Tải bản đầy đủ (.doc) (200 trang)

Tổng hợp 100 bài văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.54 KB, 200 trang )

100 đề và bài ngữ văn lớp 9
đề số 1
Theo em, Phong cách Hồ Chí Minh có phải là một văn bản thuyết
minh không ? Vì sao ?
Dàn ý
I. Mở bài
- Phong cách Hồ Chí Minh vận dụng kết hợp nhiều phơng thức
biểu đạt, trong đó thuyết minh là phơng thức biểu đạt chính.
- Bài viết giúp ngời đọc hiểu đợc phong cách Hồ Chí Minh là sự
kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân
loại, thanh cao và giản dị.
II. Thân bài
Tính chất thuyết minh của Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện ở
những khía cạnh sau :
1. Đối tợng thuyết minh của bài là một vấn đề trừu tợng: phong
cách của Bác Hồ. Vẻ đẹp trong phong cách của Bác đợc trình bày
rõ trên hai phơng diện cơ bản :
a) Bác luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để
tạo nên một nhân cách, một lối sống rất Việt Nam, rất phơng Đông
nhng cũng rất mới, rất hiện đại.
b) Bác có lối sống vô cùng giản dị nhng lại rất thanh cao, tiêu
biểu cho nét đẹp trong lối sống của dân tộc Việt Nam.
2. Phong cách Hồ Chí Minh đợc trình bày, giới thiệu một cách
chính xác, khách quan bằng những dẫn chứng, t liệu cụ thể, xác
thực, không phải do h cấu, do tởng tợng mà ra.
3. Bài viết đà sử dụng các phơng pháp của văn bản thuyết minh
nh : phơng pháp phân loại, phân tích (các khía cạnh, các phơng
diện, các biểu hiện của vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh về
văn hoá, lối sống...); phơng pháp liệt kê (những nơi Bác đà qua nh
châu Phi, châu á, châu Mĩ, châu Âu; những ngoại ngữ mà Ngời
thành thạo (tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga...); phơng pháp so sánh (lối


sống giảng dị của Bác với các vị hiền triết Nguyễn TrÃi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm)...
4. Bài viết có sử dụng các yếu tố nghệ thuật nh kể chuyện,
bình luận, nghệ thuật đối lập, văn viết có cảm xúc, nhng tất cả
những yếu tố này chỉ có vai trò phụ trợ. Nội dung giá trị cơ bản
của văn bản này vẫn là những tri thức xác thực, khách quan về
phong cách Hồ Chí Minh.
III. Kết bài
- Phong cách Hồ Chí Minh là một văn bản nhật dụng, thuyết
minh là một trong những phơng thức biểu đạt chính.
- Bài viết đà giúp ngời đọc hiểu đợc vẻ đẹp phong cách Bác Hồ
là sự kết hợp hài hoà giữa bản sắc văn hoá dân tộc và tinh hoa văn
-1-


hoá nhân loại, là sự giản dị một cách thanh cao.
- Bài viết làm cho chúng ta thêm tự hào, kính yêu Bác, khơi gợi ở
chúng ta ý nguyện học tập, tu dỡng, rèn luyện theo gơng của Bác.
đề số 2
Dựa vào văn bản Phong cách Hồ Chí Minh, kênh hình trang 6
(Ngữ văn 9 - Tập I) và những hiểu biết của em, em hÃy viết một
văn bản thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật để giới
thiệu về nơi ở và làm việc của Bác tại phủ Chủ tịch.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
- Yêu cầu : Thuyết minh, miêu tả, giới thiệu nơi ở và làm việc
của Bác, chủ yếu là ngôi nhà sàn nơi Bác ở.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Nếu có dịp đợc đến Hà Nội, vào lăng viếng Bác, bạn hÃy đừng

quên viếng thăm ngôi nhà sàn đơn sơ nhỏ bé, nơi vị lÃnh tụ kính
yêu của chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đà từng sống và làm việc
nhiều năm ở đó.
- Đến đây, bạn sẽ thêm hiểu, thêm tự hào và kính yêu một con
ngời vĩ đại mà vô cùng bình dị đà đi vào lịch sử dân tộc Việt
Nam nh một huyền thoại.
B. Thân bài
1. Địa điểm, không gian: Nơi ở và làm việc của Bác nằm giữa
một khuôn viên yên tĩnh thơm ngát hơng hoa.
a) Trớc nhà Bác ở là một cái hồ thả cá. Một hàng rào râm bụt chạy
quanh trớc ngõ nh ở quê nhà Nghệ An của Bác. Bác sống hoà mình
với thiên nhiên, với đất trời, với quê hơng.
b) Xung quanh nhà Bác trồng rất nhiều loài cây và hoa. Hoa
cam, hoa bởi tháng ba thơm ngào ngạt; hàng dừa xoè bóng mát trên
những lối đi; cây vú sữa, quà của đồng bào miền Nam tặng Bác
đợc trồng ở hiên sau nhà; góc vờn trớc nhà, bốn mùa rau nối nhau tơi
tốt.
2. Hình dáng ngôi nhà : Nơi Bác ở và làm việc là một ngôi nhà
gác nhỏ đợc thiết kế nh kiểu nhà sàn của đồng bào Việt Bắc. Nhà
làm bằng gỗ, mái lợp ngói, bốn bề lộng gió.
3. Diện tích sử dụng : Khoảng hơn 70 m 2. Ngôi nhà sàn đó chỉ
có vẻn vẹn vài phòng để tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và
ngủ.
4. Đồ đạc trong nhà hết sức mộc mạc, đơn sơ :
a) Phòng họp, phòng tiếp khách chỉ có một bộ bàn ghế, lọ hoa,
bộ ấm chén uống nớc.
b) Phòng làm việc có một bộ bàn ghế nhỏ, một chiếc máy chữ,
một chiếc đài phát thanh Liên Xô cũ để Bác nghe tin tức, đặc biệt
tin từ miền Nam và giúp Bác đỡ cảm thấy cô quạnh trong đêm
-2-



vắng...
c) Đến thăm phòng ngủ của Bác càng thơng Bác hơn: chiếc giờng nhỏ bằng gỗ thờng, mộc mạc không mùi sơn, trên trải chiếu cói,
một chiếc gối vải đà sờn cũ. Trên gối, chiếc quạt nan nằm lặng lẽ.
Chiếc quạt nan này đà từng thức cùng vị Chủ tịch trong bao đêm hè
oi ả, lòng nặng những lo toan việc nớc. Góc phòng, bộ quần áo kaki
bạc màu giản dị đợc treo gọn gàng trên móc áo. Trên ngực áo không
có một tấm huân chơng, nhng bên trong lần áo vải là một trái tim
nóng bỏng, sáng ngời. Dới chân giờng, đôi dép cao su mòn gót xếp
ngay ngắn. Đôi dép ấy đà từng theo chân Bác đi suốt ngàn dặm
đờng đất nớc.
5. Bác sống ở đó, một mình, víi mét t trang Ýt ái, mét chiÕc vali
con víi vài vật kỉ niệm của một cuộc đời dài, rộng và bất tử.
C. Kết bài
- Nơi ở của Bác, vị lÃnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nớc, đơn
sơ, giản dị nh câu chuyện về một vị thần tiên trong thần thoại,
cổ tích.
- Nơi ở của Ngời là do chÝnh Ngêi lùa chän, sù lùa chän Êy gióp
chóng ta hiểu thêm phong cách Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc
Việt Nam.
đề số 3
Em hÃy đóng vai là những đồ dùng cá nhân của Bác tự giới thiệu
về mình.
Bài làm
Bác Hồ đà yên nghỉ, nhng ngày ngày, dòng ngời vào lăng viếng
Bác vẫn nối dài từ sáng đến chiều. Đến thăm nhà Bác ở, ngời ta
trầm ngâm trớc từng di vật đơn sơ, mộc mạc đà gắn bó với Bác
trong suốt cả cuộc đời. Dờng nh đoán biết đợc ý nghĩ, lòng mong
muốn của đồng bào, du khách, những ®å vËt ®· cÊt lªn tiÕng nãi

tù giíi thiƯu vỊ mình để du khách hiểu thêm về Bác. Chúng ta hÃy
cùng nghe họ tự thuật nhé.
- Chúng tôi là những đồ dùng cá nhân của Bác Hồ. Chúng tôi đợc
sống bên Bác, đợc phục vụ, chăm sóc Bác và đợc Bác yêu mến nâng
niu nh những đứa cháu nhỏ. Chúng tôi gồm : quần áo, giày dép,
mũ nón... Chúng tôi sống rất hoà thuận, luôn bên nhau và luôn bên
Bác.
Tôi thuộc dòng họ Quần áo. Họ hàng nhà chúng tôi có hai loại vải
đợc Bác thờng dùng là vải ka ki màu trắng đục và vải lụa màu nâu.
áo ka ki cúc cài kín cổ, vạt buông, có bốn túi lớn, hai túi trên ngực
và hai túi ở hai vạt trớc. Anh chàng này thờng đợc Bác mặc khi đi
công tác ở nớc ngoài, khi ngoại giao, tiếp khách, hoặc khi Bác đi dự
những hội nghị, hội thảo quan trọng trong nớc và quốc tế... Còn tôi,
quần áo vải nâu, đợc may rộng nh kiểu quần áo của bà con nông
dân. Tôi đợc chăm sóc Bác thờng xuyên hơn, đợc Bác mặc khi đi
-3-


