Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

SKKN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.72 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH. TRƯỜNG TIỂU HỌC NHỊ MỸ I. -------- -------. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Ph¸t huy tÝnh tÝch cùc cña c¸c ph¬ng ph¸p d¹y ph©n m«n TËp lµm v¨n líp 4.  Người thực hiện:. NguyÔn Thanh L©m. Chức vụ: Gi¸o viªn. Năm học: 2011 - 2012. MỤC LỤC.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> A. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. I-/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI II-/ MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu 2. Phương pháp nghiên cứu III-/ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI IV-/ KẾ HOẠCH THỰC HIỆN B. PHẦN NỘI DUNG. 1. I-/ CƠ SỞ LÝ LUẬN II-/ CƠ SỞ THỰC TIỄN III-/ THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN IV-/ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Phương pháp gợi mở vấn đáp 2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ 3. Phương pháp rèn luyện theo mẫu 4. Phương pháp đóng vai 5. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề 6. Phương pháp thực hành giao tiếp 7. Phương pháp trực quan V-/ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG C. KẾT LUẬN I-/ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC. 4. II-/ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG III-/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN IV-/ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ. 13. A/ PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chon đề tài:. 2 2 2 2 3. 4 4 5 5 5 6 7 8 9 10 12 12 13. 13 13 14.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công giảng dạy lớp 4/1. Qua khảo sát phân môn Tập làm văn đầu năm, kết quả cho thấy đa phần các em viết văn chưa thành câu, sử dụng các từ khó hiểu. Nhưng chỉ tiêu của Trường đặt ra cuối năm học sinh đủ điều kiện lên lớp 100 %. Tuy nhiên học sinh ở đây còn thiếu sự bảo ban của gia đình phần lớn các em thường phụ giúp cha mẹ theo mùa, chữ viết không đúng mẫu, kinh tế gia đình gặp khó khăn. Một ít phụ huynh không giúp đỡ các em cách học tập lúc ở nhà. - Trong chương trình học Tiểu học, bốn kĩ năng quan trọng nhất của bộ môn Tiếng Việt: nghe, đọc, nói, viết. Trong đó kĩ năng viết là kĩ năng quan trọng nhất và cũng khó rèn luyện cho học sinh nhất. Để rèn kĩ năng viết cho học sinh, người dạy phải dạy tốt các phân môn như chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4 nhiều giáo viên còn ngán ngại. Bởi lẽ, học sinh viết được những bài văn không chỉ đáp ứng yêu cầu của đề bài mà phải sâu sắc, sáng tạo, mang dáng dấp những sáng tác nhỏ hấp dẫn, có khả năng lôi cuốn người nghe, người đọc, cùng rung cảm, cùng ước mơ. Để viết đẹp và viết đúng, người thầy phải chú trọng rèn kĩ năng chính tả. Muốn dạy cho học sinh viết đúng và hay thì chú ý dạy tốt hai phân môn là Luyện từ và câu, Tập làm văn. Trong hai phân môn này, nhiều giáo viên cho rằng Tập làm văn là môn khó dạy nhất, khó rèn kĩ năng cho học sinh nhất vì đòi hỏi học sinh phải có năng khiếu mới viết văn hay được. Nội dung bồi dưỡng làm văn nhằm trau dồi vốn sống, vốn văn chương, nâng cao năng lực cảm nhận và diễn tả ở học sinh. Học sinh luyện viết văn theo kiểu bài đã học. Các kiểu bài cơ bản ở Tiểu học là kể chuyện, miêu tả, viết thư. Tất cả đều có thể rèn luyện được nếu chúng ta có biện pháp và cách thức giảng dạy cho phù hợp. Vì vậy tôi bắt tay ngay vào việc nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm: Phát huy tính tích cực của “ các phương pháp” dạy môn tập làm văn lớp 4.. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1/ Mục đích nghiên cứu..