới. Truyền thống thờ cúng anh hùng dân tộc bắt đầu bị Nho giáo hóa theo quan điểm trung quân, bị Đạo giáo hóa theo nghi lễ âm phù cho vua quan, tướng lĩnh và đẩy lùi dần hoặc hạn chế quá trình Phật hóa truyền thống vốn đã có từ trước Bão cực truyện và chấm dứt ở Lĩnh Nam truyện của Trần Thế Pháp..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Bấy nhiêu sự kiện chứng tỏ cuộc đấu tranh tôn giáo giữa Nho Phật Đạo đang diễn ra âm ỉ, khá sâu sắc, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau, mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam. Các tôn giáo dung hòa và bổ sung lẫn nhau, để thỏa mãn các mặt yêu cầu của đời sống đã đi vào khuôn khổ của phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam: Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội. 2.Phật giáo… Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc.Dưới thời Đinh - Lê (từ cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI), thậm chí một số nhà sư được tham dự việc triều chính. Thời Lý - Trần (từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam, nhiều nhà sư đã phò vua giúp nước. Phật giáo được coi là quốc đạo, chùa chiền được xây dựng và tu bổ; tư tưởng Phật giáo, tổ chức cũng như hành đạo được phát triển, ngay cả một số vị vua cũng xuất gia tu hành. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Từ thế kỷ XV, vị trí của Phật giáo dần dần nhường chỗ cho Nho giáo.Tuy nhiên, Phật giáo vẫn là một tôn giáo quan trọng trong Tam giáo đồng nguyên. [Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên.Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc.Thời Lý-Trần (từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên tử mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông truyền vào phía nam của Việt Nam từ thế kỷ IV sau Công nguyên.Tín đồ Phật.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> giáo Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Phật giáo hiện nay ở Việt Nam có khoảng 10 triệu tín đồ, gần 17.000 cơ sở thờ tự, khoảng 40.000 tăng ni và 36 trường đào tạo các chức sắc tôn giáo]. Đến thế kỉ X,phật giáo đã có những bước phát triển lớn.nhiều chùa chiền xuất hiện.Đó là các đại danh lam kiêm hoàng cung;các trung danh lam và chùa của các đại sư.Tất nhiên là ngay từ cuối thời bắc thuộc,đạo phật đã có tư cách là một tác nhân của khối đoàn kết,là chỗ dựa tinh thần của dân tộc.Đặc biệt vai trò quan trọng của các tri thức phật giáo lúc bấy giờ.Tinh thần đó vẫn được duy trì dưới thời lý nhằm tạo ra một phần sức mạnh của sự kiến thiết.Năm 1031,triều lý bỏ tiền ra xây dựng 950 ngôi chùa.Năm 1129,mở hội khánh thành 84000 bảo tháp(tháp bằng đất nung).Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất sùng mộ đạo phật.Thời kì này các sư tăng và tín đồ phật giáo phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất ,do đó có một cơ sở kinh tế nhất định.Nho sĩ còn thưa thớt do đó nhà chùa cũng là nơi đào tạo ra nhưng sư tăng đồng thời lànhững tri thức thời đại.Những tri thức phật giáo đã nối liền nho giáo phật giáo và đạo giáo.Chính họ là người đặt nền cho chính sách tam giáo đồng nguyên.Với những tri thức ấy,phật giáo đã gạt bỏ những nhân tố thụ động để tham gia vào ngiệp giải phóng và xây dựng đất nước.Trong các thời ngô đinh tiền lê lý ,các cao tăng tham gia chính sự ở triều đình.Chẳng hạn sư vạn hạnh đã vận động đưa lý công uẩn lên ngôi vua,lập ra triều lý,sư đa bảo và viên thông đượ tham dự bàn bạc và quyết định mọi việc trong triều như cố vấn của nhà vua.Phật giáo giai đoạn này còn đến tư tưởng,tâm lí,phong tục và nếp sống của đông đảo nhân dân các làng xã.Nó có ảnh hưởng to lớn với kiến trúc ,điêu khắc,thơ văn và nghệ thuật.. 3.Đạo giáo… Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2.Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Chử Đồng Tử được coi là ông tổ của Đạo.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> giáo Việt Nam nên còn có tên Chử Tổ Đạo.Điều này thể hiện tính tổng hợp của các tôn giáo khi vào Việt Nam vì Chử Đồng Tử còn được coi là người đầu tiên tu thành Phật (xem thêm Phật giáo Việt Nam). Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng "cưỡi diều tìm long mạch" để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngòai ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là 2 con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư: nên có chức đạo quan và tăng quan. Tương truyền vua Đinh Tiên Hoàng từng lấy lễ thầy trò để tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái vốn là Mộc tinh ở cây chiên đàn lâu năm. Đời nhà Lý các đạo sĩ Trần Tuệ Long và Trịnh Trí Không giữ địa vị quan trọng trong triều..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ 17, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư. Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Tòan dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi. Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ "Nội Đạo Tràng". Ba người con trai của ông được tôn là "Tam Thánh". Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ 20 hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội. Phái Đạo giáo Thần Tiên ở Việt Nam thì thờ Chử Đồng Tử làm ông Tổ và nhiều Tiên Thánh khác như thần Tản Viên tức Sơn Tinh, và có những câu chuyện về sự tích các đạo sĩ hoặc người thường tu thành tiên, có nhiều phép lạ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên. Giới sĩ phu xưa thường cùng nhau tổ chức cầu Tiên để hỏi về vận nước, chuyện kiết hung đại sự… Nhiều đàn cầu Tiên nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)… Đầu thế kỷ 20, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn) mọc lên khắp nơi. Kinh sách của Đạo giáo được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền tụng, ngoài 2 quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử, còn có quyển Huỳnh Đình Kinh dạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát. Tất cả tương truyền là do Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ dạy từ xưa bên TTrung Quốc. Đặc biệt, Đạo giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo dòng lịch sử, chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ,... với cuộc sống "tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn" của học thuyết Lão Trang. Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cảĐạo quan. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ. HIỆN TƯỢNG “TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN” Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X- XV Trong bối cảnh Đông Á nói chung (Đông Á ở đây tôi muốn chỉ cả vùng Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Nam Á), dù ở mức độ này hay mức độ khác, các nước đều chịu ảnh hưởng của các nền văn minh lớn Trung Hoa và Ấn Độ. Trước hết phải kể tới đó là sự ảnh hưởng của văn hoá, đặc biệt là tôn giáo (chủ yếu là Nho, Phật Đạo, Ấn Độ giáo….). Ở đây, tôi muốn lấy chính đất nước Việt Nam của mình làm hệ quy chiếu, phản ánh sự ảnh hưởng đó trong khu vực. Việt Nam có những nét chung vãi khu vực đồng thời cũng có những nét riêng trong việc tiếp thu văn hoá ngoại lai nói chung và tôn giáo nói riêng. Do những hoàn cảnh đại lý- lịch sử đặc biệt mà Việt Nam có những đặc trưng của nền văn hoá nông nghiệp. Đặc trưng ở đây là trọng tình người, mang tính tổng hợp và tính linh hoạt. Sự kết hợp hai yếu tố này tạo nên tính dung hợp: hiện tượng “Tam giáo đồng.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> nguyên”. Việt Nam không phải là nơi sản sinh ra một loại tôn giáo nào, nhưng lại hấp thụ được rất nhiều tôn giáo khác nhau tạo nên tính tổng hợp, dung hợp của văn hoá Việt Nam. Trước hết ta gặp sự dung hợp giữa yếu tố văn hoá ngoại sinh với yếu tố văn hoá bản địa. Và dung hợp các yếu tố văn hoá ngoại sinh (đã được bản địa hoá) với nhau. Chính vì vậy mà hình thành nên quan niệm “Tam giáo đồng nguyên”. Sù dung hoà “Tam giáo” là một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và việc làm của người dân và đến thời kỳ Lý- Trần thì được chính quyền công nhận rộng rãi. Dung hoà “Tam giáo” không chỉ trong đời sống xã hội của người dân mà tồn tại trên cả bé phận bên trên tức bộ phận quý téc phong kiến. Thời kỳ Lý- Trần là sự biểu hiện rõ nhất của “Tam giáo đồng nguyên”. Từ thời kỳ này chúng ta có thể nhìn sang các nước xung quanh trong khu vực để có sự so sánh thấy được những nét chung và nét riêng trong việc ảnh hưởng của các tôn giáo đối với mỗi nước. Việt Nam hội nhập văn hoá trên cơ tầng văn hoá bản địa. Việt Nam nằm trong cơ tầng của nền văn hoá Đông Nam Á, cho nên cũng mang những nÐt chung của nền văn hoá này. Để hiểu được văn hoá Việt Nam trước hết chúng ta phải tìm hiểu qua vài nét của văn hoá Đông Nam Á. Đông Nam Á bao gồm miền chân núi Himalya và Thiên Sơn. Có thể hai dãy núi này như hai mái nhà của cả khu vực, chính vì thế mà hầu hết các con sông lớn của khui vực đều bắt nguồn từ đây và lưu vực các con sông đó trở thành những vùng đồng bằng màu mỡ, đầy phù sa. Tuy nhiên, nét đặc trưng tiêu biểu của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, đồng thời sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển. Chính nét đặc trưng của quá trình kiến tạo địa lý này cùng với đặc trưng khí hậu nóng Èm, mưa nhiều và có gió mùa đã góp phần làm cho khu vực Đông Nam Á trở thành vùng trồng lúa nước chủ yếu của thế giới theo mô hình văn hoá thảo méc. ở đây có tính chất tương đối đồng nhất về nhan văn cộng đồng, tính đồng nhất này được biểu hiện ở cơ cấu tổ chức.