thăm đồng ruộng, gặp gỡ bà con nông dân, các bạn thiếu niên nhi
đồng, lúc ở nhà, khi làm việc trong phòng riêng, lúc tới cây... Bác
thơng yêu, nâng niu, đối xử với chúng tôi bằng tất cả tấm lòng của
một Con Ngời. Có khi chúng tôi bị sờn rách, các cô chú phục vụ
định thay áo mới cho Bác, Bác biết, Bác không chịu, Bác nói vải hÃy
còn mới hÃy may vá lại cho Bác mặc. Chúng tôi cảm động đến
nghẹn ngào trớc tấm lòng và phong cách sống vô cùng giản dị của
một vị lÃnh tụ.
Tôi thuộc họ giày dép. Cùng với quần áo, tôi cũng rất vinh dự vì
luôn đợc đi theo Bác. Tôi đợc làm bằng chất liệu cao su, màu đen,
có 4 quai, hai quai chéo ở phía trên và hai quai ngang ở phía dới. Họ
hàng chúng tôi, hàng vạn hàng triệu đôi dép nh thế đà từng theo

bớc những chiến sĩ, thanh niên xung phong chống Pháp rồi chống
Mĩ trên khắp các chiến trờng Nam Bắc. Riêng tôi sung sớng hơn là
đợc ở bên Bác, phục vụ, chăm sóc Bác, đợc theo Bác đi trên mọi nẻo
đờng.
Còn tôi là mũ lá. Chúng tôi tuy Bác dùng ít hơn, nhng cũng là
nhiều lắm đối với những ai không đợc ở bên Bác. Họ hàng nhà mũ
chúng tôi cũng có hai loại: mũ cốt vải và mũ lá. Mũ cốt vải làm bằng
vải kaki màu xanh hoặc màu trắng đục. Anh chàng này thờng đợc
Bác đội khi đi chiến dịch, khi thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ... Còn
tôi, mũ lá đợc làm bằng lá cọ, lá nón. Tôi đợc Bác dùng khi đi xuống
nhà máy, công xởng, khi ra đồng cùng với bà con nông dân gặt lúa,
tát nớc chống hạn hoặc xuống biển với ng dân kéo lới...
Tôi nữa, tôi là khăn len. Tuy tôi chỉ đợc theo Bác vào mùa đông
nhng cũng đợc Bác nâng niu, yêu mến lắm. Tôi đợc dệt bằng sợi
len, rộng chừng 30 cm, dài chừng 1,2m, hai đầu khăn thắt tua rua
bay nhè nhẹ mỗi khi gió thổi. Nếu trời không giá rét quá, tôi đợc
Bác quàng quanh cổ Bác. Trời lạnh, tôi đợc Bác choàng lên đầu. Tôi
rất sung sớng vì đợc giúp ích cho Bác.
Chúng tôi là những đồ vật rất bình thờng, mộc mạc, đơn sơ,
giản dị, nhng Bác đà chọn chúng tôi. Không những thế, Bác còn
yêu thơng, gìn giữ, nâng niu chúng tôi. Điều đó làm chúng tôi vô
cùng sung sớng và hạnh phúc. Vì vậy, chúng tôi sống bên Bác, đem
hơi ấm cho Ngời, bảo vệ Ngời khỏi những cơn thất thờng của thời
tiết, làm mềm sỏi đá dới những nẻo đờng bàn chân Ngời đi qua.
Chúng tôi tuy nhỏ bé nhng chúng tôi tự hào vì đà giúp ích cho
Bác, góp phần làm nên một phong cách Hồ Chí Minh.
Khi vào thăm nhà Bác, đứng nhìn chúng tôi, nhiều ngời đÃ
khóc. Chắc họ đang nghĩ đến Bác và cảm động trớc tấm lòng
bao la rộng lớn, lối sống giản dị thanh cao của Ngời.
đề số 4

Em hÃy viết một bài văn giới thiệu phong cách Hồ Chí Minh dới
dạng cuộc đối thoại giữa một bạn học sinh trong nớc và một bạn học
sinh Việt kiều đang chuẩn bị vào lăng viếng B¸c.
-4-


Bài làm
Tại khuôn viên trớc lăng Bác, có hai bạn học sinh, một bạn là Việt
kiều mới về thăm quê vào lăng viếng Bác. Họ gặp nhau, làm quen
với nhau và sau đây là câu chuyện thú vị giữa họ.
- Xin chào bạn !
- Chào bạn !
- Mình tên là H. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình tên là M. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình xa Việt Nam từ năm 2 tuổi, nay mới có dịp về thăm quê,
đợc vào lăng viếng Bác. Mình rất muốn đợc hiểu thêm về Bác, về
phong cách của Bác. M. có vui lòng làm hớng dẫn viên cho mình
không?
- Mình rất sẵn lòng.
- Mình đợc biết, Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật tiêu
biểu nhất cđa thÕ kØ XX. VËy b¹n cã thĨ nãi râ thêm cho mình
biết về tầm vóc văn hoá của Bác đợc không ?
- Bác Hồ không những là một vị lÃnh tụ thiên tài, nhà yêu nớc,
nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà
văn hoá lớn của thế giới thế kỉ XX. Hiếm có vĩ nhân nào trên thế
giới đà hội tụ đợc danh hiệu Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn
hoá thế giới nh UNESCO đà phong tặng Ngời. Phong cách của Bác là
sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại; giữa dân tộc và
nhân loại; uyên thâm nhng lại rất Việt Nam; vĩ đại, thanh cao nhng vô cùng giản dị. Vẻ đẹp văn hoá chính là nét nổi bật trong
phong cách Hồ Chí Minh.

- Bạn nói, Bác Hồ là một danh nhân văn hoá thế giới, uyên thâm
nhng lại rất Việt Nam nghĩa là thế nào ? Vốn tri thức văn hoá sâu
rộng của Bác đà đợc hình thành ra sao ?
- Trong cuộc đời yêu nớc và hoạt động cách mạng của mình, Bác
đà đi rất nhiều nơi, có dịp tiếp xúc với văn hoá nhiều nớc, nhiều
vùng trên thế giới, cả ở phơng Đông và phơng Tây. Bôn ba khắp
năm châu bốn biển để tìm đờng cứu nớc, trên những con tàu vợt
trùng dơng, Ngời đà ghé lại nhiều hải cảng, đà thăm các nớc châu
Phi, châu á, châu Mĩ. Năm 1911, Ngời đến Pháp, năm 1912 - 1913
Ngời sống ở Mĩ, từ 1913 - 1917 ở Anh và sau đó Ngời lại trở lại
Pháp. Đến đâu, Ngời cũng ham mê tìm hiểu, học hỏi.
Để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, con đờng quan trọng
đầu tiên là phải thông thạo ngoại ngữ. Ngời biết rất nhiều ngoại
ngữ, nói và viết thạo nhiều thø tiÕng nh tiÕng Ph¸p, Anh, Hoa,
Nga ... Ngêi viÕt báo bằng tiếng Pháp, tiếng Trung, sáng tác truyện
ngắn bằng tiếng Pháp, sáng tác thơ bằng tiếng Hán. Các tác phẩm
nổi tiếng của Ngời nh: Bản án chế độ thực dân Pháp - tác phẩm
chính luận, các truyện ngắn Vi hành, Lời than vÃn của Bà Trng
Trắc, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, tập thơ Nhật
kí trong tù... không chỉ có ý nghĩa chính trị, thời sự mà còn giàu
-5-


giá trị nghệ thuật, có sức sống lâu bền trong lòng ngời đọc.
Trong cuộc đời cách mạng đầy gian nan vất vả, Ngời đà từng
phải làm nhiều nghề để sống và hoạt động cách mạng nh bồi bàn,
đầu bếp, viết sách báo... Nhng cũng chính qua công việc, qua lao
động, Ngời đà tìm hiểu, học hỏi đợc rất nhiều điều bổ ích cho
công tác cách mạng cũng nh để hình thành nên phong cách Hồ
Chí Minh.