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Trên cơ sở nghiên cứu các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 4 của Trường Tiểu học Nhị Mỹ I những năm qua. Đề xuất một số giải pháp thực hiện việc sử dụng các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục trong nhà trường. Tìm ra nguyên nhân mà các em còn vướng phải trong tiết Tập làm văn. Phát hiện sửa chữa kịp thời để học sinh khắc phục trong lối viết văn nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4/1. 2/ Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp xem tài liệu: + Tài liệu đổi mới phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn. (Thế giới trong ta) + Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội + Các bài văn hay của học sinh những năm qua. - Phương pháp quan sát: + Quan sát việc học tập các em trong tiết học phân môn Tập làm văn. + Quan sát tiết dạy phân môn Tập làm văn của giáo viên. - Phương pháp phỏng vấn: + Đối với học sinh đặt các câu hỏi về vấn đề học phân môn Tập làm văn. + Đối với giáo viên đặt một số câu hỏi về sử dụng các phương pháp dạy phân môn Tập làm văn. III. Giới hạn của đề tài. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 4/1.. IV. Kế hoạch thực hiện. Áp dụng vào các phương pháp giảng dạy một số bài thuộc thể loại sau:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> TT. Thể loại. Tên bài - Nhân vật trong truyện - Luyện tập xây dựng đoạn văn kể chuyện. 1 2. Tuần 1 6. Kể chuyện. - Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân. Miêu tả. - Nhân vật trong truyện - Thế nào là miêu tả ?. 9 14. - Quan sát đồ vật. 15. B/ PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận. Đổi mới phương pháp dạy học là: Đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy mà giáo viên khi dạy phân môn Tập làm văn, phải coi trọng yếu tố thực hành nói và viết trong suốt quá trình dạy (chú trọng luyện nói). Nghĩa là, dạy cho học sinh kĩ năng trình bày văn bản. Mỗi tiết dạy phải giảm sự giảng giải của giáo viên, tăng thời gian hoạt động cho học sinh (đặc biệt là hoạt động giao tiếp). Dạy Tập làm văn phải giúp cho học sinh sản sinh văn bản có cảm xúc, chân thực thì khi nói và viết mới thuyết phục được người nghe, người đọc. II. Cơ sở thực tiển. + Ở tiểu học, các em học chủ yếu các kiểu bài tập Tập làm văn thuộc thể loại: Kể chuyện, miêu tả, viết thư. Đây là thể loại văn thuộc phong cách nghệ thuật nên đòi hỏi bài nói, bài viết phải giàu cảm xúc, phải có cái “ hồn ”. Do vậy, giáo viên phải luôn luôn tạo cho các em có tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, tấm lòng nhân hậu qua việc chiếm lĩnh kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hóa, tự nhiên và xã hội ở cả 9 môn học. + Mặc khác, mỗi bài Tập làm văn đòi hỏi phải có tính chân thực: Chân thực khi kể chuyện, khi viết thư, khi miêu tả… Muốn vậy, giáo viên phải uốn nắn học sinh tránh (lối nói và viết, giả tạo, già trước tuổi…) biểu hiện là sao chép văn mẫu mà cần nhẹ nhàng chỉ cho học sinh những thiếu sót và hướng cho các em cách sửa, cách làm bài phù hợp với tâm lý lứa tuổi..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> III/ Thực trạng và những mâu thuẩn. - Việc dạy học của các giáo viên trong các tiết Tập làm văn còn vướng mắc các hạn chế sau : * Tổ chức các hình thức học tập để khai thác kiến thức môn học nhằm giúp học sinh lĩnh hội được cách viết văn theo kiểu bài còn hạn chế. * Học sinh chưa thấy được mối liên kết giữa các kiểu bài , sự hỗ trợ lẫn nhau của các dạng bài được học để viết một bài văn hay. * Các em còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, chưa biết phát huy óc tưởng tượng, trí sáng tạo trong bài văn của mình. IV/ Các giải pháp thực hiện: 1. Phương pháp gợi mở vấn đáp. - Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đặt ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng học sinh tư duy từng