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> làmg xóm xã thôn với những quy định chung, tập tục chung được bảo vệ ở ý thức bảo tồn những tín ngưỡng truyền thống cổ xưa mà khởi nguyên của chúng là những tín ngưỡng vật linh nguyên thuỷ những quan niệm hợp nhất đại vũ trụ và tiểu vũ trụ, những mối giao hoà giữa vật với tâm… Còn tất cả các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á không phải là khu vực biệt lập. Vì vậy, nó chắc chắn phải chịu ảnh hưởng của quy luật giao lưu. Nằm trong quỹ đạo Ấn Độ và Trung Hoa chắc chắn Đông Nam Á sẽ phải chịu những ảnh hưởng rất lớn của hai nền văn minh này. Tuy nhiên, khi tiếp nhận các yếu tố của văn hoá ngoại lai, Đông Nam Á luôn luôn lùa chọn và thích nghi những bảo tồn truyền thống của mình. Đây chính là một đặc thù tạo nên nét phong phú vô cùng về văn hoá, phong tập tập quán, tín ngưỡng của vùng này. Nếu nói rộng ra một chút thì chút thì chúng ta nằm trong khu vực văn hoá Đông Bắc Á và văn hoá Đông Nam á. Thường thì “các nhà khoa học thường dùng thuật ngữ “văn hoá Nam Á” để chỉ một khu vực văn hoá truyền thống bao gồm các nước Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc phía nam sông Trường Giang. Những đặc trưng chung cho nền văn hoá này được kể là: nền văn minh lúa nước do trâu cày, hệ thống làng xã cố kết chặt, đậm tính cộng đồng, tín ngưỡng vật linh và thần linh, tục thờ mẫu, các lẽ hội nông nghiệp theo mùa, mét sè phong tục các nước Đông Nam Á như ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình, đánh đu chọi gà... Tư duy tình cảm trong văn hóa Nam Á thường được coi là mang tính nhu, mềm dẻo, uyển chuyển nhiều tính nữ. Nền văn hoá Đông Bắc Á (ở đây mang tính chất tương đối) bao gồm miền bắc Trung Quốc (lưu vực sông Hoàng Hà được coi là tiêu điểm) và một só các nước xung quanh phía đông như Triều Tiên, Nhật Bản. Những nét chung nhất của văn hoá truyền thống Đông Bắc Á là sử dụng chữ Hán, Khổng giáo, chế độ đẳng cấp tôn ti. Về mặt tư duy tình cảm văn hoá Đông bắc á mang tính cường, mạnh mẽ, cứng cỏi, nhiều nam tính” Nói riêng Việt Nam, nằm trong khu vực Đông Nam Á và khu vực văn hoá Đông Bắc Á thì có đầy đủ những đặc điểm như trên. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn còn những đặc điểm riêng của nó.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> so với khu vực. Nếu Đông Nam Á là cầu nối đông- tây, thì Việt Nam là đầu cầu để mở cửa vào Đông Nam Á từ hướng Ên Độ và Trung Quốc. Ngay trong bán đảo Đông Dương thì tính chất bán đảo cũng rõ nét nhất. Ở đây khí hậu nóng Èm, mưa nhiều và có hai mùa rõ rệt. Có thể nói rằng, khí hậu Việt Nam mang đặc trưng tiêu biểu của vùng khí hậu gió mùa, ở đây đã từng tồn tại một thảm thực vật tiền sử lớn Đông Nam Á, tạo điều kiện cho một nền nông nghiệp nguyên thuỷ từ rất sớm, dẫn đến nền nông nghiệp lúa nước. Đó là sự hội tụ của hai nền văn minh mang tính hằng số văn hoá: Văn minh thảo méc và văn minh sông nước. Những dấu Ên của hai nền văn minh này đã in đậm trên các mặt của đời sống vật chất, xã hội cũng như tinh thần của người Việt, tạo nên một đặc trưng tâm lý mang tính dịu, mềm và linh hoạt trong ứng xử. Nét đặc thù của Việt Nam còn nằm ở cương vực lãnh thổ và cảnh quan địa lý không giống bất kì một nước nào. Chúng ta biết rằng, về diện tích, chúng ta không phải là một quốc gia lớn nhưng lại có trường độ khá dặc biệt, kéo dài 15 vĩ độ. Đồng thời, trên dải đất này thì rừng núi chiếm 2/3 diện tích, phần còn lại là sông ngòi phân bố rộng khắp, còn đồng bằng chỉ chiếm tỉ lệ khiêm tốn (chưa đến 1/3). Ngoài ra, bao quanh hướng đông và nam là bờ biển khoảng 2000 km, còn phía tây, bắc hầu nh- lại bị ngăn chặn bởi núi rừng trùng điệp, trong đó quan trọng nhất là Hoàng Liên Sơn và Trường Sơn. Chính những đặc điểm về “địa- văn hoá” như vậy để chóng ta hiểu rõ hơn dẽ dàng tiếp cận được quá trình dung nạp các thành tố văn hoá ngoại lai, dễ dàng tiếp cận hơn với hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” trong lịch sử Việt Nam (đặc biệt là thời kỳ LýTrần) mà tôi sẽ trình bày sau đây. Và chúng ta sẽ hiểu hơn “Đồng nguyên Tam giáo” trên nền tảng văn hoá bản địa, trên một chủ thể văn hoá Đông Nam Á, cái chủ thể đó sẽ quy định tính dung hợp tới đâu giữa Nho, Phật, Đạo. Chúng ta cũng biết, do vị trí địa lí- văn hoá nước ta nằm giữa hai trung tâm văn hoá lớn nhất của thế giới là Ên Độ ở phía tây và Trung Hoa ở phía bắc. Từ thời kỳ lịch sử xa xưa, dân téc Việt Nam.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> đã ý thức dược điều đó, qua các thời kỳ lịch sử, dân téc Việt Nam đã có sù giao thoa và chịu sự ảnh hưởng của các nền văn hoá trên. Còn đối với Hy Lạp, vùng Lưỡng Hà, và Ai Cập, trung tâm văn hoá thứ ba của thế giới thì ở quá xa về phía tây, nên ảnh hưởng đến nền văn hoá nước ta không rõ nét. Với vị trí văn hoá đặc biệt đó, dù dân téc Việt Nam muốn hay không còng tạo ra được mọt sự hội nhập văn hoá, không phải là sự hội nhập văn hoá bình thường mà là “một sự hội nhập văn hoá kéo dài trên 20 thế kỷ, một sự hội nhập của những tinh hoa đến từ hai trung tâm văn hoá tầm cỡ của thế giới là Ấn Độ và Trung Hoa” Sự hội nhập văn hoá đó lấy cơ thể văn hoá bản địa làm chủ thể. Bản thân của văn hoá dân tộc Việt Nam là văn hoá chủ nhà nó đã tiếp nhận dung hoà các yếu tố văn hoá ngoại lai, sự tiếp thu này có sự chọn lọc, “tiếp thu yếu tố này, loại bỏ yếu tố kia, biến những yếu tố ngoại lai nhập thành xương máu, da thịt của mình, giúp cơ thể văn hoá chủ nhà luôn tồn tại, phát triển và thăng hoa, mô hình hội nhập này thường được gọi là mô hình hữu cơ” Như trên đã trình bày, với nền văn hoá bản địa- văn hoá chủ thể, ngay từ sớm Việt Nam đã dung hoà, tiếp nhận nhiều yếu tố văn hoá của các nền văn minh lớn (chủ yếu là Trung Quốc và Ên Độ). Ở đây, tiếp nhận chủ yếu là Nho, Phật, Đạo cùng với văn hoá chủ thể tạo nên “Tam giáo đồng nguyên”, góp phần tạo dùng nên một nền văn hoá dân téc đặc sắc. Phật giáo với xã hội Việt Nam Đạo phật được hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI Tr.CN, người sáng lập là thái tử Sidhasta (Tất- đạt- đa), hộ là Gotama (cồ đàm). Ông sống gần đồng thời với Khổng Tử nhưng lại cách xa nhau rất xa. Đạo phật sinh ra vào lúc vào lúc ở Ên độ đạo Bàlamôn đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất bình của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với những nỗi khổ của muôn dân, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành mét tôn giáo mới. Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể trở thành Phật, từ chỗ tự giác tiến lên giác ngộ. Phật khuyên mọi người nên biết tiết chế dục vọng, có.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> tinh thần vô ngã vị tha, làm điều lành, tránh sự ác, Phật là biểu tượng của sự sáng suốt và từ bi. Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Cốt lõi của học thuyết này là tứ diệu đế ( bèn chân lí kì diệu) hay tứ thánh đế ( bèn chân lí thánh) đó là : khổ đế, là chân lí về bản chất của nỗi khổ ; nhân đế hay tập đế là chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ; diệu đế về cảnh giới diệt khổ và cuối cùng là đạo đế tức là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Thuyết nhân quả nghiệp báo của Phật giáo phù hợp với tín ngưỡng dân gian Việt về việc ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp ban thưởng người lành. Thuyết luân hồi phù hợp quan niệm linh hồn tồn tại sau khi xác tiêu hoại và cũng phù hợp với nhận xét về sù tuần hoàn ở cá cây của cư dân nông nghiệp. Cũng như bất cứ một tôn giáo nào trên đường phát triển, Phật giáo đã chia thành nhiều tông phái khác nhau với hai dòng chính là tiểu thừa( Nam tông) và Đại thừa ( Bắc tông). Phật giáo vào nước ta thì nó biến dạng khá nhiều, bởi đạo Bàlamôn, bởi những thêm bớt trên đường truyền bá từ Ên Đé sang các nước láng giềng, sang Trung Quốc và từ Trung Quốc sang đất Việt. Khi vào đất Việt, Phật giáo cũng phải biến hoá cho phù hợp với phong tục, tập quán của nhân dân bản địa. Quá trình thâm nhập Phật giáo vào nước ta theo hai đường cơ bản. Đường biển, các nhà sư Ên Đé đã cùng các thuyền buôm đến Việt Nam truyền đạo, Luy Lâu- trị sở quận Giao Chỉ đã trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Từ Luy Lâu có thể là một căn cứ, một bàn đạp để Phật giáo đi sâu vào miền nội địa Trung Quốc, điều này được chứng minh bởi câu trả lời vua Tuỳ Văn đế về tình hình Phật giáo Giao Châu của nhà sư Đàm Thiên như sau: “ xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Tróc Phật giáo truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ Êy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được 500 vị tăng và dịch được 15 bé kinh rồi. Thế là xứ Êy theo đạo Phật trước ta ”.. Có thể nói Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Theo truyền thuyết ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái vào thời Hùng Vương , Chử Đồng Tử đã ra biển, lên núi Quỳnh gặp nhà sư ngoại quốc.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Phật Quang để học đạo, trở về truyền lại cho mọi người. Như vậy, Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ên Độ vào Việt Nam ngay từ đầu công nguyên nên từ Buddha trong tiếng Phạn Được phiên âm sang tiếng Việt là Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc nay mang màu sắc Tiểu thừa- Nam tông và trong con mắt người Việt Nam nông nghiệp Bụt như một vị thần vị thần và luôn có mặt ở khắp nơi, sẵn sằng có mặt để cứu giúp người tốt, trừng trị kẻ xấu. Con đường thứ hai là con đường từ Trung Hoa truyền bá vào. Phật giáo truyền bá theo con đường này chủ yếu là: Thiền Tông, Tịnh tông và Mật tông. Thời kì này, đặc biệt là đến thế kỉ thứ IX, các nhà sư gốc Trung Hoa đến Việt Nam trụ trì ngày một nhiều hơn. Trung tâm Phật giáo Thiền phái thứ hai được thành lập ở chùa Kiến Sơ ( Phù Đổng- Gia Lâm- Hà Nội) do nhà sư người gốc Quảng Đông là Vô Ngôn Thông trụ trì, đây là líp Phật giáo thời Bắc thuộc mang màu sắc Việt – Hoa. Người kế nghiệp Ngô Vô Thông là nhà sư Cảm Thành. Thế kỉ X, đạo Phật dưới các triều Đinh , Tiền Lê đã trở thành quốc giáo tuy vẫn đậm tính dân gian. Ở kinh đô Hoa Lư đã dựng lên nhiều chùa và nhiều cột kinh Phật. C ác nhà sư thời này nh- Sùng Phạm, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu ( Khuông Việt), Vạn Hạnh đã là những trí thức ( các nhà Sư- Nho) được sử dụng như những cố vấn cung đình và những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua. Như vậy, ngay từ thời Bắc Thuộc, Phật giáo đã thâm nhập một cách hoà bình bằng nhiều con đường vào Việt Nam. Đến thời Lí – Trần, Phật giáo phát triển tới mức cực thịnh ( đời Lý đậm hơn đời Trần, đầu Trần đậm hơn cuối Trần). Lý- Trần là hai triều đại phong kiến thời kì tự chủ sau 1000 năm Bắc thuộc. Hai triều đại này đã xây dùng cho mình một mô hình nhà nước “tập quyền thân dân” mang tính khoan dung độ lượng cao, mét nhà nước của Phật giáo. Đặc biệt là Lý Thái Tổ ( Lý Công Uẩn) có liên quan mật thiết với đạo Phật.Hầu hết các vua đời Lý (Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Anh Tông...) và nhiều vua đời Trần ( Thái Tông, Nhân Tông...) đều sùng Phật, xây dựng nhiều chùa tháp, tô tượng, đúc chuông... Những năm 1031 triều đình đã “ xuống.