- Vậy phong cách Hồ Chí Minh có phải là sự tổng cộng giản
đơn tinh hoa của các nền văn hoá thế giới không ? Bác đà tiếp thu
các nền văn hoá nhân loại nh thế nào ?
- ồ, câu hỏi của bạn thật là thó vÞ !... Cã thĨ nãi, Ýt cã vÞ l·nh tụ
nào lại am hiểu về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế
giới sâu sắc nh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Ngời cũng học
hỏi, tìm hiểu văn hoá, nghệ thuật đến mức khá uyên thâm. Nhng
điều quan trọng là Ngời không chịu ảnh hởng thụ động mà tiếp
thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá nớc ngoài. Một mặt, Ngời
chịu ảnh hởng của tất cả các nền văn hoá, tiếp thu mọi cái đẹp,
cái hay; mặt khác, Ngời cũng phê phán những hạn chế, tiêu cực.
Những ảnh hởng của văn hoá quốc tế đó đà nhào nặn với cái gốc
văn hoá dân tộc không gì lay chuyển đợc ở Ngời, để trở thành
một nhân cách rất Việt Nam.
- Thật là kì diệu, một con ngời kì diệu !... Vậy còn lối sống, Bác
sống, sinh hoạt ra sao ?
- Là một lÃnh tụ có cơng vị cao nhất của Đảng và Nhà nớc nhng
Bác có một lối sống vô cùng bình dị, rất Việt Nam, rất phơng Đông.
Nơi ở và làm việc của Ngời hết sức đơn sơ. Lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nớc lấy
chiếc nhà sàn bằng gỗ bên cạnh chiếc ao nh cảnh làng quê quen
thuộc làm ''cung điện" của mình. Chiếc nhà sàn đó chỉ vẻn vẹn
có vài phòng. Đó cũng là nơi tiếp khách, họp Bộ Chính trị, đồng
thời là nơi Bác làm việc và nhỉ ngơi.
T trang của Bác hết sức giản dị, ít ỏi : bộ quần áo bà ba nâu,
chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ đà đợc một tác giả phơng Tây
ca ngợi nh một vật thần kì, một chiếc vali con đựng vài bộ quần
áo ...
Việc ăn uống của Ngời cũng rất đạm bạc. Những món ăn dân tộc
không chút cầu kì nh cá kho, rau luộc, da ghém, cà muối, cháo

hoa... là thức Bác a thích.
Ngời sống trong ngôi nhà đơn sơ ấy, một mình, với một vài t
trang Ýt ái, vµi vËt kØ niƯm nhá nhoi cđa mét cuộc đời dài, đầy
truân chuyên và giông bÃo cách mạng. Cã lÏ, hiÕm cã mét vÞ l·nh tơ,
mét vÞ tỉng thống hay một vị vua hiền ngày trớc lại sống đến mức
giản dị nh Bác.
- Liệu lối sống giản dị quá nh vậy ... có làm giảm vị thế ...
- à, mình hiểu ý bạn. Lối sống của Bác giản dị nhng lại vô cùng
-6-


thanh cao, sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khổ của
những con ngời tự vui trong cảnh nghèo khó, cũng không phải là cách
tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, cho hơn ngời mà là một
quan niệm sống đẹp có cội rễ từ các nhà hiền triết phơng Đông xa : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên.
Cách sống của Bác gợi ta nhớ đến các sống của các vị hiền triết
trong lịch sử dân téc nh Ngun Tr·i, Ngun BØnh Khiªm. Hä sèng
ë quª nhà với những thú quê đạm bạc :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...
Lối sống thanh cao đó cũng là một cách di dỡng tinh thần có khả
năng đem lại hạnh phúc, sự bình yên cho tâm hồn và thể xác con
ngời.
Nói nh một chính khách Pháp, "Hồ Chí Minh là ngời mang tính
cách á Đông nhất, nhng cũng là ngời cởi mở nhất với t tởng phơng
Tây". Cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hoá
dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ những năm 1923, khi
gặp Ngời ở Maxcơva, nhà thơ Xô viết Ôxíp Mandenstam đà dự
cảm : "...Từ Nguyễn ái Quốc đà toả ra một thứ văn hoá, không phải
là văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hoá của tơng lai". Năm

1990, UNESCO tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác.
Trong bài phát biểu của Tiến sĩ M. Amed, giám đốc UNESCO khu
vực châu á - Thái Bình Dơng có đoạn : "Hồ Chí Minh đà thành
công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hoá vào một nền văn
hoá Việt Nam duy nhất. Ngời đà làm đợc việc này nhờ sự hiểu biết
sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau... Cuộc
đời của Ngời mang những ảnh hởng và giá trị truyền thống dân
tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hoá hiện
đại"... Tóm lại, chúng ta tự hào vì có Bác...
- ...
- Bạn làm sao thế, bạn không đợc khoẻ phải không ? Bạn có cần tôi
giúp gì không ?
- Không ... mình không sao, mình khoẻ... Mình đang nghĩ,
mình đà đợc gặp một Ông Tiên. Một Ông Tiên ngoài đời thật chứ
không phải trong truyện cổ tích. Ông Tiên ấy đang ở gần đây, bên
cạnh chúng mình. Mình thật sung sớng và cảm động. Cảm ơn bạn,
ngời đồng hành đầy hiểu biết. Bây giờ chúng mình hÃy xếp hàng
vào lăng viếng Bác nhé. Mai đây, hễ có dịp, mình sẽ lại xin bố mẹ
về thăm quê, vào lăng viếng Bác. Chúng mình sẽ còn gặp lại nhau
chứ ?
- Nhất định là nh vậy rồi. Nào, chúng mình cùng đi gặp Tiên
Ông thôi !
đề số 5
Em hÃy tóm tắt những luận điểm, luận cứ chính của văn bản
-7-


Đấu tranh cho một thế giới hoà bình.
Bài làm
1. Luận điểm chính : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ

khủng khiếp đang đe doạ loài ngời và sự sống trên trái đất, vì vậy
nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh
để loại bỏ nguy c¬ Êy.
2. HƯ thèng ln cø :
- Kho vị khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá
bỏ mọi dấu vết của sự sống trên trái đất và các hành tinh khác trong
hệ mặt trời.
- Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đà làm mất đi cơ hội
cải thiện đời sống cho hàng tỉ ngời nghèo khổ nhất trên thế giới.
Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực x· héi,
y tÕ, tiÕp tÕ thùc phÈm, gi¸o dơc... víi những chi phí khổng lồ cho
chạy đua vũ trang đà cho thÊy tÝnh chÊt cùc k× phi lÝ cđa viƯc chạy
đua vũ trang.
- Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời
mà mà còn đi ngợc lại với quy luật của tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.
- Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến
tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hoà bình, vì một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi ngời.
đề số 6
Dựa vào văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, em hÃy
viết một văn bản thuyết minh về nguy cơ chiến tranh hạt nhân (có
sử dụng yếu tố miêu tả và các biện pháp nghệ thuật).
Bài làm
Chiến tranh và hoà bình luôn là mối quan tâm hàng đầu của
toàn nhân loại bởi nó liên quan đến cuộc sống, sinh mệnh của hàng
triệu con ngời và sự còn mất của mỗi quốc gia. Lịch sử loài ngời
gắn liền với nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc khiến nhân loại bao
phen rơi vào cảnh máu chảy đầu rơi, nồi da nấu thịt. Nguy cơ
chiến tranh luôn đe doạ sự sống trên khắp hành tinh. Đặc biệt,
ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí hạt nhân đà trở thành

mối hiểm hoạ khủng khiếp nhất đe doạ toàn bộ sự sống, loài ngời
trên trái đất.
Trong thế kỉ XX, nhân loại đà phải trải qua hai cuộc chiến tranh
thế giới vô cùng khốc liệt và nhiều cuộc chiến tranh dân tộc, sắc
tộc khác, làm thiệt mạng hàng trăm triệu ngời, làm bánh xe lịch sử
quay chậm lại hàng trăm năm. Chiến tranh thế giới thứ hai đà kết
thúc cách đây sáu mơi năm, nhng nguy cơ chiến tranh vẫn luôn
tiềm ẩn. Đặc biệt, đó cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của
ngành công nghiệp hạt nhân mà sự tiến bộ ghê gớm của nó đà có
tầm quan trọng quyết định đối với vận mệnh thế giới sau này.
Năm 1945 ấy, cũng là năm Mĩ đà ném xuống Nhật Bản hai quả
bom nguyên tử làm hơn 40 vạn ngời chết, biến hai thành phố đông
-8-


dân Hi-rô-xi-ma và Na-ga-da-ki thành đống đổ nát, gây kinh
hoàng cho toàn thế giới.
Kể từ đó, cuộc chạy đua vũ trang, cuộc chiến tranh hạt nhân
chính thức bắt đầu, loài ngời hằng ngày luôn bị đặt trớc nguy cơ
tuyệt diệt.
Chỉ cần một vài ví dụ và làm một phép tính đơn giản nh nhà
văn Cô-lôm-bi-a, Gác-xi-a Mac-két, chúng ta đà có thể hình dung
loài ngời đang ở trên bờ vực thẳm nh thế nào. Theo Mac-két, tính
đến ngày 8/8/1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đà đợc bố trí
khắp hành tinh. Nói một cách nôm na, điều đó có nghĩa là tất cả
mọi ngời trên trái đất, không trừ ngời già, trẻ con, mỗi ngời đang
ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ. Chỉ cần bấm một cái nút, tất
cả khối thuốc nổ đó nổ tung lên, làm tiêu biến hết thảy không
phải một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái
đất, tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và