bước một để các em tự tìm ta kiến thức mới phải học. Phương pháp này tăng cường khả năng suy nghĩ, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài của học sinh. Giúp học sinh hình thành khả năng tự tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn và còn biết chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm. Yêu cầu: Giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung bài học. Những câu đặt ra phải rõ ràng, dể hiểu và phù hợp mọi đối tượng trong lớp và dành thời gian cho học sinh suy nghĩ. Sau đó trả lời ( tự nguyện hoặc gọi ). Các học sinh khác bổ sung, giáo viên chốt lại kiến thức. Ví dụ: Dạy tiết Tập làm văn Nhân vật trong truyện ” (Tuần 1 ). Nhận xét 1: Ghi tên các nhân vật trong những truyện mà em mới học vào nhóm thích hợp. a - Nhân vật là người . b - Nhân vật là vật ( con vật, đồ vật, cây cối, …) Giáo viên dành thời gian để học sinh nhớ lại và phân tích. Sau khi cho học sinh phân tích yêu cầu, giáo viên đặt câu hỏi: + Các em vừa học những câu chuyện nào ? ( Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, Sự tích hồ Ba Bể )..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> + Nêu những nhân vật là người ? ( Hai mẹ con bà nông dân, bà cụ ăn xin, những người dự ). + Nêu nhân vật là vật ? (Dế Mèn, Nhà Trò, bọn nhện, giao long ). + Để những con vật trở thành nhân vật trong truyện, ta dùng biện pháp nghệ thuật gì ? ( nhân hóa ). + Nhân vật trong truyện có thể là ai ? (Nhân vật trong truyện có thể là người, con vật, đồ vật, cây cối,… được nhân hóa ). 2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ. - Đây là phương pháp dạy học, học sinh được tổ chức và hướng dẫn của giáo viên để quan sát và phân tích theo định hướng của bài học từ đó rút ra nội dung bài học hoặc thực hành cần ghi nhớ. Yêu cầu : Giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh tự phát hiện và chữa lỗi ( nói đúng, viết đúng ). Ví dụ : Học sinh làm bài tập 2: Luyện tập xây dựng đoạn văn kể chuyện theo tranh: Lần thứ ba, cụ già vớt lên lưỡi rìu bằng sắt và hỏi: Lưỡi rìu này có phải của con không ? Chàng trai nói: Đây mới chính là lưỡi rìu của cháu. Học sinh có thể làm như sau: + Thay từ “ nói ” bằng cụm từ “ mừng rỡ reo lên” Lần thứ ba, cụ già vớt lên lưỡi rìu bằng sắt và hỏi: Lưỡi rìu này có phải của con không ? Chàng trai mừng rỡ reo lên: Đây mới chính là lưỡi rìu của cháu. + Cách xưng hô của chàng trai “ cháu” mà bạn sử dụng là chưa hợp lý, vì cụ già gọi chàng trai là con. Đoạn văn trên nên sử dụng như sau: Lần thứ ba, cụ già vớt lên lưỡi rìu bằng sắt và hỏi: Lưỡi rìu này có phải của con không ? Chàng trai vui mừng reo lên: Đây mới chính là lưỡi rìu của con. 3. Phương pháp rèn luyện theo mẫu. - Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể về lời nói hoặc mô hình lời nói ( cũng có thể cùng học sinh xây dựng mẫu lời nói ) để thông qua đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu và đồng thời tạo ra mẫu. Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là học sinh trung bình và yếu..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Yêu cầu: Để giúp học sinh làm những bài tập, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phân tích các vật liệu mẫu để hình thành kiến thức ( giáo viên có thể làm mẫu một phần ). Sau khi làm mẫu, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát mẫu và nghĩ ra các phần tương tự còn lại. Ví dụ: ( Tuần 14 ) Tập làm văn “ Thế nào là miêu tả” Viết vào vở những điều em hình dung được về sự vật trên theo lời miêu tả.. TT Tên sự vật Hình dáng Màu sắc Chuyển động M1 Cây sòi Cao lớn Lá đỏ chói lọi Lá rập rình lay động 2. Âm thanh. Giáo viên hướng dẫn sau: - Bước 1: Học sinh đọc yêu cầu – đọc thầm mẫu. - Bước 2: Phân tích mẫu. Em hãy quan sát mẫu và cho biết: + Tên sự vật đầu tiên được miêu tả là gì ? ( cây sòi ) + Cây sòi có đặc điểm gì nổi bật ? ( cao lớn, lá đỏ chói lọi, lá rập rình lay động như những đốm lửa đỏ ) + “ Cao lớn” tả về đặc điểm gì của cây sòi ? ( hình dáng ) + “ Lá đỏ chói lọi” miêu tả đặc điểm gì ? ( màu sắc ) + Theo em tác giả miêu tả lá của cây sòi đang ở trạng thái nào ?