Lời cảm ơn !
Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và để hoàn thành đề tài nghiên cứu
này là nhờ sự định hướng và giúp đỡ tận tình của cơ giáo th.s Dương Thị Vân
Anh cùng tồn thể q thầy cô giáo trong khoa lịch sử trường đại học vinh . với sự
nổ lực , cố gắng hết mình của bản thân và sự động viên khích lệ của gia đình và
bạn bè đã tạo điều kiện cho em được hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng
dẫn th,s dương Thị Vân Anh và các thầy cô giáo trong khoa lịch sử lời cảm ơn chân
thành nhất.
Em cũng gửi lời cảm ơn đến các cán bộ của thư viện tỉnh nghệ an , thư viện
Nguyễn Thúc Hào _ trường Đại Học Vinh, ban quản lý di tích tỉnh Nghệ An…
cũng như các cá nhân đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu liên quan đến
đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài .
Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên , hơn nữa là em còn là một sinh
viên bước đầu tập nghiên cứu nên sẽ có nhiều thiếu sót và nhiều điều cần được chỉ
dạy và học hỏi nhiều từ quý thầy cô và các bạn sinh viên. Vì vậy em mong nhận
được ý kiến đóng góp từ q thầy cơ và các bạn để từng bước hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Vin , ngày ….. tháng….. năm 2014.
Mục Lục
Trang….
Mở Đầu
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC DTLS- VH TỈNH NGHỆ AN.
1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên , dân cư và lịch sử hình thành.
1.1.1 Điều kiện tự nhiên, dân cư
1.1.2 Lich sử hình thành.
1.2.Tổng quan về các di tích lịch sử văn hóa tỉnh Nghệ An .
1.2.1 Khái niệm.
1.2.2.Hệ thống di tích lịch sử văn hóa
1.2.3 Các loại di tích lịch sử văn hóa.
Chương 2 : ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI CÁC DI
TÍCH LỊCH SỬ – VH TỈNH NGHỆ AN.
2.1 Một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu.
2.1.1 Núi Dũng Quyết – khu vực phượng Hồng Trung Đơ.
2.1.2 Đền thờ Mai Hắc Đế.
2.1.3 Ngã Ba Bến Thủy.
2.1.4 Thành Cổ Vinh.
2.1.5 Khu lưu niệm Hồ Chí Minh.
2.1.6. Nhà cụ Phan Bội Châu.
2.2 Thực trạng hoạt dộng du lịch tại các di tích lịch sử - văn hóa Nghệ An.
2.2.1 .Cơ Cấu khách du lịch
2.2.1.1. Tình hình khách du lịch đến Nghệ An trong những năm gần đây
2.2.1.2 Đặc điểm mẫu khảo sát.
2.2.2. Doanh thu du lịch.
2.2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật .
2.2.4 . Nguồn lao động
2.2.5 .Công tác tuyên truyền , quảng bá .
2.2.6. Cơng tác bảo tồn và tơn tạo di tích.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ - VH TỈNH NGHỆ AN.
3.1 Mục tiêu và phương hướng phát triển du lịch hệ thống di tích lịch sử - văn hố
tỉnh Nghệ An
3.2 Một số giải pháp phát triển du lịch.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nghệ An thuộc khu vực miền trung là điểm nối giữa hai trục Bắc - Nam của
hình chữ S. Nó được ví như chiếc đòn gánh nặng ở hai đầu mà phần ở giữa là nơi
chịu nhiều khó khăn nhất.Những khó khăn khắc nghiệt đã hình thành nên tính
cách của con người nơi đây anh dũng , kiên cường bất khuất đã được ghi danh
qua các cuộc kháng chiến chống pháp, chống mỹ. Nghệ an được mệnh danh là
mảnh đất “ Địa linh - nhân kiệt “
Nghệ An là một trong những địa chỉ văn hoá đặc biệt của cả nước với hệ
thống di tích - danh thắng đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại, có niên đại trải
dài từ thời khởi thuỷ con người có mặt trên trái đất đến ngày nay.
Trong con mắt của các nhà chiến lược, Nghệ An là “phên dậu” của nước
nhà với địa bàn trọng yếu về quốc phòng, từng là căn cứ địa vững vàng của nhiều
cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nghệ An là quê hương của nhiều anh hùng hào kiệt mà tên tuổi và sự
nghiệp còn vang mãi với non sơng đất nước. Đó là Mai Thúc Loan, Nguyễn Xí,
Nguyễn Xn Ơn, Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu... Nơi đây cũng
là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng
Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Nghệ An là quê hương của cao trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh anh hùng đã viết nên trang sử vàng rạng rỡ mở đầu cho lịch sử
cách mạng Việt Nam.
Hệ thống di tích - danh thắng Nghệ An được sinh ra và ni dưỡng bằng tín
ngưỡng, đạo lý và phong tục truyền thống của dân tộc nên có sức sống, sức lan tỏa
lâu bền, mãnh liệt. Từ những di tích khảo cổ, di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật,
cách mạng, danh nhân hay di tích - danh thắng đều phải chống đỡ với sự tàn phá
của thời gian, của thiên nhiên khắc nghiệt và của con người (cả kẻ thù và cả
những người dân thiếu ý thức trách nhiệm). Mặc dù có những biến cố trong lịch
sử , song nhìn chung, từ các triều đại phong kiến Việt Nam đến chế độ ta hiện nay,
nhân dân vẫn nhận thức được rằng: di tích - danh thắng là một trong những chứng
cứ thể hiện cội nguồn, truyền thống và bản sắc văn hố xứ Nghệ. Vì thế, nhiều di
tích được xây dựng sớm, bảo vệ và tơn tạo chu đáo. (tiêu biểu: đền Cng, đền
Cịn, đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế, đền Quả Sơn, đền Bạch Mã, khu di tích
Kim Liên...).