bốn hành tinh khác nữa, phá huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời.
Sự sống đợc nhen nhóm và tồn tại trên trái đất này không hề dễ
dàng. Cũng theo G. Mac-két, cha nói những gì to lớn, chỉ lấy
những sù vËt, sù viƯc nhá bÐ lµm b»ng chøng, chóng ta đà thấy
rất rõ. Từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380 triệu năm
con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm
đẹp cho đời. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con
ong làm ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút
mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của dặm đờng lao động miệt
mài 8.000.000 cây số mới có đợc... Huống hồ những toà nhà chọc
trời, những cánh đồng xanh mát, những cây cầu vững chÃi là mồ
hôi công sức của hàng triệu ngời ... Vậy mà, chỉ trong tích tắc, tất
cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó có thể biến thành
tro bụi.
ĐÃ có nhiều thảm hoạ hạt nhân nh các vụ nổ nhà máy hạt nhân
ở Nga (Trécnôbn), ấn Độ... làm hàng nghìn ngời chết, gây ô nhiễm
môi trờng nghiêm trọng. Đáng tiếc là, sau những thảm hoạ ấy, cuộc
chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục, các nhà máy sản xuất vũ khí hạt
nhân vẫn không ngừng mọc lên trên thế giới; các loại vũ khí hạt
nhân nh tàu ngầm, tên lửa, máy bay tối tân hiện đại vẫn không
ngừng đợc bổ sung ... Nhân loại vẫn từng ngày từng giờ phải đối
mặt với nguy cơ bị huỷ diệt bởi vũ khí hạt nhân.
Thế giới cũng đà có những cố gắng để giảm bớt mối đe doạ
này, chẳng hạn các hiệp ớc cắt giảm vũ khí tiến công chiến lợc đợc
kí kết giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) với Mĩ. Nhng chiến tranh
và hiểm hoạ hạt nhân vẫn luôn là mối đe doạ to lớn và thờng xuyên
đối với các dân tộc, các quốc gia và toàn thể loài ngời. Xung đột
và chiến tranh vẫn diễn ra hàng ngày ở nhiều nơi, nhiều khu vực
trên thế giới, gần đây nhất là cuộc chiến của Mĩ, Anh ở Irắc, cuộc
xung đột đẫm máu kéo dài giữa Ixraen và Palextin, chñ nghÜa

-9-


khủng bố hoành hành khắp nhiều nơi. Các nhà máy hạt nhân ở ấn
Độ, Pakistan, Iran, Triều Tiên, Trung quốc... luôn là nguyên nhân của
những cuộc tranh cÃi, đàm phán gay gắt, không kết quả. Vì vậy,
nhận thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia vào cuộc đấu
tranh cho hoà bình là yêu cầu đặt ra cho mỗi công dân trên hành
tinh.
Chúng ta đang sống trong thời đại hoàng kim của khoa học kĩ
thuật và công nghệ. Song, chúng ta cũng đang phải từng giây
từng phút đối mặt với chiến tranh hạt nhân có nguy cơ bùng nổ
bất cứ lúc nào. Bởi vậy, con ngời không thể thờ ơ trớc vận mệnh
của chính mình và vận mạng của toàn thể nhân loại. Điều chúng
ta có thể làm đợc là, mỗi ngời cần phải ý thức sâu sắc đợc nguy
cơ tiềm ẩn đó, cùng nhau đoàn kết đấu tranh ngăn chặn nó, vì
một thế giới hoà bình và hạnh phúc.
đề số 7
Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và quy luật
của tự nhiên.
I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh,
không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu thực hiện. Các em tự phải xác định
vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề
đó.
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với thuyết minh.
- Phạm vi kiến thức cần sử dụng : Văn bản Đấu tranh cho một thế
giới hoà bình và những thông tin xác thực về tác hại của chiến
tranh mà em đợc biết.
II. Dàn ý

A. Mở bài
- Chiến tranh đồng nghĩa với đau thơng, chết chóc, đổ máu
và huỷ diệt.
- Chạy đua vũ trang là đua nhau tăng cờng vũ khí để chuẩn bị
chiến tranh.
- Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và tự nhiên.
B. Thân bài
1. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời
a) Chi phí cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân vô cùng tốn kém,
tốn kém đến mức cực kì phi lí.
b) Chi phí tốn kém đó đà làm mất đi khả năng để con ngời đợc sống tốt đẹp hơn.
- Theo Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm
1990, hằng ngày có vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới phải chịu
bao nỗi bất hạnh vì là nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; hàng
triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo, dịch
bệnh, mù chữ, môi trờng xuống cấp. Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em
- 10 -


chết do suy dinh dỡng và bệnh tật.
- Năm 1981, UNICEF đà định ra một chơng trình để cứu trợ
cấp bách về y tế, tiếp tế thực phẩm và nớc uống, xoá nạn mù chữ,
cải thiện điều kiện vệ sinh cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất
thế giới. Để thực hiện đợc chơng trình này phải cần tới 100 tỉ đô
la, nhng tất cả đà tỏ ra là một giấc mơ không thể thực hiện đợc bởi
số tiền quá lớn. Trong khi đó, số tiền này chỉ gần bằng chi phí cho
100 máy bay ném bom chiến lợc B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vợt
đại châu.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để
thực hiện một chơng trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn một

tỉ ngời, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá
nạn mù chữ cho toàn thế giới, vv...
Điều mong muốn lớn nhất của tất thảy con ngời trên trái đất này
là sự sống sinh sôi, cuộc đời của con ngời ngày càng tốt đẹp hơn
lên. Nhng, cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân đà đi ngợc lại mong
muốn, khát vọng của con ngời. Cha nói đến việc chiến tranh hạt
nhân bïng nỉ, chØ sù tån t¹i cđa vị khÝ h¹t nhân không thôi cũng
đà gieo vào lòng chúng ta nỗi ám ảnh khủng khiếp về "cái cảnh tận
thế" do những bệ phóng hạt nhân mang lại, khiến chúng ta luôn
sống trong nỗi lo lắng, bất an. Chi phí quá tốn kém cho việc sản
xuất vũ khí hạt nhân đà làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện
để cải thiện cuộc sống, cớp đi nhiều cơ hội để cứu giúp hàng tỉ
ngời, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết
chóc.
2. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của tự nhiên
a) Lí trí của tự nhiên có thể hiểu là quy luật của tự nhiên, logíc
tất yếu của tự nhiên.
b) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của con ngời, tiêu diệt loài ngời mà còn phản lại sự tiến hoá của tự nhiên, huỷ
diệt mọi sự sống trên trái đất.
- Sự sống ngày nay trên trái đất là kết quả của một quá trình
tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu năm của tự nhiên với biết bao cuộc
hoài thai nhäc nh»n, ®au ®ín. Theo G. Mac-kÐt, cha nãi những gì
to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc nhỏ bé, từ khi có sự sống trên
Trái Đất, phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm
nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo Nguyễn
Tuân, một giọt mật mà con ong làm ra là kết quả của 2.700.000
chuyến bay đi tìm hoa hót mËt, mét nưa lÝt mËt ong lµ kÕt qủa
của dặm đờng lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có đợc...
- Nhng nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra, chỉ cần một tích tắc,

tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch
dấu vết; mọi thành quả của quá trình tiến hoá tự nhiên sẽ trở lại
điểm xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi vì những phát
- 11 -


minh vĩ đại của chính con ngời. Nh vậy, chiến tranh hạt nhân
chính là sự phản lại quy luật và sự tiến hoá của thế giới tự nhiên.
Năm 1945, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-xi-ma và
Na-ga-da-ki thuộc Nhật Bản, biến hai thành phố đông dân này trở
về thời kì hồng hoang là một ví dụ tiêu biểu.
C. Kết bài
- Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân là một tai hoạ khủng khiếp đối
với sự sống, loài ngời.
- Đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, vì một thế giới
hoà bình, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của con ngời là nhiệm vụ
của tất cả chúng ta.
đề số 8
Văn bản "Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" của G.Mac-ket là
một bài văn nghị luận sinh động.
I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này cũng chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh
lệnh, không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu thực hiện. Các em tự phải xác
định vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ
vấn đề.
- Kiểu đề : Nghị luận.
- Yêu cầu : Bằng lí lẽ và dẫn chứng, em phải phân tích, chứng
minh, đánh giá làm sáng tỏ vấn đề : Văn bản Đấu tranh cho một
thế giới hoà bình có phải là một bài văn nghị luận sinh động hay
không.