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> chiếu phát tiền, thuê thợ làm chùa quán ở các hương, Êp”. Lý Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã sáng lập ra hai phái Thiền tông và Trúc Lâm. Đạo Phật được đưa vào các kì thi tam giáo. Nhiều quý téc tông thất là những người mộ đạo Phật ( ỷ Lan, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung), Nho sĩ quan liêu Mạc Đĩnh Chi còng đứng ra trùng tu Chùa Dâu. ở khắp nơi chùa tháp được xây dùng ( Diên Hựu- Một Cột, Phật Tích, Long Đọi, Báo Thiên), phần lớn đều do nhà nước tài trợ, đông đảo quần chóng bình dân làng xã nô nức theo đạo Phật, “ không bảo mà cứ theo, không hẹn mà cứ tin”. Lê Văn Hưu và Lê Quát đưa ra hình ảnh: “ dân chúng quá nửa nước là sư .” Thời Lý- Trần đã có nhiều vị tăng sư nổi tiếng cả nước nhVạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Giác Hứa, Pháp Loa, Huyền Quang. Có ba tông phái chủ yếu là: Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Thiền Tông: phái Thảo Đường (do Lý thánh Tông sáng lập) có nơi trụ trì chính là chùa Khai Quốc (Trấn Quốc) và phái Trúc Lâm (do ba vị tổ sáng lập: Trần Nhân Tông (tức Điếu Ngư Giác Hoàng) Pháp Loa và Huyền Quang) nơi trụ trì chính là chùa Yên Tử ở Đông Triều. Nhà nước Lý- Trần tôn trọng đạo Phật trong bối cảnh của sự dung hợp tôn giáo- “Tam giáo đồng nguyên”. TrÇn Nhân Tông lập luận: “sách nho dạy thi nhân bố đức, kinh đạo dạy yên vạn vật, quý sự sống, còn phật thì chủ trương giữ giới cấm sát sinh”. Sau này Nho sỹ Phan Huy Chú nhận xét: “đêi Lý- Trần, dù chính đạo (Nho) hay dị đoan (Phật, Lão) đều được tôn chuộng không phân biệt”. Đạo Phật thời kỳ này ảnh hưởng tới đường lối cai trị của nhà nước (chính sách thân dân khoan dung), là đối trọng tư tưởng của Nho giáo tạo nên thế cân bằng văn hoá. Hơn nữa, thời kỳ này thấy một nét rất đặc biệt, vua lập nghiệp của vương triều Trần là Trần Thái Tông còng là vị tổ phái Trúc Lâm của thiền tôn Việt Nam nêu cao tinh thần thanh tịnh “cư trần lạc đạo để mở ra một nếp trách nhiệm khi Hoàng tử đã lớn, vua nhường ngôi làm Thái thượng`hoàng kèm cặp ít lâu rồi đi tu, giao hẳn quyền lại cho vua mới. Thật là một nếp sống trách nhiệm với sứ mệnh, với việc đào tạo những người kế tục, tinh thần không.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> ham bám quyền lực, mét kiểu thuwch hành dân chủ trong xã hội tuy phong kiến nhưng đã khá gần dân” Thời kì này Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh, cóa thể nói đó là thời kì Phật giáo phát triển nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nho Lê Quát học trò Chu Văn An đã lấy làm khó chịu. khi thấy toàn dân theo Phật: “Phật chỉ lấy điều hoạ phóc mà động lòng người, sao mà sâu và bền chắc đến nh- vậy? Trên từ Vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về phật thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa xây tháp thì hớn nở vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh thành ngoài từ Kinh thành,ngoài đến Châu phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà thì có chùa phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì làm lại”. Trong thời gian này chùa tháp có quy mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo được xây dựng như chùa Phật Tích, Chùa Dạm (Chùa Đại Lãm), Chùa Diên Hựu (Một cột); Chùa Phổ Minh, Chùa Quỳnh Lâm, Chùa hương Lãng, Chùa Linh Xứng, Chùa Bối Khê , Chùa Lạc Phái,hệ thống chùaYên Tử, Tháp Bình Sơn. Đáng khâm phục hơn cả là những thành tựu văn hoá thời Lý- Trần với bốn công trình nghệ thuật lớn được coi là An Nam tứ đại khí, đó là: Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm, Tháp Báo Thiên, Chuông Quy điền, Vạc Phổ Minh. Có thể nói, “Phật giáo (và văn hoá Ên Độ nói chung kể cả Hin Đu giáo) gần đời hơn, gần tín ngưỡng phồn thực của nông dân Việt Nam, cảm thông với biển khổ của người dân thường rên xiết dưới nhiều ách thống trị, kể cả ách thống trị ngoại bang hơn, mang lại nhiều an ủi và tư duy giải thoát khái khổ ải của người dân Việt Nam hơn là Nho giáo với lễ trị, Pháp gia với.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> pháp trị của người Trung Hoa, vì thế mà người Việt Nam dễ tiêu hoá hơn” Tính “Đồng nguyên” của Phật giáo thể hiện ở tính tổng hợp, đây cũng là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp và là đặc trưng nổi bật nhất cảu Phật giáo Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với nững tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, và do vậy, đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ Pháp” thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên mây- mưa- sấm chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền phật hậu thần ” với việc đưa thần thánh , các thành hoàng, thể địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong nhà chùa. Đạo phật vào việt nam còn tổng hợp các tông phái với nhau như nho với đạo, phật giáo việt nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với đời vốn là một tôn giáo xuất thế nhưng vào việt nam phật giáo trở lên nhập thế . Các cao tăng được nhà nước m ời tham gia chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng đại. Sự gắn bó đạo đời không chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia chính sự , mà ngược lại còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong sáu thế hệ đệ tử của của phái thảo đường thì đã c ó tới 9 người là vua quan đương nhiêm. Không phải ngẫu nhiên ở sân đình chùa phổ minh, quê hương nhà Trần, lại còn chiếc vạc đồng lớn ( mét trong “An- Nam tứ đại khí ”) tượng trưng cho quyền lực. Đặc trưng thứ hai khi mà phật giáo du nhập vào Việt Nam là khuynh hướng thiên về nữ tính đặc trưng bản chất của văn hoá nông nghiệp, phù hợp với yếu tố phần thực ở đây. Các vị phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, song Việt Nam biến thành phật ôngvị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á ( nên còn là quan âm Nam Hải ). Ở một số vùng,.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> ngay cả phật tổ Thích Ca còng được coi là phụ nữ (người tày nùng gọi là “mẹ phát xích ca ”) người Việt Nam còn tạo ra những “phật bà ” riêng của mình : Đứa con gái nàng man, tương truyền sinh vào ngày 8-4 , được xem là phật tổ Việt Nam, bản thân bà man là phật mẫu. Rồi còn những phật bà khác nữa như Quan Âm Thị Kính, phật bà Chùa Hương, lại còn rất nhiều các bà bồ tát như bà Trắng Chùa Dâu, các thánh mẫu ... Việt Nam có nhiều chùa chiền mang tên các bà : chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu , chùa Bà Tướng , chùa Bà Dân, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh ... Tuyệt đại bộ phận phật tại gia là các bà : trẻ vui nhà già vui chùa là nói cảnh các bà. Ngoài ra, Phật giáo vào Việt Nam là một bộ phận của văn hoá nông nghiệp Việt Nam, phật giáo Việt Nam không chỉ có tính tổng hợp mà còn có tính linh hoạt. Vốn có đầu óc thiết thực người Việt Nam coi trọng việc sống phóc đức, trung thực hơn là đi chùa : Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì là tu chợ, thứ ba la tu chùa; dù xây chín bậc phù đề không bằng làm phóc cứu cho một người Coi trọng truyền thống thờ cha kính mẹ, ông bà hơn thờ p hật :tu đâu cho bằng tu nhà , thê cha kính mẹ mới là chân tu (cadao); đồng nhất cha mẹ với phật: Phật trong nhà không thờ đi thờ thích ca ngoài đường (tục ngữ ). Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khái tai hoạ : “ Nghiêng vai ngửa vái phật trời Đường cả hoạn nạn độ người trần luôn ”.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> Làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tươi tốt , ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc giao thừa ); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát. Mặt khác, ngoài chùa ở Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với không gian ba gian hai thước năm gian Từ thế kỉ XVI-XVIII Nho giáo từng bước suy thoái, tôn ti trật tự phong kiến không còn được tôn trọng như trước mặc dù các chính quyền Lê-Trịnh và Nguyễn tìm mọi cách củng cố. Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện khôi phục vị trí của mình nhưng không được như thời LíTrần. 1.Đạo nho… Trên thưc tế,nhà mạc chống lại tư tưởng độc tôn nho giáo của nhà lê.Nhưng từ trong tiềm thức giai cấp phong kiến vừa bảo vệ nho giáo vừa dung nho giáo làm kỉ cương cho đời sống xã hội.Từ cuối thế kỉ 16 đến hết thế kỉ 18,đời sống tư tưởng của việt nam càng trở nên phức tạp.Giai cấp phong kiến càng sa đọa đánh mất vai trò làm chủ xã hội của mình.Thế kỉ 18 đánh dấu sự tan vỡ của nho giáo .mọi giá trị của nho giáo đứt tung không có cách gì cứu vãn được.Tầng lớp nho sĩ bị phân hóa.Một số có tấm long ưu thành mẫn thế thì hoặc lui về ở ẩn hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa của nông dân,đa số đua chen trong vòng danh lợi..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Vào các thế kỷ XVII và XVIII, việc học hành và thi cử của Nho học tuy có những nét tiêu cực, nhưng cũng chính nền giáo dục Nho học lúc bấy giờ đã sản sinh ra những nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học và y học kiệt xuất, như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm, v.v.]. Là động lực tư tưởng dẫn tới cuộc chiến tranh trung hưng của nhà Lê sau khi bị nhà Mạc cướp ngôi, lý thuyết chính trị Nho giáo cũng chịu tác động của cuộc chiến tranh này như một động lực phản hồi tương ứng. Cho nên mặc dù thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền thống trị với nhà Mạc, nhà Lê Trung hưng vẫn không thể quay về với mô hình Nho giáo đời Lê Thánh Tông. Xung đột Lê - Mạc chưa chấm dứt thì mâu thuẫn Trịnh Nguyễn đã nảy sinh, và tình hình không song hành giữa lịch sử pháp quyền với lịch sử tư tưởng trước kia lại tiếp tục trình hiện qua sự phát triển của Nho giáo. Như một sản phẩm bất khả kháng của thực tế lịch sử, tổ chức quân chính lồng vào bộ máy quan liêu của các chính quyền từ Mạc, Lê - Trịnh, họ Nguyễn Đàng Trong rồi Tây Sơn, Nguyễn ánh và cả nhà Nguyễn đến đầu đời Minh Mạng luôn bộc lộ tính chất chông chênh trên đường hướng trị đạo Nho giáo, còn với các ông vua không ngai trong vương tộc họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tùng, Trịnh Tráng..., thiết chế “đã có vua lại có chúa” quái gở của chính quyền Lê - Trịnh đã thật sự là.