Đặc biệt, từ khi có Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hoá và
danh lam thắng cảnh của Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành (năm 1984) đến nay, ngành Văn hóa - Thơng tin đã có nhiều biện
pháp để bảo tồn, tơn tạo, phát huy giá trị của các di tích, góp phần vào giáo dục
truyền thống, chấn hưng văn hố dân tộc
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử , hệ thống di tích lịch sử văn hóa
nghệ an khơng cịn ngun vẹn như ban đầu , một số di tích bị phá vỡ hồn tồn do
chiến tranh chỉ cịn là phế tích, một số di tích hiện nay khơng cịn nữa. vì vậy việc
phục dựng , trùng tu , tơn taọ các di tích có giá trị là việc làm hết sức cần thiết
nhằm trả lại diện mạo cũng như giá trị lịch sử văn hóa của di tích.Đồng thời cùng
với việc trùng tu tơn tạo kết hợp với việc khai thác phát triển thành sản phẩm du
lịch, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Với ý nghĩa đó , lại là người con của xứ nghệ tôi chọn đề tài : “ Đánh giá hoạt
động du lịch tại các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh nghệ an”. Với mong muốn trên
cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh nghệ an để từ đó đề xuất
những kiến nghị giải pháp nhằm góp phần vào sự phát triển của hoạt động du lịch
trong tương lai của quê hương .
2 Lịch sử nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu và nghiên cứu về di tích lịch sử văn hóa của Nghệ An khơng chỉ là
sự quan tâm của các ban , nghành có liên quan mà từ lâu đã nhận được sự chú ý
của các nhà nghiên cứu khoa học . Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu , luận văn ,
báo chí , tạp chí…có đề cập đến một trong những di tích của hệ thống di tích lịch
sử - văn hóa nghệ an.
Dưới đây tơi xin đơn cử một số cơng trình nghiên cứu sau :
Trần Thị Phượng , ” Nghệ An, di tích – danh thắng “ ,sở văn hóa thơng tin Nghệ
An , xuất bản 2001.
- Đào Tam Tỉnh , “ Tìm trong di sản văn hóa xứ nghệ” , xuất bản 2010.
- Nguyễn Đổng Chi (chủ biên ) ,” Địa chí văn hóa dan gian Nghệ Tĩnh”, NXB
Nghệ An, 1995.
- Trần Bá Chí ,” Danh nhân Nghệ Tĩnh” , NXB Nghệ Tĩnh ,1982.
- Gs Ninh Viết Giao , “Tục thờ thần và Thần tích Nghệ An” , sở VHTT Nghệ
An, xuất bản 2000.
- Trần Viết Thụ ( chủ biên ) ,”Địa danh lịch sử văn hóa Nghệ An”, NXB Nghệ
An , 2006.
- Ninh viết Giao (chủ biên) , “Nam Đàn Quê Hương Chủ Tịch Hồ Chí
Minh” ,NXB Nghệ An.
Trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả và các cơng trình nghiên
cứu đã có , kết hợp với tư liệu điền dã và phỏng vấn những người có hiểu biết về
các di tích lịch sử - văn hóa , tơi đã tiến hành phân loại , sắp xếp , lựa chọn, hệ
thống hóa kiến thức một cách đầy đủ và hồn thiện hơn về một số di tich lịch sử văn hóa cấp quốc gia trong hệ thống di tích lịch – văn hóa tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động du lịch tại các di
tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nghệ An, tìm hiểu và đánh giá các giá trị nổi bật của
các di tích và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị lịch
sử, văn hóa .
Khai thác các di tích lịch sử trở thành sản phẩm du lịch tâm linh thu hút khách du
lịch.
Phạm vi nghiên cứu : Do quá trình nghiên cứu hạn chế bởi thời gian nên đề tài
mang tính chất nghiên cứu một số trường hợp tiêu biểu trong hệ thống di tích lịch
sử văn hóa tỉnh Nghệ An( Nam Đàn – thành phố vinh) được công nhân là di tích
cấp quốc gia.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu.
- Tài liệu thành văn : Để tiến hành nghiên cứu đề tài này , Đề tài sử dụng các
nguồn tài liệu thành văn gồm các công trình nghiên cứu về di tích lịch sử văn hóa ở
Nghệ An và các tài liệu có liên quan đến đói tượng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài.trong đó chủ yếu là:
+ Các sách giáo trình về văn hóa , du lịch được dùng giảng dạy , học tập trong các
trường đại học , cao đẳng ở việt nam.
+ Các bài viết có liên quan trên các website.
+ Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử văn hóa.
+Các bài nghiên cứu về lễ hội nói chung và lễ hội ở Nghệ An nói riêng được cơng
bố trên các tạp chí văn hóa – thể thao – du lịch.
+ Một số luận văn cao học , thạc sĩ , khóa luận tốt nghiệp đại học có liên quan.
- Tài liệu điền dã : chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa và điều tra và phỏng
vấn một số đối tượng có liên quan để tìm hiểu vấn đề nghiên cứu, qua đó nhằm
đánh giá thực trạng hoạt động du lịch của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa ở Nghệ
An. Từ đó , để đưa ra những đánh giá khách quan và cái nhìn chân thực về vấn đề
nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
Phương pháp điền dã thông qua các cuộc khảo sát thực tế các di tích lịch sử
văn hóa bằng cách quan sát, phỏng vấn , điều tra bảng hỏi…
Phương pháp thống kê các tài liệu về các di tích lịch sử văn hóa của đề tài là
tiền đề cho phương pháp sau này.
Phương pháp đối chiếu là sau khi tổng hợp được các tài liệu của đề tài thì tiến
hành phương pháp đối chiếu với các tài liệu khác để có những đánh giá xác thực.
Phương pháp so sánh là thông qua bảng hỏi và các tài liệu cụ thể của đề tài thì
bắt đầu so sánh kết quả và tỷ lệ phần trăm .
5. Đóng góp của đề tài.
Đánh giá hệ thống di tích lịch sử - văn hóa nhằm có cái nhìn khái qt , tồn
diện về di tích lịch sử văn hố trên địa bàn tỉnh nghệ an góp phần đánh giá một
cách khách quan về hệ thống di tích trong hoạt động du lịch để đưa ra một số giải
pháp nhằm thúc đẩy nghành du lịch phát triển đồng thời giữ gìn và phát huy giá trị
lịch sử văn hóa của các di tích lịch sử văn hóa.