(chuyển động ) - Bước 3: Học sinh nhận xét – dựa theo mẫu làm các phần còn lại TT. Tên sự vật Hình dáng Cây sòi Cao lớn. Màu sắc Lá đỏ chói lọi. Chuyển động Âm thanh Lá rập rình lay động. 1. như những đốm lửa. 2. đỏ Lá rập rình lay động. 3. Cây cơm. Lá vàng rực rỡ. nguội. như những đốm lửa. Lạch nước. vàng Trườn lên mấy tảng Róc rách đá, luồn dưới mấy gốc chảy. cây ẩm mục - Bước 4: Học sinh trình bày – Học sinh nhận xét – Giáo viên nhận xét.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Có bài, không có mẫu sẵn như trong sách giáo khoa. Do vậy giáo viên cùng học sinh xây dựng để các em thực hiện tốt các phần còn lại. 4. Phương pháp đóng vai. - Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giáo dục nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được. Cụ thể hóa bài học bằng sự diễn xuất để phân tích nội dung bài học. Làm giờ học sinh động, học sinh dể nắm được nội dung bài học. Yêu cầu: Giáo viên phải dành thời gian nhất định cho học sinh thảo luận và phân vai kịch bản. Bước 1: Phân tích yêu cầu của đề bài Bước 2: Học sinh đọc gợi ý Bước 3: Học sinh nhận thảo luận nhóm ( thống nhất nội dung, vai diễn ) Bước 4: Học sinh đóng vai trình bày trước lớp (cả lớp nghe, nhận xét, giáo viên nhận xét ). Ví dụ: Dạy tiết Tập làm văn “ Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân” (Tuần 9) Em có nguyện vọng học bồi dưỡng thêm một môn năng khiếu ( họa, nhạc, võ thuật, …). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh ( chị ) hiểu và ủng hộ nguyện vọng của em. Hãy cùng bạn đóng vai em và anh ( chị ) để thực hiện cuộc trao đổi. Bước 1: Phân tích yêu cầu của đề bài. Bước 2: Học sinh đọc gợi ý. Bước 3: Học sinh nhận thảo luận nhóm ( thống nhất nội dung, vai diễn ) Bước 4: Học sinh đóng vai trình bày trước lớp (cả lớp nghe, nhận xét, giáo viên nhận xét ). Ví dụ: Bài làm của học sinh. Em: Anh ơi, trường em có mở lớp dạy võ thuật. Em muốn đi học, anh ủng hộ em nhé ! Anh (kêu lên): Trời ! Con gái sao lại học võ ? Em phải học nấu ăn hay đàn hay hơn. Học võ anh không ủng hộ em đâu. Em: Em học võ là để tự vệ khỏi bị ai bắt nạt. Sau này em muốn thành cảnh sát tài giỏi..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Anh: Nhưng anh thấy con gái mà học võ thì sao ấy. Thôi, em đi học đàn đi. Em: Anh ơi, em giỏi võ như chị Thúy Hiền ! Anh thường khen chị Thúy Hiền mà . Anh : Thôi được tối nay anh sẽ thưa với ba mẹ. Em: Đúng là anh trai tốt của em ! 5. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. - Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là giáo viên đưa ra tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó tạo tri thức, rèn kỹ năng để đạt được mục đích học tập. Tăng sự hiểu biết và áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề, tình huống cụ thể và khả năng hợp tác trong giải quyết vấn đề. Ví dụ: Tiết Tập làm văn “ Nhân vật trong truyện” Bài tập 2: Phần luyện tập Cho tình huống sau: Một bạn nhỏ mải vui đùa, chạy nhảy, lỡ làm ngã một em bé. Em bé khóc. Em hãy hình dung sự việc và kể tiếp câu chuyện theo một trong hai hướng sau đây: a) Bạn nhỏ nói trên biết quan tâm đến người khác. b) Bạn nhỏ nói trên không biết quan tâm đến người khác. Học sinh làm bài như sau: + Giờ ra chơi, Giang rủ tôi ra sân nhảy dây, các em học lớp một quây quanh xem rất đông. Đang chơi vui vẻ thì tôi nghe thấy tiếng khóc của một bé gái. Thì ra không may Giang đã quật dây vào làm em bé ngã. Giang vội chạy tới xin lỗi em và dìu em ngồi lên ghế đá, dỗ em bé