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> một báng bổ đối với chuẩn mực chính trị Nho gia. Chính tình hình nói trên đã làm dấy lên trào lưu thực học mà thật ra là sự đối phó học thuật trong cuộc đấu tranh không cân sức với lực lượng phong kiến quân phiệt của một bộ phận nho sĩ quan liêu ở Đàng Ngoài thế kỷ XVIII. Không lạ gì mà sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, các bậc đại nho Việt Nam từ Lê Quý Đôn tới Phan Huy Chú, Cao Xuân Dục... hầu như đều là các sử gia, các nhà bách khoa chứ không có mấy người chuyên về triết học. Nguyên lý Nho giáo được vận dụng một cách nửa vời đã hạn chế giới trí thức Nho học Việt Nam đi sâu vào các vấn đề triết học và phương pháp luận, trong khi thực tiễn đồ vương tranh bá lại khiến các tập đoàn phong kiến đều đề cao đạo đức hiếu trung. Dưới áp lực chính trị ấy, các chuẩn mực xã hội Nho giáo cũng tán phát sâu rộng hơn vào sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, dĩ nhiên cũng dễ chuyển hóa thành tín điều hay sai lệch về nội dung vì không xác lập được mối quan hệ vững chắc với lý luận. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục khoa cử đã bình thường hóa sự hiện diện của Nho giáo trong đời sống xã hội, tầng lớp nho sĩ đông đảo hơn trước trở thành lực lượng phổ biến Nho giáo trong sinh hoạt làng xã, nên khác với giai đoạn trước được tiếp nhận chủ yếu bởi chính quyền và trí thức, từ thế kỷ XVI trở đi Nho giáo đã thấm sâu hơn vào nhiều cơ tầng của văn hóa dân gian. Các bản hương ước ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII - XVIII.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> cũng như nhiều truyện Nôm khuyết danh thế kỷ XVIII - XIX cho thấy điều này. Chính trên cơ sở đó mà hệ thống Nho giáo nhân dân hóa ở Việt Nam đã hình thành, hệ thống có thể coi như một dòng phái sinh không hoàn chỉnh trong ý nghĩa là một hệ thống chuẩn mực xã hội đồng thời không thuần nhất trên phương diện là một hệ thống học thuật lý luận song lại có vai trò cũng như tác dụng xã hội phổ biến hơn so với loại Nho giáo quan phương của giai cấp phong kiến. Quá trình nhân dân hóa kế tiếp quá trình dân tộc hóa đã góp phần xác lập diện mạo của Nho giáo ở Việt Nam, nhưng khác với Đàng Ngoài mà các quá trình xã hội luôn bị kìm chế bởi nền kinh tế tự cấp tự túc kiểu tiểu nông, quá trình này lại diễn ra một cách sinh động ở Đàng Trong, trạm trung chuyển quan trọng đưa con người Việt Nam bước vào không gian Đông Nam Á. Sau khi cục diện Nam Bắc triều chính thức mở ra, các chính quyền phong kiến ở Việt Nam đều phát triển theo xu thế quân phiệt hóa. Nhưng ở Thuận Quảng thế kỷ XVI rồi Đàng Trong thế kỷ XVII trở đi thì sự khủng hoảng ấy của mô hình quân chủ Nho giáo lại được giải quyết trong những điều kiện khác. Được kích thích bởi kinh tế ngoại thương, văn hóa Đông Nam á đương thời đã phát triển theo một quỹ đạo ngày càng xa lạ với mô hình Đông á. Cho nên sau khi bước vào môi trường văn hóa Đông Nam á trong hoàn cảnh biệt lập về chính trị.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> với Đàng Ngoài, chính quyền Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII đã tiến tới thiết chế văn hóa - tư tưởng “Nho Thích song hành”(3), một thiết chế khá gần gũi với mô hình “chính trị - tôn giáo hợp nhất” phổ biến ở nhiều quốc gia trong khu vực đương thời nhưng khác hẳn nếu không nói là trái ngược với lý thuyết chính trị Nho giáo. Nhưng mô hình này lại đẩy mạnh xu thế nhân dân hóa của Nho giáo, vì vào thế kỷ XVII - XVIII thì Phật giáo đại thừa là tôn giáo phổ biến nhất trong xã hội người Việt ở Đàng Trong. Sự phát triển “lệch chuẩn” của bộ phận Nho giáo ở Đàng Trong vì thế đã đưa tới những kết quả tích cực khách quan đối với lịch sử vùng đất phía nam đất nước. Bởi vì nếu mô hình “quân bất quân thần bất thần” của Nho giáo ở Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cung đình, nuôi mầm biến loạn thì yếu tố “vô thần” trong thiết chế Nho Thích hỗn dung của Nho giáo ở Đàng Trong lại giúp chính quyền và nhân dân Việt Nam ở vùng này nhất hóa chứ không đồng hóa nhiều nhóm cư dân có nguồn gốc văn hóa và lịch sử, phong tục và tín ngưỡng khác nhau thành một cộng đồng. Phương thức phát triển hội tụ của văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong đã đưa tới cho Nho giáo ở vùng này một nguồn sinh lực mới, mà biểu hiện tập trung là quá trình nhân dân hóa qua thực tiễn xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, tổ chức xã hội và bảo vệ biên cương. Đáng chú ý là sự tan rã của đế chế nhà Minh thế kỷ XVII đã đẩy nhiều di.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> thần phản Thanh phục Minh Trung Hoa tỵ nạn chính trị xuống Đông Nam á trong đó có Đàng Trong, và nhiều yếu tố văn hóa Hoa Nam trong đó có Nho giáo cũng được du nhập rồi tái tạo ở Đàng Trong trong những điều kiện mới, chẳng hạn phong khí nho cổ (thương nhân là nhà nho) rất thịnh hành từ thời Minh Thanh được du nhập đã ảnh hưởng tới Nho giáo ở Đàng Trong thế kỷ XVII XVIII. Các nho sĩ Minh hương trong Sơn hội Gia Định như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn đều là con nhà thương nhân, đều từng đi buôn trước khi tham gia chính quyền Nguyễn ánh. Chính loại Nho giáo thương nhân tinh túy của hệ thống Nho giáo nhân dân hóa ở Đàng Trong này đã chiến thắng loại Nho giáo sĩ tộc đỉnh cao của hệ thống Nho giáo quan phương ở Đàng Ngoài trong nội chiến Tây Sơn - Nguyễn ánh, giúp tập đoàn Nguyễn ánh nhập thân vào trào lưu thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII để đưa ngọn cờ phục thù của mình về lại Phú 2.Thiên chúa giáo… Đối với Việt Nam, năm 1553 một giáo sĩ phương Tây tên là Ingate đã đến các xã Ninh Cường (Nam Trực - Nam Định), xã Trà Lữ (Thái Bình) và xã Quân Anh (Hải Hậu Nam Định) để truyền đạo(1). Từ thế kỷ XVII, các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam ngày càng đông đặc biệt là các giáo sỹ trong hội truyền giáo Bồ Đào Nha và Pháp. Trong quá trình truyền đạo, các giáo sỹ phương Tây đã có.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> những đóng góp nhất định trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục đối với nước ta, dù rằng mục tiêu chính của các hội truyền giáo phương Tây không phải là truyền bá và phát triển văn hóa mà sử dụng nó như là một công cụ để truyền đạo. Trong số các giáo sỹ phương Tây đáng chú ý nhất là Alécxăngđơ Rôt là người kế thừa thành quả của các giáo sỹ trước đó để hoàn thành cuốn “Từ điển Việt Bồ - La tinh” đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Các giáo sỹ phương Tây đã sử dụng chữ Quốc ngữ để truyền bá đạo Thiên chúa thông qua việc giảng bằng tiếng Việt, viết sách giáo lý bằng Quốc ngữ. Các giáo dân không học chữ Nho mà chỉ học Quốc ngữ(2). Với cách thức truyền đạo đó cùng với những lý do chủ quan và khách quan mà đến đầu thế kỷ XIX, số lượng tín đồ theo đạo Thiên chúa ở Việt Nam đã lên đến 900.000 người. Bắt đầu từ thế kỉ 16,một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta,Khâm định việt sử thông giám cương mục ghi:’’Năm Nguyên Hòa thứ 1(1533)đời vua lê trang tông có một ngươi tây dương tên inekhu(ignatio)theo đường biển lẻn vào giảng đạo kito ở các làng Ninh Cường,Quần Anh,Trà Lũ nay thuộc Nam Định.’’Từ đó,các giáo sĩ bồ đào nha,tây ban nha tìm đến ngày càng đông để truyền giáo.Như vậy là trong đời sống tư tưởng Việt Nam có them một tôn giáo.Đó là kito giáo Sự phát triển của kito ở vn có phần khác biệt với nho giáo và phật giáo ở vn.Thái đọ của các vương triều đối với tôn giáo này qua các thời kì lịch sử có sự khác nhau’’trong thế kỉ 17,chính quyền Trịnh-Nguyễn nhiều lần ra lệnh cấm đạo,trục xuất giáo.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> sĩ.Tuy vậy,nhiều giáo sĩ vẫn lén lút hoạt động để chuẩn bị cơ sở cho những hành động can thiệp và xâm lược sau này’’ Từ thế kỉ 17,khi vào nước ta truyền đạo,các giáo sĩ đã học tiếng việt để giảng đạo,dùng chữ cái latinh để ghi âm tiếng việt-chữ quốc ngữ dần xuất hiện.Vì thế,các giáo sĩ người bồ đào nha đã dung chữ này để soạn sách giáo lí,và làm từ điển tổ chức việc đúc chữ in.Sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương tây,nhưng rõ ràng trong công trình này,đóng góp của nhiều người vn không phải là nhỏ.Sự xuất hiện của chử quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hóa lên một bước mới.Tuy nhiên,giai cấp thống trị thời ấy đã không nhận ralowij ích của việc dung chữ quốc ngữ.Mãi sau này các thức giả thời đại mới nhận thấy và sử dụng nó. Thiên chúa giáo xuất hiện vào thế kỉ I ở đế quốc Rôma cổ đại, được coi là tôn giáo chính ở châu Âu. Thế kỉ XVI- XVII, với cuộc phát kiến địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hàng hóa phát triển, con đường buôn bán cũng được mở rộng. Đã tạo đà cho đạo Thiên Chúa truyền vào nước ta. Các giáo sĩ phương Tây khi truyền vào Việt Nam đã dựa trên sự suy thoái của nho giáo và đời sống khổ cực của nhân dân. Cho chúa cứu thế những người nghèo khổ, thu hút được nhiều giáo dân tham gia..