6. Bố cục của đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG DTLS – VH TỈNH NGHỆ AN.
Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH LỊCH
SỬ –VĂN HĨA TỈNH NGHỆ AN.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN TỈNH NGHỆ AN.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TỈNH
NGHỆ AN .
1.1 khái quát về điều kiện tự nhiên , dân cư và lịch sử hình thành.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư.
Nghệ an có Diện tích: 16.493,686 km2 Dân số: 3.113.055( theo điều tra dân
số năm 2013) người .Nghệ An bao gồm các Dân tộc: Việt (Kinh), Khơ Mú, Sán
Dìu, Thái, H'Mơng, Ơ Đu, tộc người Đan Lai...
Tỉnh Nghệ An có 1 thành phố loại 2, 02 thị xã và 17 huyện: Thành phố
Vinh; Thị xã Cửa Lò; Thị xã Thái Hòa; 10 huyện miền núi: Thanh Chương, Kỳ
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn; 7 huyện đồng bằng: Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi
Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành.
- Vị trí địa lý
Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung bộ nước Việt Nam, có tọa độ địa lý từ
18o33' đến 20o00' vĩ độ Bắc và từ 103o52' đến 105o48' kinh độ Đơng.
Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hố, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh,phía Tây giáp
nước bạn Lào, phía Đơng giáp với biển Đơng.
- Địa hình
Tỉnh Nghệ An nằm ở Đơng Bắc dãy Trường Sơn, địa hình đa dạng, phức tạp
và bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông suối hướng nghiêng từ Tây - Bắc
xuống Đông - Nam. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ
Sơn, thấp nhất là vùng đồng bằng huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành có
nơi chỉ cao đến 0,2 m so với mặt nước biển (đó là xã Quỳnh Thanh huyện Quỳnh
Lưu).Đồi núi chiếm 83% diện tích đất tự nhiên của tồn tỉnh.
- Khí hậu - Thời tiết
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió
mùa Tây - Nam khơ và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đơng Bắc lạnh,
ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau).
Nhiệt độ trung bình là 24,2oC, cao hơn so với trung bình hàng năm là 0,2o C
Tổng lượng mưa trong năm là 1.610,9mm,Độ ẩm trung bình hàng năm là:
84%, độ ẩm thấp nhất là 42% vào tháng 7
Tổng số giờ nắng trung bình 1696 giờ.ngồi ra cịn xuất hiện sương muối
,mùa bão vào các tháng 7,8,9,gây nhiều khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của
người dân.
- Sơng ngịi:
Tổng chiều dài sơng suối trên địa bàn tỉnh là 9.828 km, mật độ trung bình là
0,7 km/km2. Sơng lớn nhất là sông Cả (sông Lam) bắt nguồn từ huyện Mường Pẹc
tỉnh Xieng Khoảng (Lào), có chiều dài là 532 km (riêng trên đất Nghệ An có chiều
dài là 361 km), diện tích lưu vực 27.200 km 2 (riêng ở Nghệ An là 17.730 km2).
Tổng lượng nước hàng năm khoảng 28.109 m3 trong đó 14,4.109 là nước mặt.
Nhìn chung nguồn nước khá dồi dào, đủ để đáp ứng cho sản xuất và phục vụ
cho đời sống sinh hoạt của nhân dân.
- Biển, bờ biển
Hải phận rộng 4.230 hải lý vng, từ độ sâu 40m trở vào nói chung đáy biển
tương đối bằng phẳng, từ độ sâu 40m trở ra có nhiều đá ngầm, cồn cát. Vùng biển
Nghệ An là nơi tập trung nhiều lồi hải sản có giá trị kinh tế cao.
Bãi biển Cửa Lò là một trong những bãi tắm đẹp và hấp dẫn, đó là lợi thế
cho việc phát triển nhành du lịch ở Nghệ An.
Bờ biển Nghệ An có chiều dài 82 km, có 6 cửa lạch thuận lợi cho việc vận tải
biển, phát triển cảng biển và nghề làm muối (1000 ha).
1.1.2. Lịch sử hình thành
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An và
Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là
văn hóa Lam Hồng , có chung biểu tượng là núi Hồng và sông Lam, mặc dù núi
Hồng Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa Nghệ
An và Hà Tĩnh. Trung tâm của Xứ Nghệ nằm ở hai bên dịng sơng Lam là phủ
Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa, tức là các huyện Hương Sơn, Đức Thọ, Can
Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh Chương,
Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn của
Nghệ An ngày nay.
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ
hai. Lúc đó gọi là trại Nghệ An, sau đó thì đổi thành châu Nghệ An rồi Nghệ An
thừa tuyên. Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 21) đổi tên
từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các
đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Đông, xứ
Đồi, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn... Năm 1831, thời vua Minh Mệnh, Xứ Nghệ bị
tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1976, hai tỉnh lại hợp thành tỉnh lớn
Nghệ Tĩnh.
Sắp tới đây, thành phố Vinh sáp nhập một số huyện của Nghệ An và Hà Tĩnh
như Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Xuân và trở thành đơ thị loại một
trực thuộc trung ương. Lúc đó Xứ Nghệ sẽ bị chia thành 3 đơn vị trực thuộc trung
ương.
Nghệ An là một mảnh đất đã sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa
bảng, nhà khoa học, nhà văn nổi tiếng như Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Mai Hắc
Ðế, thi sĩ Hồ Xuân Hương... Cũng như các tỉnh khác của Việt Nam , truyền thống
văn hóa của tỉnh rất phong phú. Là một tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, mỗi
dân tộc đều mang một bản sắc văn hóa, ngơn ngữ riêng giàu truyền thống
Nghệ An là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu hò, hát
phường vải, hát đò đưa... Du khách đến với bất kỳ lễ hội nào của tỉnh Nghệ An
đều có thể thưởng thức loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc này.
Các dân tộc ít người của tỉnh Nghệ An có những loại hình âm nhạc riêng.