nín. + Giờ ra chơi, Tài và Đức cùng chơi trò đuổi bắt. Mải chơi nên khi chạy Tài đã va phải một em bé, làm em ngã. Tài không đỡ em dậy mà nói: Tại em va phải anh chứ ! – Nói rồi Tài chạy tiếp. 6. Phương pháp thực hành giao tiếp. - Phương pháp thực hành giao tiếp là phương pháp dạy học bằng cách sắp xếp tài liệu ngôn ngữ sao cho vừa bảo đảm tính chính xác, chặt chẽ trong hệ thống ngôn ngữ, phản ánh được đặc điểm chức năng trong hoạt động giao tiếp. Tận dụng vốn hiểu biết về ngôn ngữ nói của học sinh, để học sinh cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong tiếp thu kiến thức mới và rèn kỹ năng học tập. Học sinh tự tin đưa ra ý kiến của mình..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Yêu cầu: Khi sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp, giáo viên phải tạo điều kiện tối đa để học sinh được giao tiếp ( giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giao tiếp giữa học sinh với học sinh). Thông qua giao tiếp giáo viên cho học sinh nhận thấy cái đúng, cái sai để bổ sung hoặc sửa chữa nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả giao tiếp. Ngoài ra giáo viên cần tạo không khí lớp học vui, thoải mái để học sinh có kỹ năng giao tiếp tự nhiên, tự tin. Ví dụ: Dạy tiết Tập làm văn “ Thế nào là miêu tả ?” ( Tuần 14 ) Bài tập 2: Em thích những hình ảnh nào trong đoạn trích dưới đây ? Hãy viết 1, 2 câu miêu tả một trong những hình ảnh đó. Mưa ( Trích ). Chớp. Ngọn mùng tơi. Mù trắng nước. Rạch ngang trời. Mưa. Mưa chéo mặt sân. Khô khốc. Mưa. Sủi bọt. Sấm. Ù ù như xay lúa. Cóc nhảy chồm chồm. Ghé xuống sân. Lộp bộp. Chó sủa. Khanh khách cười. Rơi. Cây lá hả hê. Cây dừa. Rơi…. Bố em đi cày về. Sải tay. Đất trời. Đội sấm. Bơi .. Đội chớp. Đội cả trời mưa… Một vài học sinh đã viết những câu văn miêu tả một trong những hình ảnh của đoạn trích “ Mưa” như sau: + Anh chớp đùng đùng nổi giận rạch ngang bầu trời bằng một nhác kiếm chói lòa. Rồi cả góc trời sáng chói lên làm em giật mình. + Mưa mỗi lúc một năng hạt, gió thổi càng mạnh hơn, những hạt mưa đan chéo nhau tạo lên những hàng rào nước kín cả mặt sân. Mặt sân ngập nước, sủi bọt tạo thành những cái bong bóng to nhỏ khác nhau. Qua bài làm của học sinh, giáo viên cho các em nhận xét, so sánh tìm ra cái hay, sửa chữa chỗ chưa được. Đó chính là tạo cho các em giao tiếp với nhau..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 7. Phương pháp trực quan. - Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên sử dụng các phương tiện trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu nhận kiến thức, rèn kỹ năng theo mục tiêu bài học một cách thuận lợi. Thu hút sự chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ bài tốt hơn. Học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện những mối liên hệ kiến thức dể dàng hơn. Yêu cầu: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát ( bằng nhiều giác quan ) để học sinh hiểu và cảm nhận về đối tượng cần quan sát. Hướng dẫn quan sát từ bao quát đến chi tiết, từ tổng thể đến bộ phận. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đưa đồ dùng trực quan đúng lúc, đúng chỗ học sinh có thể quan sát tránh lạm dụng. Ví dụ: Dạy bài tập làm văn “ Quan sát đồ vật” Giáo viên cho học sinh quan sát đồ chơi đã mang tới lớp. Qua trực quan học sinh biết tả bao quát, tả từng bộ phận và nêu được từng đặc điểm nổi bậc của thứ đồ chơi mà học sinh cần miêu tả. * Trên đây là một số phương pháp mà tôi đã sử dụng trong tiết dạy Tập làm văn lớp 4 từ đầu năm đến nay. V/ Hiệu quả áp dụng. Sau khi thực nghiệm trong năm học này cho thấy bài tập làm văn ở lớp. Kết quả học tập phân môn này có chiều hướng phát triển. Qua các lần kiểm tra định kì cho thấy điểm của bài văn viết đã tiến bộ rõ rệt. Nhiều em đã biết vận dụng khá tốt những kiến thức được học vào bài viết của mình .. Đầu năm Giữa HK 1 Cuối HK1. Điểm Số bài Tỉ lệ Số bài Tỉ lệ Số bài Tỉ lệ. Giỏi 3 8,82% 9 26,47% 9 26,47%. Khá 7 20,58% 10 29,41% 10 29,41%. C/ KẾT LUẬN. Trung bình 12 35,30% 8 23,53% 10 29,41%. Yếu 12 35,30% 7 20,59% 5 14,71%.