<span class='text_page_counter'>(28)</span> Trong khoảng 10 năm từ 1615-1625 đã có 21 giáo sĩ vào Đại Việt. Tiêu biểu là giáo sĩ người Pháp Alêchxang Đơ Rốt. Truyền giáo đã dọn đường cho chủ nghĩa thực dân, vua Nguyễn đã ý thức được nhưng không có biện pháp đúng đắn, khiến chủ nghĩa thực dân ngày càng có cơ hội phát triển và đạo thiên chúa ngày càng phát triển theo.. . -Từ thế kỉ XVII, do nhu cầu truyền đạo, chữ quốc ngữ theo mẫu Latinh tự ra đời. 3. Phật giáo… Phật giáo Việt Nam triều Hậu Lê :. Sau thời kỳ cực thịnh của Phật giáo từ đời Lý cho đến cuối đời Trần. Đến đời Trần Thiếu Đế thì bị Hồ Quý Ly ép phải nhường ngôi để lập nên triều đại nhà Hồ. Nhưng sau đó nhà Minh đem quân đánh nhà Hồ và đặt ách thống trị Đại Việt. Nhà Minh thực hiện chính sách đô hộ tàn ác và cho tịch thu kinh sách Phật giáo đốt phá chùa chiền ( đầu thế kỷ 15). Trong thời kỳ nhà Minh đô hộ chính sách đồng hóa Đại Việt của Tàu, được thi hành triệt để vì lẽ nếu để Đại Việt độc lập văn hóa sẽ dẫn đến độc lập chính trị. Các quan lại nhà Minh nghiêm khắc áp đặt nền văn hóa Tàu lên Đại Việt. Mười ba năm sau Bình Định Vương Lê Lợi (với sự tham mưu của Nguyễn Trãi) đứng lên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh giành lại độc lập và lập nên nhà Hậu Lê. Thế nhưng triều đại Hậu Lê là triều đại độc lập chính trị đầu tiên của Việt Nam đã bỏ rơi nền văn hóa dân tộc độc.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> lập, đã bỏ rơi truyền thống dung hợp, khai phóng nhằm xây dựng một quốc gia hùng mạnh và phú cường để chạy theo một cách chính thức và toàn diện nền văn hóa ngoại lai đã từng được quân xâm lăng Trung hoa đô hộ áp đặt nhưng không thành công. Mặc dầu năm 1424 vua Lê Thái Tổ có mở kỳ thi khảo hạch tăng đạo, người nào trúng tuyển thì được ở chùa tu hành, ai hỏng thì phải hoàn tục (quả thật là một lối xét định kiến thức và đạo đức của tu sĩ Phật giáo một cách từ chương như là một biện pháp nhằm đàn áp và tiêu diệt Phật giáo một cách quy mô và toàn diện hơn). Ngoài ra có những lúc triều đình cũng tổ chức những buổi rước Phật (năm 1934), xuống chiếu ra lệnh cho bá quan văn võ ăn chay (1448, 1449) để đến chùa cầu mưa, nhưng những hình thức đó chẳng qua được xem như là một thứ đạo phù thủy dùng để cúng tế cầu đảo. Một tinh thần văn hóa ngoại lai mang đậm bản chất độc tài, độc tôn, độc đoán, hẹp hòi cố chấp và bảo thủ đã thể hiện rõ nét trên con người của vua Lê Thái Tổ khi sai bắt giết hai đệ nhất công thần Trần Nguyên Hãn (khiến Trần Nguyên Hãn phải nhảy xuống sông tự tử ) và Phạm văn Xảo, rồi sau đó cùng một số nho thần ích kỷ với bản chất nô lệ từ tâm hồn đến tư tưởng đã vu hãm vô cùng hèn mạt để giết Nguyễn Trãi và giết sạch 3 họ nhà ông. Quả thật một chế độ khắc nghiệt và tàn bạo thể hiện đúng bản chất độc tài chuyên chế của Tống Nho phi nhân, nô lệ văn hóa ngoại lai, khác với truyền thống của dân tộc Đại Việt đã từng tha chết cho tên giặc cướp Nùng Trí Cao và vua Chiêm Thành Chế Củ đời vua Lý Thái Tông, rồi đời vua Trần Thánh Tông cũng đã từng tha chết khoan dung.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> cho cả quan quân công tác với quân Mông Cổ, kể cả đoàn quân bại trận trong 2 thời kỳ chiến tranh vệ quốc năm 1285 và 1288. Lịch sử Phật giáo Việt Nam thời Trịnh Nguyễn phân tranh :. a. Phật giáo thời chúa Trịnh (đàng ngoài) : Sau thời gian bị suy thoái dưới thời Hậu Lê và nhà Mạc, đến thời chúa Trịnh Phật giáo bắt đầu phục hưng. Từ năm 1533 Phật giáo hồi sinh bởi công lao của các Thiền sư : + Thiền phái Tào Động : Vào khoảng 1575 – 1599 thiền sư Thủy Nguyệt, người Thanh Triều, Thái Bình là đời 36 phái Tào Động tại Trung Hoa và là Sơ tổ phái Tào Động Việt Nam ở đàng Ngoài. + Thiền sư Chuyết Chuyết tên là Thiên Tộ, họ Lý, pháp danh Hải Trừng, pháp hiệu Viên Văn, sinh năm 1590 tại quận Thanh Chương, tỉnh Phúc Kiến Trung Hoa. Từ Trung Hoa vượt biển vào Cao Miên rồi đi lần ra kinh thành Thăng Long vào năm 1633 vào năm 43 tuổi, Ngài mất Rằm tháng bảy năm Giáp Thân (1644) thọ 55 tuổi. Sau khi tịch được vua Lê Chân Tông phong hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư. Ngài thuộc thế hệ thứ 34 dòng Thiền Lâm Tế, có 2 đệ tử xuất sắc là Minh Hành (người gốc Trung Hoa) và Minh Lương (người Đại Việt). + Thiền sư Minh Hành pháp hiệu là Tại Tại, người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Hoa là đệ tử của Thiền sư Chuyết Chuyết. Thiền sư là viện chủ chùa Phật Tích (năm 1643), đến năm 1644 khi sư phụ mất ông trở thành.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> viện chủ chùa Ninh Phúc. Thiền sư thị tịch vào năm 1659, thọ 64 tuổi. Trước khi tịch Ngài có để lại một bài kệ được dùng để đặt pháp danh cho các thế hệ kế thừa của Thiền phái Lâm Tế ở đàng ngoài. + Thiền sư Chân Nguyên họ Nguyễn tên Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông sinh năm 1646, xuất gia năm 19 tuổi, học với Thiền sư Chân Trú (là đệ tử của Thiền sư Minh Hành) tại chùa Hoa Yên, pháp danh là Tuệ Đăng. Sau khi Chân Trú mất, ông tu hạnh đầu đà du phương cầu học, sau đó đến tham học với Thiền sư Minh Lương (đệ tử của Thiền sư Chuyết Chuyết) và được ban pháp hiệu là Chân Nguyên. Về sau được truyền thừa y bát Trúc Lâm làm trụ trì chùa Long Động và Quỳnh Lâm. Thiền sư cùng chúng đệ tử là những người có công lớn trong việc phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, phục hồi nền văn học nước nhà : trùng san sách Thiền Uyển Tập Anh (1715), soạn Kế Đăng Lục (1734), Thiền Tông Bản Hạnh, trùng khắc Thánh Đăng Lục (1750), Khóa Hư lục, Thượng Sĩ Ngữ Lục (1763), Tam Tổ Thực Lục (1765)… Năm 1722 lúc 76 tuổi Thiền sư được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng thống và ban hiệu là Chính Giác Hòa Thượng. Năm 1726 trong tư thế kiết già, Ngài tịch vào tháng 10 âm lịch thọ 80 tuổi. + Thiền sư Hương Hải sinh năm 1627, năm 18 tuổi đậu cử nhân được tuyển vào làm trong phủ chúa Nguyễn, sau đó làm Tri phủ Triệu Phong Quảng Trị. Năm 25 tuổi tham học đạo Phật với Thiền sư Viên Cảnh người Trung Hoa. Năm 1655 (năm 28 tuổi) ông Từ Quan, xuất gia với Thiền sư Viên cảnh được đặt pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác,.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> pháp tự là Minh Châu Hương Hải. Năm 1665 chúa Nguyễn Phúc Tần lập Thiền Tĩnh Viện trên núi Quy Kính để thiền sư giảng pháp. Sau đó ngài bị vu cáo cùng một quan Thị Nội giám là Gia Quận công là âm mưu trốn ra đàng ngoài, bị chúa Nguyễn Phúc Tần tra khảo, sau đó đưa vào Quảng Nam. Từ sự đối đãi ấy tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682) Thiền sư cùng 50 đệ tử dùng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài, thuyền ghé vào Trấn Nghệ An, vào yết kiến quan trấn thủ là Trịnh Na hầu, quan trấn thủ về tâu với triều đình, chúa Trịnh Tạc sai Đường Quận công đem thuyền vào Nghệ An rước Thiền sư và chúng đệ tử ra Đông Đô. Sau đó chúa Trịnh cho xây dựng chùa ở trấn SơnNamđể thầy trò giảng pháp tu học vào năm 1683. Năm Ất Mùi (1715) sáng ngày 13.05 sau khi tắm, thiền sư khoác y, đội mủ, đeo tràng Hạt, ngồi kiết già mà tịch, thọ 88 tuổi. Khái quát Phật Giáo Đàng Ngoài Đất nước Việt Nam bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài (1600- 1778) với hai triều đại trên cùng một đất nước. Ở Đàng Ngoài thì có vua Lê và chúa Trịnh, ở Đàng Trong thì có chúa Nguyễn. Lúc này Phật giáo mới được chú ý ở Đàng Trong, nhưng ở Đàng Ngoài thì không được phát triển, vì Nho giáo được chú trọng và suy tôn nên Phật giáo chỉ là điểm tựa cho Nho giáo. Tuy nhiên tầm quan trọng của Phật giáo cũng đã ảnh hưởng rất lớn trong xã hội thời bấy giờ . Trước tiên, chúng ta thấy dòng thiền từ Trung Quốc do ngài “Tào Sơn Bản Tịch” (840- 901) và “Động Sơn Lương Giới” (807- 869) sáng lập đã truyền vào Việt Nam từ thế kỷ XVII, có xu hướng sử dụng dịch lý ảnh hưởng trên cả hai miền NamBắc. Vào nửa cuối thế kỷ XVII và suốt thế kỷ XVIII, dòng thiền.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> Tào Động đã có những ảnh hưởng to lớn, đến nay những chùa vẫn còn xem là truyền thừa của dòng thiền này như Trấn Quốc, Hàm Long, Hoè Nhai, … Một dòng chảy qua đi nhưng không có nghĩa là dòng chảy ấy hoại diệt. Sự ẩn tàng nơi này chính là mầm mống cho sự phát sinh nơi khác. Thật thế, khi nói đến Phật giáo Đàng Ngoài chúng ta không thể không nói đến phái thiền Trúc Lâm một thời chiếu sáng. Thế rồi, phái thiền Trúc Lâm đã bị mai một sau khi nhà Trần suy vong. Nhưng sau đó lại được phục hưng và phát triển với sự xuất hiện của các thiền sư Chân Nguyên, Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm, Minh Châu Hương Hải . Thế kỷ XVII, dòng thiền Trúc Lâm phát triển mạnh, với sự có mặt của ngài Chân Nguyên (1647-1726). Mục đích phát triển Phật giáo thời Trần là nhằm tìm ra giải pháp cho những bế tắc của thời đại, trong khi các thế lực phong kiến đang cấu xé tranh dành quyền bính mà không đếm xỉa gì đến quyền lực của dân tộc và xã hội đang trên đà băng hoại. Ngài đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo với nhận thức khá mới mẻ nhưng cũng không thể thay đổi được tình thế; tuy nhiên nó đã tạo nên sự phấn khích cho thế hệ đương thời và những thế hệ về sau, điển hình là Hải Lượng Thiền sư tức Ngô Thì Nhậm (1746-1802), đã tự xưng là Tổ thứ tư của phái Thiền Trúc Lâm, tác phẩm nổi tiếng của ngài là “Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Tranh”. Kể từ sau khi Tam Tổ Trúc Lâm là Huyền Quang mất, về sự truyền thừa của dòng thiền này cũng không còn thấy. Mãi đến thế kỷ XVII phái Trúc Lâm mới xuất hiện với các thiền sư : Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm, Minh Châu Hương Hải,….
<span class='text_page_counter'>(34)</span> Thật ra sự truyền thừa của Viên Cảnh Lục Hồ và Viên Khoan Đại Thâm không rõ ràng, chỉ từ ngài Hương Hải về sau mới có tài liệu. Nhưng có một điều chúng ta có thể thấy được đó là sự truyền thừa của thiền sư Viên Cảnh về thiền phái Trúc Lâm giống với sự truyền thừa của thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết về phái Lâm Tế. Vì truyền thừa của thiền sư Viên Văn sau này là Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác đã xác nhận rõ ràng là thuộc truyền thừa của Trúc Lâm Yên Tử. Như vậy, ở Đàng Ngoài hai phái thiền Trúc Lâm và Lâm Tế có mối liên hệ với nhau . Nói đến thiền sư Minh Châu Hương Hải (Tổ Cầu) sống ở làng Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa. Lúc nhỏ rất thông minh và tài giỏi; ông đậu Hương Tiến (cử nhân) năm 18 tuổi (1645) và được bổ làm văn chức ở phủ Chúa Nguyễn ở Đàng trong, vào thời Nguyễn Phúc Lan (1635- 1648). Năm ông 25 tuổi (1652) được chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) bổ làm tri phủ huyện Triệu Phong (Quảng Trị). Vì là người sùng Phật nên trong lúc làm quan ở Quảng Trị, Hương Hải theo học đạo với Thiền sư Viên Cảnh Lục Hồ và Viên Khoan Đại Thâm. Sau ba năm tham vấn Phật Pháp, vào năm 1655-1656 Ngài xin từ quan và xuất gia thọ giới với Thiền sư Viên Cảnh Lục Hồ và được pháp danh là Minh Châu Hương Hải, pháp hiệu là Huyền Cơ Thiện Giác. Sau đó Ngài ra đảo Tiêm Bút La và đảo Ngọc Long để hoằng hoá. Trong suốt thời gian ở Đàng Trong, Thiền sư Hương Hải rất thành công trong sự nghiệp hoằng hoá của mình. Tuy nhiên cuộc đời vốn dĩ vô thường, thời cuộc đổi thay. Trong thời gian hoằng dương Phật pháp ở Thiền Tịnh Viện trên núi Qui Cảnh do chúa Hiền thành lập, có rất nhiều người đến qui y. Khi đó có.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> quan Thị nội giám là Gia Quận Công làm quan ở Đàng Ngoài, đã bị Chúa Hiền bắt được trong cuộc chiến và chiếm được bảy huyện của trấn Nghệ An, nhưng Chúa tha tội và cho dạy học ở nội cung của Chúa. Gia quận công thường đến Thiền Tịnh Viện nghe Thiền sư thuyết pháp, vì thế bị nghi ngờ là hai người âm mưu trốn ra Đàng Ngoài theo Chúa Trịnh. Sau khi Chúa cho điều tra và không có bằng chứng kết tội, Chúa trả về nhưng không được ở Thiền Tịnh Viện nữa mà phải vào tu ở Quảng Nam. Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682), Thiền sư Minh Châu Hương Hải cùng khoảng năm mươi đệ tử dùng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài, đầu tiên ghé trấn Nghệ An yết kiến quan trấn thủ, sau đó Chúa Trịnh cho mời thiền sư về ngụ ở trấn Sơn Nam. Lúc này Thiền sư 50 tuổi (1683). Ở đây Thiền sư tu hành miên mật, đặc biệt chú trọng vào việc dịch kinh . Năm Canh Thìn (1700) Thiền sư sang hành đạo ở chùa Nguyệt Đường- Hưng Yên. Lúc này Ngài có đến 70 đệ tử theo học, tất cả đều tinh thông Kinh Luận, ở đây Ngài cho trùng tu lại chùa Nguyệt Đường rộng lớn và khang trang hơn, và cũng chính ở đây Ngài bắt đầu mở rộng sự nghiệp giáo hoá, phục hưng lại phái Thiền Trúc Lâm ngày một lớn mạnh và truyền thừa đến đời Nhà Nguyễn (1802-1945) sau này. Thời vua Lê Dụ Tông (1705-1729) rất kính trọng thiền sư nên thỉnh thoảng mời vào cung để tham vấn Phật pháp. Có lần thiền sư nói với Vua khi tham vấn Phật Pháp rằng “Phản Văn Tự Kỷ mỗi thường quan.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Thẩm sát tư duy tử tế khan Mạc giáo mộng trung tầm tri thức Tương lai diện thượng đổ sư nhan ”. Lại một lần vua hỏi : Thế nào là ý chỉ của Phật ? Sư đáp : “Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thuỷ Nhạn vô di tích chi ý Thuỷ vô lưu ảnh chi tâm”. Ngày 12 tháng 5 năm ất mùi (1715) niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, đời Lê Dụ Tông. Thiền sư Hương Hải thâu thần thị tịch trong tư thế Kiết già, thọ 88 tuổi. Thiền sư có nhiều đệ tử, 70 pháp tử, trong đó có những vị xuất chúng. Trưởng tử của ngài là Chân Lý Đề Mật , còn pháp tôn của ngài rất đông và lấy pháp tự luôn có chữ “Như ”: (Như Nguyệt, Như Đức,…) Thiền sư Hương Hải là người có công lớn trong việc phục hưng và phát triển phái thiền Trúc Lâm, Ngài đã biến chùa Nguyệt Đường thành một trong.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> các thiền lâm lớn ở Đàng Ngoài, và đã trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước thời bấy giờ. Chùa Nguyệt Đường còn được xem là tổ đình của Thiền phái Trúc Lâm, bên cạnh đó các chùa trước đây thuộc dòng thiền này cũng được khôi phục lại như: Chùa Lân Động (Yên Tử), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), chùa Hương Hải (Chí Linh- Hải Dương) ……. Thiền sư đã để lại nhiều tác phẩm chú giải về các bộ kinh- luật như: Kinh Pháp Hoa giảng giải, kinh A Di Đà giảng giải, Phật Tổ tam kinh giảng giải (3 quyển), Sa Di giới luật giảng giải, Chân tâm trực thuyết giảng giải… và còn rải rác rất nhiều bài văn, bài thơ về Phật pháp . Như vậy, Thiền sư Minh Châu Hương Hải của phái thiền Trúc Lâm, với pháp môn tu hành: Thiền-Tịnh- Mật. Tư tưởng Thiền của Thiền sư Hương Hải chịu ảnh hưởng của Lục Tổ Huệ Năng, nhưng để hoà hợp với xã hội Đàng Ngoài đang còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nho và Lão, Thiền sư Hương Hải cũng có một số bài thơ mang tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”. Ngài giáo hoá đồ chúng bằng cách dùng bài pháp, bài kệ, đồng thời cũng đem những bài kệ hoặc nhắc lại những ngữ lục của các bậc cao Tăng tiền bối . Về truyền thừa, dòng thiền này không được ghi chép đầy đủ và tài liệu thất lạc khá nhiều (50 đệ tử mà chỉ còn lại duy nhất về tiểu sử của Thiền sư Chân Lý Đề Mật), Pháp tôn thì chỉ còn lưu lại hai người là Như Nguyệt và Như Đức. Vì rằng các Chúa ở Đàng Ngoài (Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương) đã hỗ trợ cho Tổ sư Viên Văn.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> Chuyết Chuyết và các đệ tử của Ngài là Minh Hành Tại Tại, Minh Lương Nguyệt An phát triển phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài. Các vị này cùng với Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác (1647-1726) đã kết hợp tinh hoa của phái Thiền Lâm Tế và phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử tạo nên một sự khởi sắc mới cho Phật giáo Đàng Ngoài. Từ đó đưa đến sự xuất hiện của “Trúc Lâm- Lâm Tế song hành” ở Đàng Ngoài . Về phái Thiền Lâm Tế. Như đã nói các Chúa Trịnh ủng hộ phái Thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài phát triển rực rỡ. Khi nói đến phái Thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài thì không thể bỏ qua ngôi chùa Bút Tháp với Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết. Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết hay còn gọi là Hoà thượng Chuyết Công, Ngài tên thật là Lý Thiện Tộ (1590-1644), người Tiệm Sơn, Thanh Chương, Phúc Kiến, Trung Hoa. Ngài có pháp hiệu là Hải Trường, thuộc phái Thiền Lâm Tế đời 31. (Theo Việt Nam Phật giáo sử luận thì là đời thứ 34). Thân mẫu của ngài một hôm nằm mộng thấy hoa sen mọc lên từ rốn, bèn có thai cho đến ba năm sau mới sinh Ngài. Ngài vốn thông minh, đỉnh ngộ. Thuở nhỏ theo học Nho giáo, thông hiểu cả Tứ thư Ngũ kinh. Sau theo tu học với trưởng lão Tiệm Sơn. Sau đó Ngài đến tham vấn Hoà Thượng Đà Đà ở Nam Sơn, một vị danh tăng thường được vua Minh Thế Tông dời vào cung để tham vấn Phật pháp và bàn luận việc triều chính cũng như quân quốc trọng yếu. Vì kính trọng nên vua ban cho Hoà thượng là “Đại sư Khuông Quốc”. Hoà thượng Đà Đà đem yếu chỉ truyền cho thiền sư Chuyết Chuyết..
<span class='text_page_counter'>(39)</span> Sau khi được truyền tâm ấn, thiền sư Chuyết Chuyết đi hoằng hoá, danh tiếng vang khắp chốn Thiền Lâm Trung Quốc và được phật tử cũng như các học giả đương thời kính mộ . Đến năm 1630, vì sự nổi loạn của Lý Tự Thành ở Trung Hoa và sau đó nhà Thanh đánh bại nhà Minh xâm chiếm Trung Quốc, Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết cùng một số đệ tử, trong đó có ngài Minh Hành Tại Tại là đại đệ tử của Ngài cùng lên thuyền vượt biển bỏ Trung Hoa đến hoằng hoá ở vùng đất Đồng Nai (Việt Nam), Sau đó ra Bình Định, Thuận Hoá, nhưng ở đây không rõ lắm về bước chân của Ngài. Tuy nhiên điều khẳng định Thiền sư có mặt tại Việt Nam là qua bài thơ ở chùa Bụt Mộc có ghi: “Tổ Sư qua Việt Nam vào thời Đại Minh- Trung Quốc và vào thời Lê Trung Hưng-Việt Nam”. Và rồi Thiền sư cùng đệ tử của mình ra Đàng Ngoài. Trên lộ trình tiến ra đất Bắc, Ngài đã dừng chân tại các chùa như Thiên Tường (ở Nghệ An), Trạch Lâm (ở Thanh Hoá). Hiện nay ở chùa Trạch Lâm còn tượng của Thiền sư Minh Hành Tại Tại bằng đồng rất mỹ thuật. Có thể nói trong thời gian hoằng hoá ở Đàng Trong, Thiền sư Chuyết Chuyết ảnh hưởng của phái thiền Trúc Lâm . Năm 1633, niên hiệu Vĩnh Tộ đời Vua Lê Thần Tông, Thiền sư Chuyết Chuyết và đệ tử ra kinh thành Thăng Long (Đông Đô), có mang theo nhiều kinh sách, pháp tượng, pháp khí. Đầu tiên Ngài dừng chân tại chùa Khán Sơn để hoằng dương Phật Pháp, Phật tử đến đông gồm cả người Việt lẫn người.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> Hoa, hoàng tộc vua Lê- chúa Trịnh, các quan tường triều đình… cũng theo thọ giáo rất đông [2. 88]. Một thời gian sau Ngài đến hoằng hoá tại chùa Phật Tích (Vạn Phúc) thuộc trấn Bắc Ninh (cách Đông Đô về hướng Tây Bắc khoảng 26 km). Chùa được hình thành vào đời Lý, ngay từ đầu thế kỷ đầu công nguyên, chùa đã nằm trong địa bàn diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt cổ. Trên cơ sở đó hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của đất nước đó là trung tâm Dâu- Luy Lâu. Từ đó trải qua hai thời Lý- Trần chùa Phật Tích trở thành đại danh lam nổi tiếng của đất nước. Vào thời Trần, có những giai đoạn chùa trở thành trung tâm văn hoá của cả nước như mở khoa thi “Thái học sinh” (tiến sĩ). Chúa Trịnh Tráng, vua Lê Thần Tông, hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và một số vương phi cung tần rất kính trọng đã xin thọ giáo qui y với Ngài và cho trùng tu lại chùa Phật Tích khang trang hơn. Đặc biệt là Chúa Trịnh (Thanh Đô Vương Trịnh Tráng 1623-1657) kính trọng và xem Hoà Thượng Chuyết Công như bậc thầy. Chúa Trịnh có nhờ Hoà thượng cho người về Trung Hoa thỉnh kinh sách, pháp tượng, pháp khí. Và người được Hoà thượng cử đi không ai khác hơn là Thiền sư Minh Hành Tại Tại. Sau khi thỉnh về được tàng trữ ở chùa Phật Tích. Lúc này ở Đàng Ngoài kinh sách được in khắc bằng gỗ rất phổ biến. Cũng ở chùa Phật Tích hoàng Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và con gái là Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên đã xuất gia và có pháp danh là Pháp Tánh và Diệu Tuệ. Năm 1643 Ni sư Pháp Tánh xin với cha là Trịnh Tráng cho trùng tu lại chùa Ninh Phúc (Bút Tháp hoặc Nhạn Tháp). Sau khi trùng tu xong, hoà thượng Chuyết.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> Công được thỉnh về trụ trì còn Ngài Minh Hành thì trụ trì chùa Phật Tích. Hoà thượng trụ trì ở đây cho đến khi ngài viên tịch (7- 1644) thọ 55 tuổi. Sau khi Hoà thượng viên tịch, Vua Lê Chân Tông ban thuỵ hiệu là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”. Thiền sư Minh Hành Tại Tại và đồ chúng lập tháp Báo Nghiêm để an trí nhục thân của Ngài. Đó cũng là lý do tại sao ở chùa Bút Tháp còn có thờ ba tượng của Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ. Không những thế mà ở gian hậu đường của chùa là nhà thờ tổ các đời, trong đó có tổ thứ hai là Minh Hành Tại Tại . Chùa Bút Tháp và chùa Phật Tích, ngày nay được xem là một trong số những ngôi chùa nổi tiếng ở miền Bắc, Tháp Báo Nghiêm ở chùa Bút Tháp là một trong những công trình có giá trị về nghệ thuật. Tháp cao 13m, có 5 tầng, được xây bằng 15 tảng đá lớn nhỏ khác nhau, trong tháp có tượng Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết, bên ngoài có cột đá chạm hình rồng và các bức phù điêu trên các tầng tháp. Thiền sư Minh Hành Tại Tại nhờ cư sĩ Âu Dương Vựng Đăng (nhưng theo sách Lịch sử Phật Giáo Đàng trong thì là cư sĩ Thanh Nguyên) viết bài văn bia gọi là: “Hiển Thoại An Báo Nghiêm Tháp bia minh”(1643) để kể về hành trang của Hoà thượng Chuyết Công. Bài văn viết đã cho biết Hoà thượng Chuyết Công có khí tượng lạ lùng và có tài cảm hoá người, được vua Lê tôn làm bậc thầy và được các bậc công hầu kính trọng. Có đoạn viết: “Tôi học Phật lánh sang nước Nam, có dịp được hội đàm với hoà thượng Chuyết Công tại chùa Khán Sơn ở Thăng Long. Lúc mới gặp ta đã có thể nghĩ ông là.