Dân tộc Khơ-mú có âm nhạc nữ đuổi chim thú, nhạc khí gắn trên gậy chọc lỗ, tra
hạt. Thăm đao là loại nhạc cụ bằng tre nứa; đàn mơi được chế tạo bằng những
mảnh cật tre vót mỏng. Ngồi ra họ cịn có nhiều loại sáo, khèn... Cịn người
H'Mơng lại có nhiều loại khèn và đàn mơi để bày tỏ tình cảm, ca ngợi vẻ đẹp của
cuộc sống, của quê hương đất nước.
Nghệ An là xứ sở của những lễ hội cổ truyền diễn ra trên sông nước như lễ
hội Cầu Ngư, Rước Hến, Ðua thuyền... Lễ hội làm sống lại những kỳ tích lịch sử
được nâng lên thành huyền thoại, giàu chất sử thi, đậm đà tính nhân văn như lễ
hội đền Cuông, lễ hội làng Vạn Lộc, làng Sen. Miền núi có các lễ hội như Hang
Bua, lễ hội Xàng Khan, lễ mừng nhà mới, lễ uống rượu cần.
1.2.Tổng quan về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nghệ An .
1.2.1 Hệ thống khái niệm .
Trong quá trình phát triển , do tác động ảnh hưởng , hệ quả của các yếu tố
lịch sử văn hóa để lại mà trong ngơn ngữ của người việt có sử dụng nhiều từ Hán –
Việt , trong đó di tích cũng chính là một từ Hán – Việt. Theo từ điển hán việt của
Thiều Chửu , Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh , xuất bản năm 1993 , nó được hiểu
như sau :
Di : đi lại, rớt lại , để lại.
Tích : tàn tích , dấu vết .
Di tích : tàn tích , dấu vết cịn để lại của quá khứ.
Theo từ điển của Đại từ điển tiếng việt do trung tâm ngơn ngữ và văn hóa Việt
Nam – Bộ Giáo Dục và Đào tạo , do Nguyễn Như Ý chủ biên , Nxb Văn hóa –
Thơng tin xuất bản năm 1998 thì Di tích LSVH :“ Tổng thể những cơng trình , địa
điểm ,đồ vật hoặc tác phẩm , tài liệu có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa được
lưu lại”.
Theo luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước cộng hịa XHCN Việt Nam
khóa X kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29.06.2001, thì : “ Di tích lịch sử - văn hóa là
cơng trình xây dựng , địa điểm và các di vật , cổ vật , bảo vật quốc gia thuộc cơng
trình , địa điểm đó có giá trị lịch sử , văn hóa , khoa học”.
Theo luật Di sản văn hóa , để được coi là một di tích lịch sử - văn hóa chúng
phải thỏa mãn năm tiêu chí sau :
Tiêu chí thứ nhất : Di tích lịch sử- văn hóa là các cơng trình xây dựng , địa
điểm gắn với các sự kiện tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc. tiêu biểu như : đền thờ vua quang trung, đền thờ Mai Hắc Đế…
Tiêu chí thứ hai : Di tích lịch sử - văn hóa là các cơng trình xây dựng , địa
điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc , danh nhân của đất nước
trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử của dân tộc : ví dụ như khu di tích kim
liên ( Nam Đàn – Nghệ An) gắn với anh hùng dân tộc , danh nhân văn hóa thế giới
Hồ Chí Minh . Di tích lưu niệm Phan Bội Châu , khu lưu niêm Lê Hồng Phong….
Tiêu chí thứ ba : Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng , địa điểm
gắn với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của thời kỳ cách mạng, kháng chiến tiêu biểu
Ngã Ba Bến Thủy , Cồn Mô , Trng Bồn, cụm di tích Làng Đỏ Hưng Dũng…
Tiêu chí thứ tư : Di tich lịch sử - văn hóa là địa điểm có giá trị tiêu biểu về
khảo cổ phản ánh tiến trình phát triển của lịch sử tộc người , của quốc gia , dân tộc.
tiêu biểu như văn hoá Sơn Vi như Đồi Dùng, Đồi Rạng (Thanh Chương). Trong
nhiều hang động ở các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Con
Cuông, Tương Đương đã phát hiện được các di chỉ khảo cổ học thuộc văn hố Hịa
Bình. Cồn Sị Điệp (Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu) là di chỉ khảo cổ học tiêu biểu của
thời kỳ đá mới có niên đại cách ngày nay 2000 đến 2500 năm…
Tiêu chí thứ năm : Di tích lịch sử - văn hóa là quần thể kiến trúc hoặc cơng
trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc , nghệ thuật của một hoặc
nhiều giai đoạn trong lịch sử . tiêu biểu như : đền hồng sơn , thành cổ vinh…
Hiện nay, Nghệ An còn 474 di tích lịch sử, trong đó 89 di tích đã được xếp
hạng quốc gia Một số di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như:
Khu di tích Kim Liên: Khu di tích Kim Liên gắn với thời niên thiếu của Chủ
tịch Hồ Chi Minh. Nơi đây còn lưu giữ những kỷ niệm thuở nhỏ của cậu bé
Nguyễn Sinh Cung, những dấu tích và những kỷ vật của gia đình. Cách trung tâm
Tp Vinh 12 km về phía Tây Nam.
- Khu di tích Mai Hắc Đế: (ở huyện Nam Đàn) Nằm trong quẩn thể du lịch
núi Đụn, hiện có 3 hạng mục cơng trình tiêu biểu đó là: đền thờ Mai Hắc
Đế, lăng mộ Mai Hắc Đế và mộ mẹ vua Mai.
- Đền Cuông - An Dương Vương: Cách thành phố Vinh chừng 30 km về
phía Bắc, theo quốc lộ 1A, ngơi đền nằm bên sườn núi Mộ Dạ (cịn có tên
là Dạ Muỗi). Là nơi thờ Thục An Dương Vương cùng với truyền thuyết
cây nỏ thần. Ngày 15 tháng 02 âm lịch hàng năm là ngày lễ hội đền Cuông
được nhân dân tổ chức trọng thể.