II. Dàn ý
A. Mở bài
- G. Mác-két nổi tiếng là tác giả của nhiều tiểu thuyết và
truyện ngắn đợc viết theo khuynh hớng hiện thực huyền ảo. Ông là
nhà văn châu Mĩ Latinh đà đoạt giải Nô-ben văn học năm 1982.
Qua tác phẩm của mình, Mác-két đà từng đấu tranh không mệt
mỏi vì hoà bình và hạnh phúc của con ngời và sự sống trên trái
đất.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận
sinh động. Bằng lập luận chặt chẽ, chứng cứ phong phó, x¸c thùc ;
b»ng tr¸i tim nhiƯt hut cđa mét nhà văn vì hoà bình, hạnh phúc
của con ngời, Mác-két đà phân tích làm rõ nguy cơ chiến tranh
hạt nhân đang đe doạ sự sống con ngời, kêu gọi mọi ngời hÃy
đoàn kết, đấu tranh ngăn chặn, xoá bỏ nguy cơ đó.
B. Thân bài
1. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một văn bản nghị luận
bởi tác giả đà đặt ra một vấn đề và bàn bạc, nêu quan điểm của
mình về vấn đề đó. Luận điểm chính mà tác giả nêu ra trong
bài viết này là : "Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng
khiếp đang đe doạ loài ngời và sự sống trên trái đất, vì vậy
nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh
- 12 -


để loại bỏ nguy cơ ấy".
2. Để làm sáng tỏ vấn đề và thuyết phục ngời đọc, tác giả đÃ
triển khai ln ®iĨm ®ã trong mét hƯ thèng ln cø sắc bén, toàn
diện, mạch lạc và chặt chẽ :
a) Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá
bỏ mọi dấu vết của sự sống trên trái đất và các hành tinh khác trong

hệ mặt trời.
b) Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đà làm mất đi cơ hội
cải thiện đời sống cho hàng tỉ ngời nghèo khổ nhất trên thế giới.
Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vùc x· héi,
y tÕ, tiÕp tÕ thùc phÈm, gi¸o dơc... với những chi phí khổng lồ cho
chạy đua vũ trang ®· cho thÊy tÝnh chÊt cùc k× phi lÝ cđa việc chạy
đua vũ trang.
c) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời
mà mà còn trái với quy luật tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.
d) Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc
chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hoà bình, vì một
cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi ngời.
3. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục và
gây đợc ấn tợng mạnh vì Mác-két đà sử dụng nghệ thuật lập luận
chặt chẽ, sắc bén kết hợp với chứng cứ phong phú, xác thực, cụ thể.
a) Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy
cơ chiến tranh hạt nhân, tác giả đà bắt đầu bài viết bằng việc
nêu cụ thể thời gian (hôm nay ngày 8-8-1986) và đa ra số liệu cụ
thể đầu đạn hạt nhân với một phép tính rất đơn giản, rất dễ
hiểu : 50.000 đầu đạn hạt nhân chia bình quân cho đầu ngời
trên thế giới, mỗi ngời phải hứng chịu trung bình 4 tấn thuốc nổ.
Nếu chỗ thuốc nổ đó nổ tung lên sẽ làm tiêu biến hết thảy không
phải một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái
đất, tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và
bốn hành tinh khác nữa, phá huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời...
Cách vào đề trực tiếp, việc lựa chọn đợc những con số xác
thực, rõ ràng của tác giả đà thu hút ngay sự chú ý và gây ấn tợng
mạnh đối với ngời đọc. Đọc qua một lần, chúng ta có ngay cái cảm
giác rùng mình về sự mong manh của sự sống, con ngời trên trái
đất ; về khả năng huỷ diệt ghê gớm của vũ khí hạt nhân; về tính

chất hệ trọng của nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
b) Để làm rõ tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ trang, tác giả
đà đa ra hàng loạt so sánh hết sức thuyết phục giữa chi phí cho vũ
khí hạt nhân với chi phí cho các hoạt động cứu trợ, phát triĨn x· héi,
y tÕ, tiÕp tÕ thùc phÈm, gi¸o dơc, đặc biệt ở các nớc nghèo :
- Nếu bỏ khoản chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lợc
B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vợt đại châu sẽ có đủ số tiền hơn
100 tỉ đô la để cứu trợ cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ
nhất thÕ giíi.
- 13 -


- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để
thực hiện một chơng trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn một
tỉ ngời, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá
nạn mù chữ cho toàn thế giới, vv...
Thế nhng, tất cả những chơng trình cứu trợ trên chỉ là giấc mơ
bởi số tiền đó đà đợc giành vào việc sản xuất ra những vũ khí
giết ngời hàng loạt. Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí
hạt nhân đà làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện
cuộc sống, cớp đi nhiều cơ hội để cứu giúp hàng tỉ ngời, đặc
biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết chóc...
Phép lập luận so sánh với những con số và hình ảnh biết nói đÃ
thuyết phục sâu sắc ngời đọc, khiến ngời đọc không khỏi sững
sờ, ngạc nhiên trớc một sự thật hiển nhiên nhng lại cực kì phi lí, phi
lí nhng lại đang tồn tại trên trái đất này.
c) Để làm sáng tỏ luận cứ Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí
của tự nhiên, tác giả đà đa ra những chứng cứ từ khoa học địa
chất vµ vµ cỉ sinh häc vỊ ngn gèc, sù tiÕn hoá của sự sống trên

trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài hàng trăm
triệu năm: Phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180
năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Nhng chỉ cần
bấm nút một cái, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn
đó sẽ bị xoá sạch dấu vết, trở lại điểm xuất phát ban đầu hoặc
biến thành tro bụi. Từ đó, tác giả đi đến kết luận đầy thuyết
phục: Chiến tranh hạt nhân không những đi ngợc lại lí trí của con
ngời mà còn phản lại quy luật và sự tiến hoá của tự nhiên.
d) Sau khi chỉ ra một cách rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân, phần
kết bài cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi tới loài ngời : Tất cả
mọi ngời hÃy cất lên tiếng nói đòi hỏi một thế giới không có vũ khí
và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Tiếng nói ấy, nếu vẫn
không ngăn chặn đợc hiểm hoạ hạt nhân thì chí ít nó cũng nói
lên đợc ý nghĩ và nguyện vọng của loài ngời mong muốn đợc sống
trên trái đất này trong hoà bình, tình yêu và hạnh phúc.
Kết thúc bài viết, Mác-két nêu một đề nghị: Cần lập ra một
ngân hàng lu giữ trí nhớ để các thời đại sau có thể biết đợc đÃ
từng có cuộc sống trên trái đất này, trớc khi thảm hoạ hạt nhân xảy
ra. Đề nghị của Mac-két có vẻ viễn tởng, hài hớc nhng điều ông
quan tâm là chân thật, rằng : Nhân loại cần giữ gìn kí ức của
mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực hiếu chiến đà đẩy nhân loại
đến thảm hoạ tuyệt diệt.
4. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục còn
bởi cảm xúc mÃnh liệt và nhiệt huyết chứa chan của tác giả. Một
nhà văn thế kØ XVIII ®· tõng ngun rđa thc sóng nh mét sự
sáng tạo của quỷ sứ. Đến lợt Mác-két, ông cũng nguyền rủa "những
phát minh dà man nào, nhân danh những lợi ích ti tiện nào" làm
- 14 -



cho cuộc sống bị xoá bỏ khỏi vũ trụ này. Ông khẳng định : "Trong
thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ của con ngời chẳng
có gì để tự hào vì đà phát minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm
nút một cái là đà đa cả quá trình vĩ đại và tốn kém của hàng bao
nhiêu triệu năm trở lại điểm xuất phát của nó"...
C. Kết bài
- Nh vËy, b»ng lËp luËn s¾c bÐn, chøng cø phong phú, xác thực
và nhiệt huyết của một nhà văn vì hoà bình, hạnh phúc của con
ngời, Mác-két đà nêu ra một cách rõ ràng, đầy sức thuyết phục về
mối hiểm hoạ hạt nhân đối với nhân loại ; chỉ rõ sự tốn kém vô
cùng phi lí của cuộc chạy đua vũ trang; từ đó thức tỉnh và kêu gọi
mọi ngời phải hành động để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận
xuất sắc của G. Mac-két.
đề số 9
Em hÃy tóm tắt văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền
đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em đợc trích in trong Ngữ văn 9,
tập I.
bài làm
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát
triển của trẻ em năm 1990 đà nêu rõ thực trạng cuộc sống của trẻ em
trên thế giới hiện nay, tầm quan trọng của vấn đề chăm sóc, bảo
vệ trẻ em và sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với
vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và
phát triển của trẻ em in trong Ngữ văn 9 là một phần trích từ điều
1 đến điều 17 của văn bản trên , chia làm 4 phần :
Phần 1 (điều 1 và 2) khẳng định quyền đợc sống, quyền đợc
phát triển của trẻ em, kêu gọi khẩn thiết cả nhân loại hÃy quan tâm