<span class='text_page_counter'>(42)</span> người khùng! nhưng lâu ngày tôi thấy được ông là một người thông minh, phóng khoáng, trong lòng không vướng bận điều gì cả. Ngài còn có tài ngôn luận, bỡn cợt cả các bậc công khanh, đức độ, trung hậu, kính già yêu trẻ, xem các bậc Thiên tử như bạn thân, khinh tiền của như cỏ rác …” Hoà thượng Chuyết Công có rất nhiều đệ tử đắc pháp, nhưng đặc sắc nhất là hai vị: Minh Hành Tại Tại (người Hoa) và Minh Lương Nguyệt An (người Việt). Các vị này có vai trò quan trọng trong việc phục hưng và phát triển phật giáo ở Đàng Ngoài . Như đã giới thiệu, Thiền sư Chuyết Chuyết thuộc dòng thiền Lâm Tế đời 31, thế nhưng sự truyền thừa của phái Lâm Tế giống phái Trúc Lâm của Viên Cảnh và Viên Khoa. Truyền thừa của Thiền sư Viên Văn sau này dưới thời Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác đã xác nhận rõ ràng là thuộc dòng truyền thừa của Trúc Lâm Yên Tử. Điều này chứng minh hai phái Trúc Lâm và Lâm Tế ở Đàng Ngoài có sự liên hệ với nhau. Hơn nữa vào cuối thế kỷ XVII Thiền sư Chuyết Chuyết cùng hai đệ tử là Minh Hành và Minh Lương (thầy của Chân Nguyên Chánh Giác) đã phối hợp hai dòng thiền Trúc Lâm và Lâm Tế, để rồi phái Thiền Liên Hoa được thành lập gọi là Liên tông hay Liên phái, đến nay vẫn còn có mặt và phát triển ở miền Bắc. Chúng ta có thể thấy sự liên quan mật thiết giữa hai dòng thiền này qua kệ truyền pháp: “Trí tuệ thanh tịnh Đạo đức viên minh.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> Chân như tánh hải Tịch chiếu phổ thông ” Như vậy, với sự truyền thừa của hai phái thiền này có chung bài thuyết pháp của thiền sư Trí Bản Đột Không, thuộc phái Thiền Lâm Tế đời thứ 25 . Đến đời Thiền sư Minh Hành Tại Tại ở chùa Bút Tháp, riêng xuất bài kệ truyền pháp rằng: “Minh chân như tính hải Kinh tường phổ chiếu thông Chí đạo thành chánh quả Giác ngộ chứng chân không ”. Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác, người có công phục hưng môn phái Trúc Lâm cũng là một trong những ngọn đuốc sáng của Phật giáo Đàng Ngoài vào thế kỷ XVII. Thiền sư trụ trì chùa Long Động, chính Ngài và các đệ tử của Ngài đã làm phục hưng môn phái Trúc Lâm. Ngài đã sưu tầm, hiệu đính, khắc bản và lưu hành một số tác phẩm quan trọng của các sư Tổ Trúc Lâm . Thiền sư Chân Nguyên, tên thật là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, Thanh Hà, Hải Dương (1646- 1726). 19 tuổi xuất gia, học với thiền sư Chân Trú ở chùa Hoa Yên được pháp danh là Tuệ Đăng. Sau đó Ngài cùng với Như Niệm là bạn đồng liêu tu hạnh đầu đà và du phương để tham vấn Phật pháp. Một thời gian sau, Ngài Như.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> Niệm về trụ trì chùa Cô Tiên, còn Ngài Tuệ Đăng thì lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham học với Thiền sư Minh Lương và được đặt pháp hiệu là Chân Nguyên. Những công trình để lại của Ngài như: Đài Diệu pháp Liên Hoa tại chùa Vĩnh Phúc, dựng cửu phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm (1648) theokiểu mẫu ở chùa Ninh Phúc mà Ngài Huyền Quang đã dựng.Lúc thọ Bồ Tát giới, Ngài phát nguyện đốt hai ngón tay. Sau đó được truyền y bát của phái thiền Trúc Lâm và làm trụ trì chùa Long Động và Quỳnh Lâm. Vua Lê Hi Tông khâm phục tài đức của Ngài, nên 1692 Vua cho triệu vào cung để tham vấn Phật pháp và ban hiệu là “Vô Thượng Công”. Đến năm 1722 (76 tuổi) vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu là “Chánh Giác Hoà Thượng”. Năm 1726 (80 tuổi) vào tháng 10 Âm lịch, Thiền sư thâu thần thị tịch. Vua cho xây dựng tháp Tịnh Quang tại chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm. Ngài có nhiều đệ tử xuất sắc như: Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn và Như Nhi. Ngài có hai bài kệ truyền pháp. Trong “Kế đăng lục” ghi : “ Hiển tích phân minh thập nhị thì Thử chi tự tích nhậm thì vi Lục căn vận dụng chân thời kiến Vạn pháp tung hoành chính biến tri ”. Một bài khác chép trong: “Ngộ đạo nhân duyên” do ông sáng tác : “ Cùng kim cắng cố bản như như Pháp tính viên đồng xám thái hư Ưng xuất lục căn năng vận dụng.
<span class='text_page_counter'>(45)</span> Tinh thông vạn pháp triệt vô dư ”.
<span class='text_page_counter'>(46)</span> Những sáng tác hiện có của Ngài như : + An Tử sơn Trúc lâm Trần triều thiền tông bản hạnh + Ngộ đạo nhân duyên + Thiền tịch phú Ngoài ra Ngài còn hiệu đính và trùng khắc Thánh đăng lục. b. Khái quát Phật giáo Đàng Trong Giai đoạn đất nước bị chia cắt, Trịnh- Nguyễn hai Đàng phân ranh, chính lúc ấy cả Đàng Ngoài và Đàng Trong Phật giáo đều được phục hưng. Ở Đàng Ngoài với sự phục hưng của các thiền sư: Viên Văn Chuyết Chuyết, Minh Châu Hương Hải, Chân Nguyên Chánh Giác…, ở Đàng Trong có Tổ sư Nguyên Thiều (Lâm Tế), Thiền sư Liễu Quán,… Nói về Ngài Nguyên Thiều (1648-1728), thì có nhiều tài liệu. Nhưng gần nhất là những bài viết tiếng Pháp của ông Emile Gaspardone với nhan đề: “Bonze des Mings réfugiés en Annam”, (Tạp chí Sinologia No I (1949 trang 14-17). Trong bài “ Lapagoda Quốc Ân: Le Fondatrur” (vị khai sơn chùa Quốc Ân) đăng trong tạp chí “Bulletin Des Amis Du Vieu Huế” (BAVH1914. trang 147-161); linh mục Ca Diere viết: “…..vị khai sơn chùa Quốc Ân là một người Trung Hoa, ngài họ Tạ, đạo hiệu là Hoán Bích hay Nguyên Thiều”. Về tài liệu Hán văn có bộ: “Đại Nam Nhất Thống Chí, Duy Tân thứ 3 (1910) (sđd. II. 43b, 44a ; tập III. 41a ; tập IV. 23-24); bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên đời Gia Long ..
<span class='text_page_counter'>(47)</span> Nhưng có một tài liệu không thể không nhắc đến đó là tấm bia đá trùng khắc, do Hoà thượng Liễu Chơn Từ Hiếu, trụ trì chùa Quốc Ân thực hiện, bản này rất trung thành với bản chính hiện ở Tháp của tổ Nguyên Thiều. Bia trùng khắc cách đây đã 100 năm, để ở chùa Quốc Ân . Thật ra về lịch sử của Tổ sư Nguyên Thiều rất khó xác định bởi những sai khác về danh hiệu, niên đại. Đặc biệt là hiện nay ở Huế có hai nơi đáng lưu ý, đó là bia lăng Tháp Ngài và Chùa Quốc Ân . + Bia lăng gắn ở phong đề: “Sắc tứ Quốc Ân đường thượng Lâm Tế huý Nguyên Thiều Thọ Tôn Thuỵ Hạnh Đoan Lão Hoà Thượng Chi Tháp”. + Long vị ở chùa Quốc Ân đề: “Sắc tứ Quốc Ân đường thượng Lâm Tế Chánh Tông tam thập tam thế, huý Nguyên Thiều thượng Thọ hạ Tôn Lão Hoà thượng”. Ngoài ra còn nhiều bản khắc khác như : Ở chùa Viên Thông, phía Tây núi Ngự Bình; Long vị ở chùa Giác LâmSài Gòn; Ngôi tháp ở chùa Kim Cang- Đồng Nai do Nguyễn Hiền Đức tác giả quyển lịch sử Phật Giáo Đàng Trong tìm thấy có ghi: “Quốc Ân Kim Cang đường thượng, tam thập tam thế huý Siêu Bạch Hoán Bích Hoà thượng Tổ sư chi tháp” . Chính vì ở đây người viết là kẻ hậu thế nên cũng chỉ có thể tạm rút ra và phối hợp các vấn đề mà những dữ liệu đã để lại như sau: Tổ sư Nguyên Thiều, huý Siêu Bạch, hiệu là Hoán Bích hay Thọ Tông. Ngài sinh vào 18- 05- Mậu Tý (1648),.
<span class='text_page_counter'>(48)</span> người họ Tạ, quê ở huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, Quảng Đông (Trung Quốc), thuộc phái thiền Lâm Tế đời 33 . Năm 1666 xuất gia ở chùa Báo Tử (Trung Quốc) với Hoà thượng Bổn Quả Khoáng Viên (Bổn Khao). Năm 1677 Thiền sư Nguyên Thiều rời Trung Quốc theo thuyền buôn sang Việt Nam (Bình Định) lập chùa “Thập Tháp Di Đà”. Vào năm 1682, do thiền sư Hương Hải cùng 50 đệ tử thuộc phái thiền Trúc Lâm ra Đàng Ngoài, nên Đàng Trong thiếu Tăng sĩ, vì thế Chúa Nguyễn Phước Tần mời Thiền sư Nguyên Thiều thuộc phái Thiền Lâm Tế từ Qui Nhơn ra Thuận Hoá để hoằng hoá. Ở đây, Thiền sư lập chùa Hà Trung gần cửa biển Tư Dung và chùa Quốc Ân ở Huế. 1683- 1684 lập chùa Vĩnh Ân ở vùng cực nam của làng Phú Xuân. Sau đó, vào khoảng 1687- 1690, Chúa Nguyễn Phúc Trăn nhờ Thiền sư về Trung Quốc thỉnh thêm danh Tăng, kinh sách, pháp tượng, pháp khí sang Đàng Trong. Thiền sư Nguyên Thiều thỉnh được một số danh Tăng sang Đàng Trong như : +Thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Hàm Long (Báo Quốc)- Huế . +Thiền sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm- Phú Xuân (Huế) . + Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung khai sơn chùa Từ Đàm (Huế) . + Hưng Liên- Quả Hoằng, trụ trì chùa Tam Thai trên núi Ngũ Hành ở Quảng Nam. Và một số thiền sư thuộc phái thiền Tào Động của Hoà thượng Thạch Liêm. Chúa Nguyễn Phúc Trăn cho mở giới đàn tại chùa Thiên Mụ và cử tổ sư Nguyên Thiều làm Hoà thượng.
<span class='text_page_counter'>(49)</span> Đường Đầu. Kể từ khi giới đàn này hoàn mãn, phái thiền Lâm Tế bắt đầu được triều đình ưu ái và có thế đứng vững vàng. Trong giới đàn này, một số Thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm trước đây, các Thiền sư từ Trung Quốc sang và những Tăng sĩ trẻ ở Đàng Trong tham dự rất đông đủ. Chính vì thế mà ở Đàng Trong lúc này không còn thấy bóng dáng của phái thiền Trúc Lâm, mà hầu hết là các thiền sư thuộc truyền thừa của Tổ sư Nguyên Thiều (Lâm Tế), và một số ít thuộc phái Tào Động. Vì sự sát nhập của những dòng thiền khác nhau nên phái thiền Lâm Tế không còn là phái thiền Lâm Tế của Trung Hoa mà đã trở thành phái thiền Lâm Tế của Việt Nam. Bởi phái thiền Lâm tế ở Việt Nam kết hợp cả thiền- Tịnh- Mật chứ không như Trung Quốc, phái thiền này sử dụng “Yết bổng” . 1691 Chúa Nguyễn Phúc Trăn mất, con là Nguyễn Phúc Châu lên ngôi, tình hình đất nước lúc này hỗn loạn. Năm 1692-1694 một người Hoa tên Aban (Ngô Lãng) cùng một số tướng sĩ Chiêm Thành nổi lên chống Chúa Nguyễn ở Trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹp. Cũng trong năm 1694, Chưởng Cơ Nguyễn Phước Thông và Nguyễn Phước Huệ âm mưu lật đổ Chúa Nguyễn nhưng thất bại và bị xử tử, cùng lúc đó Quảng Phú (người Hoa ở Qui Nhơn) cùng với Linh (người Việt ở Quảng Ngãi) tự xưng là Linh Vương nổi loạn. Mãi đến năm 1695 triều đình mới dẹp yên. Sau cuộc nổi loạn ấy, Chúa không còn trọng dụng các Thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế nữa mà chuyển sang trọng dụng Thiền sư Hương Liên Quả Hoằng thuộc.