- Di tích đình Hồnh Sơn (Khánh Sơn - Nam Đàn)
- Di tích đình Trung Cần (Nam Trung - Nam Đàn)
- Di tích đền Cờn (Quỳnh Phương - Quỳnh Lưu). Cách thành phố Vinh
-
chừng 75 km
Di tích đền thờ - mộ Nguyễn Xí (Nghi Hợp - Nghi Lộc)
Di tích thành cổ Vinh (Tp Vinh)
Di tích đền Hồng Sơn (phường Hồng Sơn - Tp Vinh)
Di tích nhà đồng chí Lê Hồng Phong (Hưng Thơng - Hưng Nguyên). Cách
thành phố Vinh chừng 8 km
- Khu di tích Bến Thuỷ (Tp Vinh)
- Di tích đền Bạch Mã (Võ Liệt - Thanh Chương). Cách thành phố Vinh
chừng 50 km
- Di tích đền Quả Sơn (Bồi Sơn - Đơ Lương)
- Di tích đình Võ Liệt (Võ Liệt - Thanh Chương)
- Di tích nghĩa trang liệt sỹ 12/9 (Thái Lão - Hưng Ngun)
- Di tích đền ơng Hồng Mười (Hưng Thịnh - Hưng Nguyên). Cách thành
-
phố Vinh chừng 2 km
Cụm di tích Xứ uỷ làng Đỏ Hưng Dũng (Hưng Dũng - TP Vinh)
Nghĩa trang liệt sỹ Việt Lào (Anh Sơn)
Di chỉ khảo cổ học Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu)
Di chỉ khảo cổ học Đồng Mõm (Diễn Thọ - Diễn Châu)
1.2.3. Các loại Di tích lịch sử - văn hóa.
Hiện nay ,trên địa bàn Nghệ An có các loại hình di tích.
-
Di tích cách mạng
Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lưu niệm danh nhân.
Di tích kiến trúc nghệ thuật.
Danh lam thắng cảnh.
Theo Hồ Hữu Thới trong sách “Nghệ An , di tích du lịch thắng cảnh”[2,24]
Di tích lịch sử được chia làm 3 loại :di tích lịch sử văn hố, di tích cách mạng và di
tích lưu niệm danh nhân.
Di tích lịch sử văn hố là những cơng trình xây dựng , địa điểm ,đồ vật , tài
liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử , khoa học , nghệ thuật cùng với giá trị văn hóa
khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử , quá trình phát triển văn hóa , xã
hội tiêu biểu có đền cuông, đền thờ Mai Thúc Loan, đền Bạch Mã, đền thờ Nguyễn
Xí, núi Lam Thành, núi Dũng Quyết - Phượng Hồng Trung Đơ, thành cổ Vinh...
Di tích lịch sử Nghệ An phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
người dân xứ Nghệ trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc; đồng thời, qua hệ
thống di tích này, chúng ta có thể hiểu và khẳng định vai trị, vị trí của Nghệ An
trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Di tích cách mạng là di tích ghi dấu những cơ sở cách mạng, những phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Nghệ An dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Tiêu biểu cho loại hình di tích này ở Nghệ An là hệ thống di tích Xơ
Viết Nghệ Tích như: mộ các chiến sỹ hy sinh trong ngày 12/9 ở Thái Lão - Hưng
Ngun; đình Võ Liệt; đình Quỳnh Đơi, làng Đỏ Hưng Dũng di tích Tràng Kè ở
Yên Thành; di tích nhà cụ Vi Văn Khang ở Môn Sơn, Con Cuông; Ngã ba Bến
Thuỷ... Những di tích thời kỳ chống Mỹ cứu nước tiêu biểu có Trng Bồn, cột
mốc số 0 - đường mịn Hồ Chí Minh...
Di tích lưu niệm danh nhân: thiên nhiên và con người xứ Nghệ ln gắn bó
với nhau. Thiên nhiên cùng lịch sử đã hun đúc nên con người xứ Nghệ. Nhà thơ,
nhà yêu nước Nguyễn Xuân Ôn từng thốt lên:
“Non nước Châu Hoan đẹp tuyệt với
Sinh ra trung nghĩa biết bao người ...”
Những con người xứ Nghệ đã góp cơng sức, trí tuệ của mình tạo cho văn hố
xứ Nghệ có bản sắc dân tộc độc đáo. Đó là những con người mang trong mình
những đức tính: khi xơng pha lửa đạn thì anh dũng hy sinh, khi chịu đựng gian khổ
thì gan góc lầm lì; khi theo việc lớn, việc nghĩa thì thuỷ chung son sắt. Chính họ đã
hy sinh trọn cuộc đời mình cho độc lập của Tổ quốc tự do của nhân dân và đã để
lại cho quê hương một hệ thống các di tích lưu niệm danh nhân. Trong số 26 di tích
lưu niệm danh nhân, tiêu biểu: Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Kim
Liên, nhà cụ Phan Bội Châu ở Nam Đàn, nhà đồng chí Lê Hồng Phong ở Hưng
Nguyên, nhà đồng chí Phan Đăng Lưu ở Yên Thành, nhà thờ cụ Hồ Án Nam và
nhà Hồ Tùng Mậu ở Quỳnh Lưu ...
Hầu hết các di tích lưu niệm danh nhân của Nghệ An đều được bảo tồn và
phát huy tốt tác dụng giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, Khu di tích
Kim Liên hàng năm phục vụ hàng chục triệu lượt khách thập phương hành hương
về quê Bác.
Di tích kiến trúc nghệ thuật là những cơng trình văn hóa có kiến trúc cổ,
đẹp,thường là những ngơi đình , đền , chùa , miếu có giá trị tiêu biểu trong các giai
đoạn phát triển nghệ thuật kiến trúc của dân tộc, ví dụ : đền hồng sơn, đền quang
trung, đền thờ vua Mai….
Danh lam thắng cảnh là những cảnh quan thiên nhiên , địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ ,
tiêu biểu như : núi Quyết và khu vực phượng hồng trung đơ, khu di tích kim
liên…
1.2.4. Đặc điểm kiến trúc.