và hành động để bảo đảm tất cả những quyền lợi này cho trẻ em.
Phần 2 (điều 3 - 7) nêu lên những thách thức trong việc bảo
đảm các quyền lợi của trẻ em. Đó là thực trạng cuộc sống đói nghèo,
cực khổ trên nhiều mặt của trẻ em, tình trạng trẻ em bị rơi vào
những hiểm hoạ khôn lờng, tình trạng trẻ em không đợc chăm sóc,
bảo vệ...
Phần 3 (điều 8 - 9) chỉ ra những cơ hội, những điều kiện
thuận lợi cơ bản giúp cho các quyền của trẻ em đợc thực hiện tốt. Đó
là sự liên kết, nhÊt trÝ cđa céng ®ång qc tÕ trong vÊn ®Ị chăm
sóc và bảo vệ trẻ em; là sự hợp tác và đoàn kết quốc tế trong
nhiều lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo các
quyền và phúc lợi cho trẻ em.
Phần 4 (điều 10-17) nêu lên một cách cụ thể, toàn diện nhiệm
vụ cấp thiết của cộng ®ång qc tÕ vµ tõng qc gia trong viƯc
- 15 -


bảo vệ các quyền của trẻ em. Đó là, tăng cờng sức khoẻ và chế độ
dinh dỡng cho trẻ em, trẻ em tàn tật hoặc có hoàn cảnh sống đặc
biệt khó khăn phải đợc quan tâm đặc biệt ; trẻ em phải đợc học
hết bậc giáo dục cơ sở; đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ nam
và trẻ nữ; khuyến khích trẻ em tham gia các hoạt động văn hoá, xÃ
hội...
đề số 10
Dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc
bảo vệ và phát triển của trẻ em, em hÃy viết một văn bản thuyết
minh (có sử dụng yếu tố miêu tả và nghị luận) về thực trạng cuộc
sống của trẻ em trên thế giới hiện nay.
Dàn ý
A. Mở bài

- Trẻ em là tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Trẻ
em có quyền đợc sống, quyền đợc bảo vệ và quyền đợc phát triển.
- Nhng thực tế cuộc sống tuổi ấu thơ của trẻ em lại không hoàn
toàn nh vậy.
B. Thân bài
1. Trẻ em có quyền đợc sống và đợc đáp ứng các nhu cầu cơ bản
để tồn tại nh đợc nuôi dỡng, đợc chăm sóc sức khoẻ... Nhng trong
thực tế, theo thế giới Tuyên bố về sự sống còn của trẻ em..., hằng
ngày có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng thảm hoạ của đói nghèo,
khủng hoảng kinh tế, tình trạng vô gia c, dịch bệnh, mù chữ, môi
trờng xuống cấp... Hơn 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế giới
không có những điều kiện thiết yếu để tồn tại nh thiÕu thùc
phÈm, níc ng, thiÕu thc ch÷a bƯnh... ë nhiều nớc đang phát
triển, đặc biệt những nớc kém phát triển nhất ở châu Phi, trẻ em
đang phải chịu tác động nặng nề của nợ nớc ngoài, của tình
hình kinh tế không giữ đợc mức độ tăng trởng đều đặn hoặc
không có khả năng tăng trởng.
- Mỗi ngày có tới 40.000 trỴ em chÕt do suy dinh dìng, bƯnh tËt,
kĨ cả hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nớc
sạch, thiếu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma tuý. Tỉ lệ tử
vong của trẻ em nói chung, trẻ sơ sinh nói riêng ở nhiều nơi trên thế
giới hiện nay, theo Tuyên bố thế giới... cao đến mức không thể chấp
nhận đợc.
- Việt Nam là nớc thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ớc
của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. Đảng và Nhà nớc ta đà cố gắng
rất nhiều trong việc xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo quyền đợc
sống cho trẻ em. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn và miền núi
khó khăn vẫn còn rất nhiều trẻ em thiếu ăn, suy dinh dỡng, không
đợc chăm sóc về mặt y tế.
2. Trẻ em có quyền đợc bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt

đối xử, bị bỏ rơi, bị bóc lột và xâm hại. Nhng trong thực tế, cũng
theo Tuyên bố thế giới về quyền đợc bảo vệ của trẻ em, h»ng ngµy
- 16 -


có vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới bị phó mặc cho những hiểm
hoạ khôn lờng. Chiến tranh vẫn nổ ra liên miên trên khắp thế giới.
Cuộc chiến ở Cô-sô-vô, Nam T; cuộc chiến tranh của Mĩ và Anh ở
Irắc; cuộc chiến ở Ap-ga-nis-tan; các cuộc xung đột ở Trung Đông;
chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp nơi... đà biến trẻ em thành
nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, thậm chí, ở một số nớc châu
Phi, ngời ta tuyển mộ cả trẻ em vào quân đội, tay lăm lăm súng
ống giáp mặt với giết chóc...
Bên cạnh đó, hàng triệu trẻ em là nạn nhân của nạn phân biệt
chủng tộc, chế độ Apácthai, nạn khủng bố, bắt giữ con tin... mà
gần đây nhất là vụ khủng bố đẫm máu ở một trờng học nớc Nga
(Beslan) làm hàng trăm trẻ em bị giết, hàng trăm trẻ em sống sót
trong nỗi kinh hoàng khôn tả...
Cũng do chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp, nhiều trẻ
em trở thành ngời tị nạn, phải từ bỏ gia đình sống tha hơng để
trốn tránh nỗi hiểm nguy. Có nhiều trẻ em tàn tật đà trở thành nạn
nhân của sự lÃng quên, ruồng bỏ, hoặc bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc
lột.
ở Việt Nam, đây đó, chúng ta vẫn có thể chứng kiến cảnh trẻ
em bị đánh đập, xâm hại, bị lôi kéo vào con đờng nghiện hút,
bị bắt buộc làm việc nặng quá sức, bơ vơ không ai chăm sóc do
cha mẹ li hôn...
3. Trẻ em có quyền đợc đáp ứng các nhu cầu cho sự phát triển
một cách toàn diện nh đợc học tập, đợc vui chơi giải trí, đợc tham
gia các hoạt động văn hoá, thể thao... Nhng trong thực tế hiện nay,

có hơn 100 triệu trẻ em không đợc đến trờng hoặc cha trải qua
giáo dục cơ sở.
C. Kết bài
- Thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay là một
thách thức lớn đối với cộng đồng quốc tế, là mối quan tâm sâu
sắc của lơng tâm loài ngời.
- Các quyền của trẻ em cần phải đợc tôn trọng và thực hiện một
cách đầy đủ, có trách nhiệm.
- Mỗi học sinh chúng ta hÃy bằng khả năng và hành động thực
tiễn của mình, phát huy tinh thần tơng ái tơng trợ, yêu thơng giúp
đỡ, nhờng cơm xẻ áo cho những bạn nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn
cũng là một hình thức hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ
em.
đề số 11
Suy nghĩ của em về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, về sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ
Việt Nam và chính quyền địa phơng các cấp đối với trẻ em hiện
nay.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận
- 17 -


- Yêu cầu : Em có thể dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới... trong
Ngữ văn 9 và những hiểu biết của em về vấn đề này để làm bài.
Đề bài cho phép và khuyến khích suy nghĩ của riêng em. Tuy
nhiên, em nên làm rõ đợc một số ý cơ bản sau.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng

hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới
ngày mai" (UNESCO).
B. Thân bài
1. Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em
a) Tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc
vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ ; phụ thuộc vào sức khoẻ, trí
tuệ, năng lùc... cđa thÕ hƯ trỴ. Trong "Th gưi häc sinh nhân ngày
khai trờng", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
không, dân tộc Việt Nam có đợc vẻ vang sánh vai các cờng quốc
năm châu đợc hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các cháu". Trẻ em là ngời sẽ quyết định tơng lai, vị thế của
mỗi dân tộc trên trờng quốc tế.
b) Qua vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chúng ta có thể nhận
ra đợc trình độ văn minh và phần nào bản chất của một xà hội.
2. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam,
chính quyền địa phơng và các tổ chức xà hội đối với trẻ em hiện
nay.
a) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang đợc cộng đồng quốc
tế quan tâm thích đáng :
- Năm 1989, Công ớc Liên hiệp quốc về quyền trẻ em ra đời đÃ
ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em nh các nhóm quyền sống
còn, nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền
tham gia. Công ớc này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng
đồng quốc tế đối với trẻ em, là điều kiện cần thiết để trẻ em đợc
phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thơng và
thông cảm.
- Năm 1990, Tuyên bố thế giới... đà đề ra những nhiệm vụ cụ
thể và toàn diện nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng với một bản
kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Tuyên bố
này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng

đồng quốc tế đối với các quyền lợi và tơng lai của trẻ em.
b) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đợc chính phủ Việt Nam
đặc biệt quan tâm. Việt Nam là nớc thứ hai trên thế giới kí và phê
chuẩn Công ớc của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. sau Hội nghị
cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, Hội đồng Bộ trởng nớc Cộng
hoà xà hội chủ nghĩa Việt Nam đà quyết định Chơng trình hành
động vì sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em
Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành mét bé phËn cña
- 18 -


chiến lợc, kế hoạc phát triển kinh tế, xà hội của đất nớc.
c) Trên cơ sở đờng lối, chiến lợc phát triển đó, chính quyền
địa phơng các cấp đà vạch kế hoạch, hành động cụ thể nhằm
đảm bảo các quyền lợi của trẻ em nh các chính sách hỗ trợ kinh tế
đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trờng, quan tâm xây
dựng cơ sở vật chất, trờng học, thiết bị dạy học... để nâng cao
chất lợng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xà hội và nhân dân đóng
góp xây dựng trờng lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ
vì ngời nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, khuyến
khích mở các lớp học tình thơng, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ
côi, tàn tật, lang thang không nơi nơng tùa...
3. Suy nghÜ cđa em vỊ sùu quan t©m cđa cộng đồng quốc tế,
các chính quyền địa phơng đối với vấn đề quyền lợi của trẻ em :
(Gợi ý : Em có vui và hoan nghênh những nỗ lực cố gắng của
cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam... về vấn đề này hay
không ? Vì sao ? ý kiến ®Ị xt cđa em, nÕu cã, ®Ĩ chÝnh phđ,
chÝnh qun địa phơng nơi em sinh sống thực thi tốt hơn việc
bảo đảm quyền lợi cho trẻ em ?)
C. Kết bài

- Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đà đợc cộng đồng quốc tế
nói chung, chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền địa phơng
và các tổ chức xà hội Việt Nam nói riêng ý thức đầy đủ và có kế
hoạch hành động cụ thể, thiết thực.
- Để xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc ấy, mỗi học sinh
chúng ta cần phải không ngừng nỗ lực vơn lên trong học tập và rèn
luyện để có thể gánh vác trọng trách là ngời chủ tơng lai của nớc
nhà sau này.
đề số 12
Em hÃy tóm tắt văn bản Chuyện ngời con gái Nam Xơng trong
15 đến 20 dòng.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Tóm tắt văn bản tự sự.
- Yêu cầu : Tóm tắt cô đọng trong 15 - 20 dòng. Đây là một văn
bản dài, em phải tìm các sự kiện, chi tiết cơ bản nhất để qua 15
dòng này có thể dựng lại đầy đủ nội dung, diễn biến chính của
câu chuyện.
II. Bài làm
Xa có chàng Trơng Sinh, vì chiến tranh loạn lạc bị bắt đi lính,
bỏ lại mẹ già và ngời vợ trẻ ngoan hiền tên là Vũ Nơng đang bụng
mang dạ chửa. Mẹ Trơng Sinh vì quá nhớ thơng chàng mà ốm chết,
Vũ Nơng hết lòng chăm sóc rồi lo ma chay chu tất cho bà. Giặc
tan, Trơng Sinh trở về. Vốn tính đa nghi, nghe lời trẻ thơ không suy
xét, Trơng Sinh nghi Vũ Nơng không chung thuỷ, mắng đuổi
nàng đi. Vũ Nơng bị oan bèn gieo mình xuống sông tự vẫn. Cho
đến một đêm, hai cha con ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bãng
- 19 -


trên tờng và nói đó là ngời đêm đêm đà đến với mẹ, Trơng Sinh

mới biết vợ bị oan. Phan Lang là ngời cùng làng với Vũ Nơng, do có
ơn với thần rùa Linh Phi, khi chết đuối đợc Linh Phi cứu mạng. Phan
Lang gặp lại Vũ Nơng dới thuỷ cung. Khi Phan Lang trở về trần gian,
Vũ Nơng gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trơng Sinh. Trơng Sinh
nghe Phan Lang kể, thơng nhớ vợ vô cùng, bèn lập đàn giải oan trên
bờ Hoàng Giang. Vũ Nơng trở về trên một chiếc kiệu hoa giữa
dòng, đa tạ chàng rồi biến mất.
đề số 13
Em hÃy đóng vai Vũ Nơng kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu
tố miêu tả.
Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Kể chuyện có sử dụng yếu tố miêu tả.
- Yêu cầu : Sử dụng yếu tố miêu tả khi miêu tả khung cảnh và
miêu tả nội tâm để làm rõ hơn tâm trạng của Vũ Nơng trớc các sự
kiện, biến cố của cuộc đời nàng. Câu chữ có thể khác nhng nội
dung thì phải trung thành tuyệt đối với nguyên bản.
Bài làm
Tôi tên là Vũ Nơng, quê ở Nam Xơng. Mọi ngời trong làng yêu
mến thờng khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong
cho tôi sẽ lấy đợc một ngời chồng xứng đáng và đợc hởng hạnh
phúc. Tôi đà gặp và thành vợ chàng Trơng. Chàng rất mực yêu thơng tôi, nhng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn
tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia
đình luôn đợc êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra,
chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng
tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió
cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lờng, lòng tôi thơng chàng vô hạn. Tôi không mong
chàng lập công để đợc ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình
an trở về là tôi đà thoả nguyện. Giờ phút chia tay đà hết. Chàng

dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng
tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tơi vui
bớm lợn đầy vờn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín
núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thờng trực
trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh đợc một bé trai và đặt tên
cháu là Đản. Nhng mẹ chồng tôi, vì nhớ thơng con mà ốm đau mòn
mỏi. Tôi đà hết lòng thuốc thang, động viên nhng vì bệnh tình
trầm trọng, cụ đà qua đời. Cảm động trớc tình mẫu tử thiêng liêng
mẹ dành cho chồng tôi, xót thơng mẹ vô hạn, tôi đà lo ma chay chu
tÊt cho mÑ.
- 20 -


Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thơng khôn xiết, cuối cùng
Trơng Sinh đà trở về. Tôi vô cùng sung sớng và hạnh phúc. Nhng
cuộc đời, có ai mà đoán trớc đợc số phận. Chàng về tới nhà, biết
mẹ ®· qua ®êi liỊn bÕ con ®i viÕng mé mĐ. Lúc trở về, chàng
bỗng dng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đà phản
bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng
hoàng sửng sốt. Nớc mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải
thích : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn
lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng
sum họp cha đợc bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí
do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết
hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một
mực nhớ thơng và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hÃy tin thiếp,
đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhng bao nhiêu lời nói
chân thành, tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thơng
tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhng rốt cuộc chẳng có kết

quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi.
Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng. Tôi đà nơng
dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận,
hạnh phúc. Nhng giờ đây, trâm gÃy bình tan, tình cảm vợ chồng
sứt mẻ. Dù vẫn thơng chồng, thơng con tha thiết, nhng tôi đâu còn
mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn
tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than
rằng : "Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con
giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin đợc làm Mị Nơng hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi
xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi ngời phỉ nhổ".
Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và
thơng tình đà cho các nàng tiên dới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nơng
nhờ trong cung điện của Linh Phi.
Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - ngời cùng làng. Nghe
Phan Lang kể gia cảnh chồng con tôi, nhà cửa, vờn tợc hoang vu,
phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thơng, ai oán. Đợc biết
chàng Trơng đà hiểu dúng ngọn ngành sự việc và vẫn thơng nhớ
tôi, tôi rất vui, bối rối nhng lại cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn
cha đợc minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi cho Trơng Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút
tình xa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về.
Trơng Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng.
Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng
tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhng giữa chúng tôi đà có một khoảng
cách không sao hàn gắn đợc. Tôi cũng đà thề với đức Linh Phi nên
không thể trở về nhân gian đợc nữa. Tôi tạ ơn chàng đà lập đàn
giải oan rồi quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao lu luyÕn câi
trÇn.
- 21 -



đề số 14
Em hÃy đóng vai Trơng Sinh kể lại cuộc đời mình, có sử dụng
yếu tố miêu tả.
Bài làm
Tôi là Trơng Sinh ở Nam Xơng, cùng quê với Vũ Nơng, sau này là
vợ tôi. Câu chuyện thơng tâm của gia đình tôi đà xảy ra cách
đây mấy năm, nhng mỗi lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy dờng nh mới
chỉ xảy ra hôm qua.
Vũ Nơng là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt
nàng thanh tú, đôi mắt đen dịu hiền, mái tóc dày óng mợt. Nàng
đẹp một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng
yêu mến nàng nên đà xin mẹ cới nàng về làm vợ. Nàng là một ngời
vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói năng nhỏ nhẹ, một lòng thơng
chồng, phụng dỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi nhng gia
đình tôi luôn đợc êm ấm.
Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh
xảy ra, tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn đa, nàng buồn rời rợi,
lòng trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nàng thơng tôi phải đi vào
nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi
rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận kề cái chết. Nàng không mong
tôi lập công đợc đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình an trở
về. Tay nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rng rng khiến
tôi cầm lòng không đợc. Giờ phút chia tay đà đến. Tôi dứt áo ra đi,
nàng thẫn thờ nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại,
bóng dáng nhỏ bé của ngời vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh
thẳm. Lòng tôi nhớ thơng, chua xót không cùng.
Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trờng thì Vũ Nơng đến kì đÃ
sinh đợc một bé trai. Cháu đợc đặt tên là Đản. Nhng mẹ tôi, vì quá
nhớ thơng tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nơng đà thay tôi hết lòng
thuốc thang, động viên nhng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đà qua