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> I/ Ý nghĩa của đề tài. Đề tài góp phần làm rõ về mặt lí luận: Việc đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học nói chung, ở phân môn Tập làm văn lớp 4 nói riêng là phát huy tính tích cực học tập của học sinh đòi hỏi mỗi người giáo viên vận dụng những phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học như thế nào tạo điều kiện cho học sinh được thể hiện mình. Khích lệ vai trò giao tiếp của các em, tăng cường khả năng thực hành ngôn ngữ để các em biết diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc của mình bằng lời nói. Bài viết một cách mạch lạc, rõ ràng. Đó chính là hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp dạy học. Đề tài đóng góp việc sử dụng các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 4. II/ Khả năng áp dụng: - Bản thân tâm đắc nhất nhất khi sử dụng phương pháp: phương pháp thực hành giao tiếp, cùng với phương pháp luyện tập theo mẫu, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. Bởi học sinh có thể tự tạo lập được lời nói thực sự của mình khi các em đặt vào tình huống cụ thể. Các em luôn suy nghĩ, tình cảm, thái độ của mình trước tình huống sự việc nào đó. III/ Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tôi xác định mình cần làm như sau: - Nghiên cứu và tìm những bài văn hay từ các năm qua. - Theo dõi kết quả học tập của phân môn luyện từ và câu, chính tả. - So sánh và đối chiếu kết quả ban đầu. - Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Đề xuất giải pháp phát huy các thuận lợi, khắc phục những khó khăn để giảng dạy phân môn Tập làm văn có hiệu quả, nâng cao chất lượng dạy – học ở đơn vị. - Trong việc học tập chuyên môn, về mảng kiến thức của phân môn Tập làm văn, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau đây :  Phải tập trung nghiên cứu chuyên sâu nội dung bài dạy. . Kiểm tra đánh giá để kịp thời, phát hiện sai sót hoặc bổ sung uốn nắn những thiếu. sót trong công tác giảng dạy .  Rèn kĩ năng nói cùng với kĩ năng viết cho học sinh và tiến hành đồng thời 2 hoạt động : nói trước, viết sau. Khi học sinh nói, cả lớp nghe và sửa chữa bổ sung cho bạn,.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> nghĩa là các em đã được học 1 lần, sau đó các em viết lại nghĩa là học lần thứ hai. Cách dạy này sẽ củng cố kĩ năng một cách có hiệu quả nhất, đặc biệt trong dạy học tập làm văn lớp 4. IV/ Đề xuất, kiến nghị . Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy Tập làm văn lớp 4. Tôi nhận thấy để khắc phục những hạn chế, cần phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Bản thân mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy Tập làm văn để nâng cao hiệu quả học tập của học sinh như:. a. Phương pháp gợi mở vấn đáp b. Phương pháp phân tích ngôn ngữ c. Phương pháp rèn luyện theo mẫu d. Phương pháp đóng vai e. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề f. Phương pháp thực hành giao tiếp g. Phương pháp trực quan Trên đây là các phương pháp nghiên cứu trong phân môn Tập làm văn. Sau khi áp dụng tôi thấy học sinh lớp mình đạt kết quả cao và yêu thích học phân môn Tập làm văn hơn . Rất mong sự đóng góp và chia sẻ thêm của các quý đồng nghiệp. Xin chân thành cám ơn !. * NHẬN XÉT CỦA TỔ …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………. Nhị Mỹ, ngày 01 tháng 3 năm 2012 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG. Nguyễn Thanh Lâm.

<span class='text_page_counter'>(15)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×