Mỗi cơng di tích là một cơng trình kiến trúc có giá trị tiêu biểu cho một hay
nhiều giai đoạn phát triển của kiến trúc nghệ thuật của dân tộc. Cùng với sự đa
dạng về loại hình ,mỗi loại di tích có những đặc điểm kiến trúc – điêu khắc riêng
biệt. Tuy nhiên ,dù là đình , đền ,chùa ,miếu hay nhà thờ họ đều ít nhiều mang
phong cách kiến trúc dân gian truyền thống việt nam.
Yếu tố xây dựng đầu tiên là cần có vị trí đẹp ,cao ráo, có thể hội tụ đầy đủ linh
khí của trời đất với khơng gian thống đãng và n bình,hài hịa với thiên nhiên
nên kiến trúc thường có sự kết hợp giữa “kiến trúc đóng” và “kiến trúc mở” .Kết
cáu thường có sự kết hợp hài hịa giữa âm và dương , có trước có sau,có cảnh trí
hai bên cân đối. Hầu hết các cơng trình kiến trúc thường khơng đồ sộ mà có quy
mơ vừa và nhỏ.Bố cục giản di, mộc mạc , nhẹ nhàng , thanh thoát, ít có nhũng hình
thức nặng nề, lịe loẹt , rườm rà phô trương.
Đền , Chùa là kiến trúc phật giáo thường được xây dựng trên mảnh đất hội tụ
khí thiêng của đất trời ,vị trí đẹp, hài hịa giữa các yếu tố : thiên, nhân ,địa,có
khung cảnh tĩnh lặng.Kiến trúc thường bao gồm cổng tam quan, sân chùa, nhà bái
đường, chính điện và hậu đường. Ngồi ra cịn có vườn cây,ao sen,giếng.Về đại thể
,kiến trúc bên ngoài của đền cũng có những đặc điểm cơ bản giống với chùa , chỉ
khác về nội dung thờ cúng.
Khác với đền, chùa thì đình thường lấy vị trí trung tâm , có kiến trúc đơn giản
hơn. Đình thường là một ngơi nhà to , rộng , có 3 đến 5 gian, xây dựng bằng những
cột lim to , tròn và thẳng,tường xây bằng gạch , mái lợp ngói mũi hài.Gian giữa
thờ thành hồng làng, có một chiếc trống cái dùng để tập trung quần chúng khi hội
họp. Phía trước đình là mội cái sân rộng,là nơi tổ chức các sự kiện quan trọng của
làng.
Miếu có quy mô nhỏ hơn đền , thường tọa lạc nơi yên tĩnh , thiêng liêng, xa
khu dân cư, là nơi yên nghỉ của các vị thánh thần.Miếu thường có 3 gian,khơng có
nhà tả , hữu , sân nhỏ, khơng có tam quan.Đối tượng thờ cúng rất đa dạng. Miếu
cũng là nơi thờ những người có cơng với non song đất nước.
Thành lũy được xây dựng theo kiến trúc phòng ngự , phục vụ chủ yếu cho
mục đích quân sự , quốc phịng . bố cục thành lũy có các dạng khác nhau như hình
vng , đa giác… vật liêu xây dựng rất đa dạng gồm : đất ,đá ,gạch , vôi vữa.kiến
trúc lăng mộ là những cơng trình lăng tẩm , mộ táng của những anh hùng dân tộc,
người có cơng to lớn với dân với nước.
Mỗi cơng trình là kết quả của một quá tả trình sáng tạo cuả nhân dân ta trong
suốt thời kỳ lịch sử, thể hiện tài hoa, trình độ thẩm mỹ , điêu khắc của cha ông
trong lịch sử.
Chương 2 : ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH LỊCH
SỬ - VĂN HĨA TỈNH NGHỆ AN.
2.1 Một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu.
2.1.1 . Đền Quang Trung.
Đền Quang Trung tọa lạc trên núi Dũng quyết là một trong những cơng trình
tiêu biểu của Lâm viên Núi Dũng Quyết và khu vực Phượng Hồng Trung Đơ.
2.1.1.1 Danh nhân Quang Trung – Nguyễn Huệ.
- NGUYỄN HUỆ (1789 – 1792)
Nguyễn Huệ còn gọi là Hồ Thơm, là con trai của ông bà Hồ Phi Phúc,
Nguyễn Thị Đồng, quê ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thạnh, huyện Tuy Viễn, phủ Quy
Nhơn, thường gọi là ấp Tây Sơn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là
Hồ Phi Phúc , Mẹ là Nguyễn Thị Đồng .Tổ tiên của Nguyễn Huệ vốn gốc họ Hồ ở
xã Quỳnh Đôi , Huyện Quỳnh Lưu , Nghệ An, sau di cư về xã Thái Lão , nay thuộc
Xã Hưng Đạo , huyện Hưng nguyên , tỉnh Nghệ An. Hồ Phi Phúc đi theo nhóm
chúa Nguyễn vào vùng miền Nam Trung Bộ, lập cơ nghiệp mới ở ấp Tây Sơn,
huyện An Khê, đổi sang họ Nguyễn.
Gia đình này có ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ,
trong đó Nguyễn Huệ là em út. Lúc nhỏ ơng có tên là Hồ Thơm, tức chú Ba Thơm.
Cái tên Huệ là do thầy giáo Hiến đặt cho. Thầy giáo vốn là người Huế, vào dạy học
ở đất An Thái, phát hiện ra tài nǎng của mấy cậu bé này, thường khuyến khích lớp
trẻ bằng một câu sấm - không rõ ông lấy từ đâu: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công"
(nổi lên ở Tây Sơn sẽ lập công lớn ở miền Bắc).
Các tài liệu xưa đều cho biết Nguyễn Nhạc xuất thân chỉ là một viên biện lại,
thường gọi là biện Nhạc, có nghề bn trầu. Bất bình với sự chuyên quyền của
Trương Phúc Loan và chúa Nguyễn đàng trong, ông đã cùng các em nổi dậy, cướp
được Quy Nhơn, rồi dựng nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Nǎm 1776, Nguyễn Nhạc
xưng là Tây Sơn vương, cho Nguyễn Huệ làm phụ chính,Nguyễn Lữ làm thiếu
phó, xây dựng thủ phủ ở Đồ Bàn.