<span class='text_page_counter'>(50)</span> phái Tào Động. Đồng thời Chúa cho người sang Trung Quốc thỉnh Hoà thượng Thạch Liêm sang để hoằng hoá. Chính vì thế mà từ 1694-1728 là khoảng thời gian Tổ sư Nguyên Thiều rời chùa Hà Trung vào ẩn tránh ở vùng Đồng Nai. Từ đó các sử quan triều đình nhà Nguyễn không viết về Ngài Nguyên Thiều nữa cho đến khi Thiền sư viên tịch (1728). Tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử hoằng hoá ở chùa Kim Cang, Đại Giác, Long Thiền (Đồng Nai), chùa núi Châu Thới (Bình Dương) …Sự hoằng hoá của Ngài rất thành công, số lượng tín đồ ngày càng đông, Phật giáo mỗi lúc một phát triển, dần dần rộng xuống đến Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 19-10-1728 (Mậu Thân),Tổ sư Nguyên Thiều cho triệu tập môn đồ tứ chúng, giảng dạy huyền cơ, di chúc mật ngữ, thọ 81 tuổi. “ Tịch tịch cảnh vô ảnh Minh minh châu bất dung Đường đường vật phi vật Liêu liêu không vật không ”. Đồ chúng lập tháp thờ ở sân trước, phía trái chùa Kim Cang ở Đồng Nai Năm 1729, Chúa Nguyễn Phước Trú ban bài Ký minh: “ Sắc Tứ Hà Trung Tự, Hoán Bích Thiền Sư Tháp Ký Minh”. Qua đó chúng ta thấy, Tổ sư Nguyên Thiều gốc người Trung Hoa nhưng suốt cuộc đời hành đạo thì lại ở Đàng Trong của Đại Việt. Tổ tạo được nhiều công đức và ảnh hưởng sâu rộng đối với Phật giáo Đàng Trong. Từ phái Thiền Lâm Tế của Trung Quốc, kết hợp với tinh hoa của phái thiền Trúc Lâm ở Việt Nam tạo.
<span class='text_page_counter'>(51)</span> thành một nét đặc trưng của Thiền tông Việt Nam. Vì thế phái thiền này với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ThiềnTịnh- Mật chứ không còn là thuần tuý “tham công án, hét, bổng” của Thiền Trung Quốc. Nên các thiền sư Việt Nam thường sớm có thần thông như dùng nước lạnh, bùa chú để trị bệnh giúp người. Mặt khác là có khuynh hướng “nhập thế”, vừa tu học vừa hành đạo, Đó chính là nét đặc sắc và khác biệt giữa thiền Việt Nam và thiền Trung Quốc . Trước đây các Thiền sư Việt Nam là thuộc phái thiền Trúc Lâm của Việt Nam, nhưng vì những biến cố chính trị nên ngày nay hầu hết các Thiền sư đều mang danh dòng “Lâm Tế Chánh Tông”. Phật giáo Đàng Trong phát triển mạnh và còn ảnh hưởng sâu rộng đến ngày nay là nhờ các pháp tử, pháp tôn của sư Nguyên Thiều hoằng truyền Phật Pháp với sự có mặt của pháp môn tu tập thiền phái Trúc Lâm. Các vị này có mặt khắp nơi sau một thời gian tu học. Vì vậy Phật giáo thấm sâu vào từng tầng lớp, từng thời kỳ, đặc biệt ở vùng Đồng Nai, Gia Định với những vị như : (1). Thành Đẳng Nguyệt Ân (Minh Lượng) 16861679, sau khi theo học với tổ sư Nguyên Thiều, Ngài về trụ trì chùa Đại Giác ở Cù Lao Phố (Biên Hoà). Ngài cũng đi du hoá khắp nơi và đã khai sơn chùa Vạn Đức (Quảng nam), chùa Bảo Phong (Khánh Hoà). Ngài có đệ tử nổi danh là Phật ý Linh Nhạc. Ngài lập chùa Từ Ân ở huyện Tân Bình và quản trông chùa Khải Tường (quận 3- TP HCM, sau khi phong trào di dân ở phủ Gia Định của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ngài Phật ý Linh Nhạc lại có đệ tử là Tổ Tông Viên Quang. Các đệ tử tổ tông Viên Quang là.
<span class='text_page_counter'>(52)</span> Tiên Giác Hải Tịnh, (Tế Giác Quảng Châu ),Tiên Tuệ Tịnh Nhãn, Tổ Đạt Trí Tâm, Tổ ấn Mật Hoằng. (2). Thiền sư Minh Vật Nhất Tri (?-1786). Ngài kế thế tổ sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang. Ngài có những vị đệ tử xuất sắc hoằng hoá ở Đồng Nai như: Minh Vật Nhất Tri, Thiệt Thoại Tánh Tường, Phật Trí Đức Hạnh, Thiệt Thành Liễu Đạt, (Liên Hoa). Ngài Liễu Đạt có những đệ tử như: Tế Tín Chánh Trực, Tế Chánh Bổn Giác, Tế Bổn Viên Thường, Tế Triệt Giác Nguyên. (3). Thiền sư Thành Nhạc ẩn Sơn. Ngài hoằng hoá vùng núi Châu Thới (Bình Dương), Chùa Long Thiền (Biên Hoà). Ngài có những đệ tử như: Phật Chiếu Linh Quang, đã khai sơn chùa Phước Tường ở Thủ Đức . (4). Thiền sư Thành Chí Pháp Thông. Ngài hoằng hoá chùa Hưng Long, Hoàng Long và Bửu Long (trên núi Bửu Long) ở Biên Hoà . Ngoài ra Tổ sư Nguyên Thiều còn có những pháp tử, pháp tôn hoằng hoá các nơi như : + Thiền sư Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744) với các đệ tử của mình là: Thiện Kiến Liễu Triệt (chùa Thập Tháp- Bình Định); Phật Tĩnh Từ Nghiêm ( chùa Hưng Long ), và các đệ tử hoằng hoá ở miền Tây Nam bộ . + Thiền sư Minh Hằng Định Nhiên, Thiệt Tánh Trí Hải hoằng hoá ở chùa Quốc Ân (Huế).
<span class='text_page_counter'>(53)</span> + Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670-1754) khai sơn chùa Chúc Thánh (Hội An- Quảng Nam), chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi). + Hoà Thượng Hoàng Long hoằng hoá ở chùa Hà Tiên . Nhìn chung, Tổ sư Nguyên Thiều đóng góp rất nhiều trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong . 4. Đạo giáo… Cùng với sự hưng khởi của đạo Phật là sự phát triển của đạo giáo. Khác với đạo Phật, đạo giáo phát triển khá mạnh ở thời Lê sơ. Thời kỳ này nhiều quán Đạo đã được xây dựng, thậm chí ông vua tiêu biểu của nhà Lê sơ: Lê Thánh Tông, người đưa vị trí Nho giáo lên tột đỉnh, vẫn “mơ” gặp Tiên và mong nhớ đến ,mức cho xây lầu Vọng Tiên. Nhiều vua nhà Lê cũng tin vào pháp thuật nên dùng thuật sĩ. Chính vì vậy, đến thời nhà Mạc, Đạo giáo lại càng phát triển. Có thể coi đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của Đạo giáo Việt Nam. Sự xuất hiện của Tiên Chúa Liễu Hạnh – người được suy tôn lên hàng giáo chủ - “mẫu nghi thiên hạ”. theo Nguyễn Duy Hinh, Đạo giáo thế kỷ XVI không đứng đơn độc một mình mà “ chui vào Nho giáo và Phật giáo” thành hai nhánh: Đạo giáo sĩ tộc với đại diện là Nguyễn Bỉnh Khiêm, đạo giáo dân gian với Liễu Hạnh và Nội Đạo Tràng (Trần Toàn) Nội Đạo tràng là hiện tượng Đạo giáo trộn lẫn Phật giáo, Nho giáo. Giáo chủ của tôn giáo này – Trần Toàn xuất thân tù gia đình Nho giáo, thi cử đỗ đạt rồi theo Phật.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> giáo. Nội Đạo Tràng tôn thờ Dược Sư Phật, Tứ kim cương, niệm A Di Đà (Phật giáo), dùng pháp thuật để chữa bệnh cho Lê Thần Tông (Đạo giáo). Có thể coi Nội Đạo Tràng là Đạo giáo thuộc phái Phù Trú – thứ tín ngưỡng rất được dân gian ưa thích trong hoàn cảnh nội chiến triền miên, đời sống bấp bênh. Chính vì thế, Nội Đạo Tràng chỉ phát triển mạnh ở vùng Thanh Hóa, Ninh Bình, nơi giáp ranh hai thế lực: Nhà Mạc phía Bắc và Lê – Trịnh phía Nam. Đây là nguyên nhân Đạo quán được xây dựng không nhiều và nếu có thì sau này cũng biến thành chùa. Liễu Hạnh xuất hiện đưa đến sự ra đời của đạo Mẫu ở Việt Nam. Cho đến nay, tư liệu về người khai lập ra tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn chỉ là truyền thuyết. Theo truyền thuyết, Liễu Hạnh vốn là tiên dáng trần 3 lần và trở thành Thánh Mẫu, đứng đầu đạo Mẫu. Ngày nay, Liễu Hạnh, một vị thần chủ không những có đền thờ riêng ở Vụ Bản (Nam Định), Sòng Sơn, Phố Cát (Thanh Hóa), Tây Hồ.mà còn có cung thờ (Nhà Mẫu, theo cách gọi của tín đồ) ở hầu khắp các chùa miền Bắc trừ chùa Quán Sứ (Hà Nội). Sự xuất hiện của thần chủ đạo Mẫu là tự do tín ngưỡng của thời nhà Mạc. Nếu nhà Mạc không tôn trọng phụ nữ và cho phép người dân tin vào Ai được thờ Người đó thì liệu có Liễu Hạnh được không? Bởi từ nhà Lê đến nhà Nguyễn sau này đều lấy Nho giáo làm tư tưởng chính thống, việc tôn vinh phụ nữ khó được chấp nhận. Tôn vinh nữ thần Liễu Hạnh là một đòn giáng mạnh vào tư tưởng Nho giáo. Vì thế, có thể coi thần chủ Liễu Hạnh là biểu tượng cho sự vươn lên của dân tộc nhằm.
<span class='text_page_counter'>(55)</span> khẳng định nền độc lập của mình với sự khác biệt văn hóa trước quốc gia bá quyền Trung Quốc. Có thể xem hiện tượng đạo Mẫu và Nội Đạo Tràng là sự trỗi dậy của tín ngưỡng dân tộc sau một thời gian dài bị đè nén bởi các triều đại phong kiến do sùng ngoại, đề cao tôn giáo ngoại nhập. Đây là đóng góp độc đáo của nhà Mạc trong lĩnh vực tinh thần: Tôn giáo tín ngưỡng. Cho nên, cần ghi nhận tư tưởng tự do tôn giáo của nhà Mạc là góp phần lấy lại và tô đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Vào thế kỷ 18, dưới đời vua Lê Thần Tông, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có tên Nội Đạo. Người sáng lập là Trần Toàn quê ở Thanh Hóa, đạo có đến 10 vạn tín đồ và Trần Toàn được coi là Thượng sư. Tương truyền, vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp, Trần Toàn dùng thần chú mà chữa khỏi. Phái đạo này phát triển từ Thanh Hóa vào đến Nghệ An rồi lan ra Bắc đến tận Hà Nội. Khoảng đầu những năm 1920, hàng vạn tín đồ còn tập hợp ở Giảng Võ, Hà Nội để cúng lễ và chữa bệnh..
<span class='text_page_counter'>(56)</span>