đời. Hàng xóm kể lại, Vũ N¬ng rÊt mùc th¬ng xãt, lo ma chay chu
tÊt nh cha mẹ đẻ. Nàng là một ngời trọn tình, vẹn nghĩa, trọn
đạo hiếu khiến tôi càng yêu thơng, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng đợc bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ
hiểm nguy. Mấy năm xa cách nhớ thơng, nay đoàn tụ, vợ chồng
mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi
hỏi thăm mé mĐ råi bÕ con ®i viÕng. Däc ®êng, bÐ Đản khóc, tôi
dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi". Bé Đản liền
nói tôi không phải là cha nó, cha nó là ngời trớc đây đêm nào cũng
đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dới chân tôi nh sụp xuống. Tôi cứ
nghĩ Vũ Nơng là một ngời vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng
trở nên h hỏng nh vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nơng. Mối
nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng đợc thổi bùng lên, không có cách gì
- 22 -


dập tắt đợc. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nơng bàng hoàng sửng sốt. Nµng võa khãc võa thanh minh : "ThiÕp
vèn con nhµ nghèo khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na
thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp cha đợc
bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác.
Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô
son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực
nhớ thơng và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hÃy tin thiếp, đừng
nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...". Nhng bao nhiêu lời nói chân
thật cũng không làm dịu đợc mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thơng Vũ Nơng cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhng tôi
không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm
xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi
nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục đợc tôi, Vũ Nơng bất
đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng : nàng đà nơng
dựa vào tôi là vì mong có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nhng bây giờ, trâm gÃy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ, nàng

không còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Rồi
nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền
và gieo mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nơng mà còn
làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nơng
thất tiết nhng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi lang
thang đi tìm vớt xác nàng nhng không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời
thỉnh cầu của nàng đà linh nghiệm. Thần linh thấu hiểu và thơng
tình đà cho các nàng tiên dới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng nơng nhờ
trong cung điện của Linh Phi.
Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bà đằng
đẵng. Một đêm, phòng không vắng vẻ, tôi ngồi dới ngọn đèn
khuya, bóng in trên vách. Bé Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc
bóng và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!". Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra.
Hỡi ơi, tôi đà hại chết Vũ Nơng rồi! Tôi đau đớn, ân hận, xót xa,
day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng nàng đÃ
chết trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhng việc đà lỡ rồi, tôi chẳng
biết làm gì hơn là đau khổ, buồn thơng, day dứt.
Một hôm, Phan Lang - ngời cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là
đà gặp Vũ Nơng dới thuỷ cung. Ban đầu tôi không tin, nhng khi
chàng đa chiếc hoa vàng cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính là vật
vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang nói, Vũ Nơng vẫn cảm thấy tủi
cực vì cha đợc minh oan, vẫn thơng nhớ chồng con, đau xót ứa nớc
mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi, cảnh nhà cửa, vờn
tợc hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt... Đợc biết nàng vẫn
thơng nhớ chồng con, tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng đợc
gặp lại nàng. Tôi làm theo lời nhắn của nàng, lập một đàn giải oan
ở bến sông, những mong nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở
- 23 -



về, để tôi có thể bù đắp lại những đau khổ, thiệt thòi mà tôi đÃ
gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nơng đà trở về. Giữa dòng Hoàng
Giang mênh mông sóng nớc bỗng hiện lên một chiếc kiệu hoa vàng
lộng lẫy, rực rỡ. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phợng mày
ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử chỉ khoan thai nh một nàng tiên. Theo
sau nàng, hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lung
linh trong ánh nến thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông nh một
lâu đài nguy nga tráng lệ mà nàng là ngời chủ lâu đài đó. Tôi vội
gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng tôi nhng cứ đứng giữa
dòng, đôi mắt buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng vào, cảm tạ
tình tôi, nhng đà hứa với Linh Phi nên không trở về trần gian đợc
nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhng còn biết làm sao đợc. Tuy vẫn
còn thơng nhớ nhau nhng cốc nớc đầy một khi đà đổ xuống đất
thì dù có cố gắng thế nào cũng không thể vớt lại cho đầy đợc.
Giữa chúng tôi đà có những khoảng cách không thể nào bù đắp.
Còn cha hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sơng đà phủ, bóng
nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi biến mất.
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đÃ
đánh mất hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này,
tôi chỉ muốn mọi ngời đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn nh
tôi. HÃy tin yêu con ngời, thực lòng yêu thơng ngời thân để gia
đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.
đề số 15
Em hÃy liệt kê các yếu tố miêu tả có trong Chuyện ngời con gái
Nam Xơng và chọn phân tích giá trị biểu đạt của một trong số
những yếu tố miêu tả đó.
Dàn ý
1. Những yếu tố miêu tả trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng :
- Vũ Nơng "tính đà thuỳ mị, nết na lại thêm t dung tốt đẹp".

- "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi ngời ải xa,
trông liễu rủ bÃi hoang, lại thổn thức tâm tình, thơng ngời đất thú
!"
- "Ngày qua tháng lại, thoắt đà nửa năm, mỗi khi thấy bớm lợn
đầy vờn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không
thể nào ngăn đợc."
- "Nay đà bình rơi trâm gÃy, mây tạnh ma tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trớc gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én
lìa đàn, nớc thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu
kia nữa."
- "Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dới ngọn đèn
khuya..."
- "Một đêm chiêm bao thấy ngời con gái áo xanh đến kêu xin tha
mạng..."
- "Linh Phi bấy giờ mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân
nạm vàng, cời b¶o Phan Lang r»ng..."
- 24 -


- "Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân quần áo thớt tha,
mái tóc búi xễ..."
- "Nhà cửa tiên nhân của nơng tử, cây cối thành rừng, phần mộ
tiên nhân của nơng tử, cỏ gai rợp mắt..."
- "Vũ Nơng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng,
theo sau có đến 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc
ẩn, lúc hiện."
- Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến
đi mất...
2. Chọn phân tích giá trị biểu đạt của một yếu tố miêu tả trong
truyện.

(Gợi ý : Em có thể chọn một yếu tố miêu tả bất kì mà em cho là
có giá trị gợi hình, gợi cảm cao).
Ví dụ, em có thể chọn phân tích yếu tố miêu tả trong đoạn sau
:
"Nay đà bình rơi trâm gÃy, mây tạnh ma tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trớc gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én
lìa đàn, nớc thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu
kia nữa".
- Cả đoạn này ý nói tình vợ chồng lâu nay gắn bó giữa Trơng
Sinh và Vũ Nơng giờ đà tan vỡ, hạnh phúc đà tiêu tan. Nhng Vũ Nơng không nói trực tiếp ý đó mà mợn các hình ảnh mang tính
biểu tợng để thể hiện sự việc và tâm trạng của mình. Trâm gÃy
bình tan thể hiện sự tan vỡ; mây tạnh ma tan gợi tả tình cảm vợ
chồng nguội lạnh; sen rũ trong ao liễu tàn trớc gió gợi tả sự tàn lụi
của tình yêu, hạnh phúc; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu
xuân cái én lìa đàn gợi tả những cố gắng níu giữ hạnh phúc
trong vô vọng... Tất cả những hình ảnh đó đà diễn tả một cách ấn
tợng và xúc động tâm trạng của Vũ Nơng. Đó là nỗi đau đớn, luyến
tiếc cuộc sống gia đình đầm ấm hạnh phúc, là nỗi thất vọng đến
tuyệt vọng trớc những oan trái của cuộc đời. Tuy là thủ pháp ớc lệ
của văn học trung đại, nhng do tài lựa chọn khéo léo, hợp tình hợp
cảnh nên các hình ảnh miêu tả trên vẫn có tác dụng gợi hình, gợi
cảm cao. Nếu không sử dụng các yếu tố miêu tả nh vậy, tâm trạng
của Vũ Nơng không đợc khắc hoạ sâu sắc, câu chuyện sẽ vì thế
mà kém hẳn phần hấp dẫn.
đề số 16
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng là do Trơng Sinh cả ghen. ý kiến khác lại khẳng định, đó là do chiến
tranh phong kiến... Suy nghĩ của em về nguyên nhân cái chết của
Vũ Nơng?
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận văn học.

- Yêu cầu : Em phải nắm vững nội dung, giá trị của tác phẩm,
- 25 -


×