Hai nǎm sau (1778) Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thái
Đức,phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm tiết chế.
Trong suốt hơn 20 nǎm đời chinh chiến, Nguyễn Huệ chưa hề chùn bước.
Ông tin tưởng vào quần chúng biết trọng dụng nhân tài, có niềm tin tuyệt vời vào
khả nǎng của mình. Ơng cịn là vị danh tướng chỉ đánh thắng, khơng có bại.
Giúp anh là Nguyễn Nhạc, ông đã 4 lần vào đánh Gia Định, bắt Nguyễn Ánh (sau
này là vua Gia Long) phải mấy phen chạy trốn ra biển.
Năm 1784 , trước nguy cơ sụp đỏ của chính quyền chúa nguyễn ở đang trong,
Nguyễn Ánh đã sang xiêm cầu cứu viện trợ .được tin 5 vạn quân Xiêm – Nguyễn
kéo sang nước ta , Nguyễn Nhạc ra lệnh cho Nguyễn Huệ cầm quân mai phục ở
đoạn sông Tiền Giang từ Rạch gầm – Xoài Mút và giành được thắng lợi.
Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút đã đi vào lịch sử như những chiến công hiển
hách, một trang quyết chiến tiêu biểu ,một trang sử vàng của dân tộc, thể hiện tài
năng quân sự và tinh thần chiến đấu kiên cường của nghĩa quân tây sơn.
Nǎm 1786, được sự mách nước của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ đem
quân kéo vào thăng long , chính quyền chúa Trịnh đã bị lật đổ, trao trả quyền
hành cho vua Lê .
Năm 1788 , trong lúc chính quyền Vua Lê đang trên đà suy yếu , gặp lúc Lê
Chiêu Thống sang cầu cứu nhà thanh , Tôn sĩ nghị dẫn đầu 29 vạn quân thanh
chia làm 4 đạo tiến công sang nước ta.Trong bối cảnh đó,Nguyễn Huệ chọn ngày,
lập đàn tế trời đất, thần sơng, thần nước tại núi Bân Sơn ( Huế) ,ngày 22/12 /
1788(tức 25/11/năm mậu thân) đăng quang hoàng đế, đặt hiệu là Quang Trung và
ra qn ngay sau đó. Ơng tun bố: Chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân xâm lược
và hẹn trước sẽ cùng quân sĩ ǎn tết với nhân dân Thǎng Long vào ngày 7 tháng
giêng.
Với lực lượng quân đội 10 vạn người ,dưới sự lãnh đạo tài tình của Nguyễn
Huệ cùng với tinh thần chiến đấu của đội quân chỉ trong 5 ngày đêm, quân tây sơn
đã đánh bại quân đội nhà Thanh đông gấp 3 lần , làm nên chiến thắng Ngọc Hồi –
Đống Đa.
Để tưởng nhớ sự nghiệp và ơng lao vĩ đại của hồng đế Quang Trung, nhân
dân Nghệ An cùng với lãnh đạo đã thông nhất xây dựng đền thờ vua Quang Trung
trên núi quyết , nơi Nguyễn Huệ đóng đơ.
2.1.1.2 Quá trình xây dựng – kiến trúc.
Theo thần thoại , khi xưa có 100 con phượng hồng bay qua song lam thì có
99 con để lại ngộn hồng lĩnh , con thứ 100 chính là núi quyết .
Quang Trung - vị vua nổi tiếng với chiến công đại thắng quân Thanh, một
trong những huyền thoại chống giặc ngoại xâm hiển hách nhất của lịch sử dân tộc
ta, với tư cách là Bắc Bình Vương đã phát hiện và nhận thấy đây là địa điểm chiến
lược để xây dựng kinh đô , làm gốc rễ sâu bền cho sự phồn vinh của đất nước.
Để tỏ lòng biết ơn vị Anh hùng áo vải dân tộc, UBND tỉnh Nghệ An đã ra
quyết định ngày 23/7/2004 xây dựng đền thờ Vua Quang Trung tọa lạc trên đỉnh
thứ 2 núi Dũng Quyết có độ cao 97m so với mặt nước biển, thuộc vùng đất linh
thiêng được Vua Quang Trung chọn đóng đơ cách đây hơn 220 năm.
Đền được khởi công xây dựng vào tháng 7/2005 và hoàn thành vào tháng 5/
2008.Dự án xây dựng đền thờ Quang Trung mang nặng tính đặc thù văn hóa – lịch
sử vì thế , phải có giải pháp kiến trúc phù hợp với mục đích và yêu cầu của một
ngôi đền thờ truyền thống.
Kết cấu của công trình gồm có : sân lễ hội, đường lên xuống đền, sân đền
chính, sân đền trước , nhà tiền đường , nhà trung đường , nhà hậu cung , nhà tả vu,
hữu vu, nhà nghi môn, hai nhà bia , bình phong, tứ trụ, bia dẫn tích và các hạ tầng
kỹ thuật khác.
Bãi đậu xe cũng đồng thời là sân lễ hội, nơi diễn ra phần hội ,trò chơi dân
gian, múa hát, thể thao…sân có diện tích là 1.800m 2 , kết cấu bằng bê tông mác
200, dày 10cm.lối vào đền là dãy cầu thang 99 bậc đi thẳng vào sân trước đền biểu
trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu , tương ứng với 99 con phượng hồng.
Đương lên xng đền được lát bằng đá Thanh Hóa. Hai bên đường là 2 dãy
cây sanh.
Sân trước đền có diện tích : 1.400 m2 , được lát bằng gạch bát cổ phục chế loại 30 x
30 cm . Trước cửa đền là 2 con voi bằng gỗ chầu 2 bên.
*Nhà Nghi Mơn.
Bước vào cổng chính là nhà nghi mơn, có diện tích là 48m 2.Đền có 3 cổng :
cổng chính và hai cổng nhỏ đối xứng hai bên. Cổng chính bố trí một gian hai dĩ ,
mặt đứng kết cấu 2 tầng mái kiểu chồng diêm , các góc đao uốn cong, có góc bờ
nóc, đầu kìm.Cổng chính và cổng phụ đều lợp ngói mũi hài, nền lát gạch bát cổ
phục chế loai. 30 x 30 cm, các kết cấu gỗ đều bằng lim. Bước vào cổng chính là
hai tượng quan hộ pháp đứng trấn giữ hai bên , với chức năng , nhiệm vụ là theo
dõi , kiểm sốt.
*Hai nhà Bia .
Bố cục hình vng 6 x 6 m , kết cấu khung vì nóc chồng rường, xà nách con
chồng: mặt đứng hai tầng mái, phần mái trên có chắn mái con tiện , 8 góc mái có
đầu đao,kìm nóc , gỗ đều bằng lim.mái lợp ngói mũi hài hai lớp, gạch bát kiểu cổ
phục chế. Nhà bia bên phải bỏ trống và bia ghi công trạng của Quang Trung,nhà
bên trái là gác chng , có bia chiếu của Hoàngđế Quang Trung – Nguyễn Huệ ,bia
chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi hoang đế Quang Trung.
* Nhà tả vu và Hữu vu.
Hai ngơi nhà này có kết cấu giống nhau. Diện tích là 80m 2/ nhà.Kết cấu nhà 5
gian , 3 hàng cột , kết cấu vì kèo kiểu chồng rường giá chuông, hạ kẻ truyền liền
bẩy. Hệ thống cửa kiểu bức màn thượng song hạ bản .Nhà tả vu có chức năng
chính là soạn lễ , nghỉ ngơi. Nhà tả vu có chức năng trưng bày các hiện vật , di vật
có liên quan đến hồng đế Quang Trung và triều đại tây sơn.
*Nhà tiền đường.
Có diện tích là 180m2 , thiết kế 3 gian , 2 dĩ , 4 hàng cột,kết cấu vì kèo chồng
rường, mặt đứng kết cấu 2 tầng mái, ở giữa có hệ chắn song con tiện để thơng gió,
lấy ánh sáng ; 4 góc đầu đao uốn cong , bậc cấp có chồng chầu bằng đá. Gian chính
giữa là tiền đường là nơ thị đức phật thích ca mau ni, bên hữu thờ Tứ phủ công
đồng , bên tả thờ trấn phủ Nghệ An Thận trực Hầu.
Nhà trung Đường.
Có diện tích là 160m2 , nhà bố trí 3 gian 2 dĩ , 4 hàng cột, mặt đứng kết một
tầng mái. Gian giữa là bàn thờ cộng đồng, bên hữu thờ quan võ là Thủy sư đô đốc
Ngô văn Sở, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân.Bên tả thờ quan văn là Ngơ thì Nhậm
, La sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Phạm Cơng Trị.
*Nhà hậu cung.
Có diện tích là 60m2 . Mặt bằng được kết nối với nhà trung đường , gồm 3
gian thu hồi , 2 hàng cột với 2 cột. Gian giữa thờ Hoàng đế Quang TRung, bên tả
thờ vương phụ Quang trung. Trong nội thất có 5 pho tượng : tượng vương phụ ,
vương mẫu , Vua Quang Trung và tượng hộ pháp đều được làm bằng chất liệu
bằng đồng.
Ngồi ra cịn có bình phong , tứ trụ , bia dẫn tích làm bằng đá thanh hóa khối
lớn , có chạm khắc họa tiết.
2.1.1.3. Đời sống tâm linh và lễ hội.
Đền thờ vua Quang trung hàng năm đều hốn tiếp hàng vạn lượt khách khắp
mọi miền tham quan. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây số lượng khách đã tăng
lên nhiều hơn so với các năm trở về trước. Lượng khách đông nhất thường là vào
dịp tết và kéo dài cho đến hết tháng 2 âm lịch. Mọi người đến đây chủ yếu là thắp
hương, tham quan, tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân đối với hoàng đế Quang Trung.
Hàng năm , đền thờ tổ chức vào 3 ngày lễ lớn :
- Ngày 5/1 âm lịch : kỉ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa.
- Ngày 29/7 âm lịch : ngày mất của vua Quang Trung.
- 1/ 10 dương lịch : ngày hoàng đế quang trung ra chiếu dời phú xuân ra phượng
hoàng trung đô.
Trong đó ngày giỗ Quang Trung được coi là ngày quan trọng nhất. phần lễ bao
gồm nghi thức tế lễ, đọc văn tế, lễ dâng hương. Phần hội thường tổ chức thi võ
thuật, đấu kiếm, kéo co, thi hát dân ca…
Mặc dù vậy, các ngày lễ này chưa trở thành lễ hội thường xun và có tính
kêu gọi quần chúng. Các ngày lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh than thế và sự
nghiệp của hoàng đế Quang Trung và vương triều tây sơn đồng thời giáo dục
truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của dân ta.
2.1.2 khu di tích Mai Hắc Đế.
Khu di tích vua Mai Hắc Đế nằm ở ven sông Lam, thuộc địa phận thị trấn
Nam Đàn (huyện Nam Đàn), cách thành phố Vinh khoảng 22km về phía tây. Đền
được xây dựng để tưởng nhớ cơng ơn vua Mai Hắc Đế - vị anh hùng có công đuổi
đánh giặc Đường, bao gồm 3 hạng mục là đền vua Mai, mộ vua Mai và mộ mẹ vua
Mai.
2.1.2.1 Q trình xây dựng và trùng tu tơn tạo.
* Đền vua Mai Hắc Đế.
Đền thờ vua Mai được xây dựng trên một mảnh đất rộng rãi thoáng đãng tại
vùng đất Sa Nam. Trước đây đền vua Mai là một ngôi đền nhỏ, kiến trúc đơn giản.
Đến năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) được xây dựng khang trang, to đẹp, kiến trúc
theo kiểu chồng diêm 8 mái. Lần trùng tu gần đây nhất vào đầu thời Nguyễn. Đền
được giữ nguyên kiến trúc theo kiểu chữ “Tam”, hạ điện 5 gian theo kiểu chồng
diêm 8 mái, quy mô tương đối lớn, trang trí rồng phương cơng phu, các câu đối,
đại tự, hương án kiệu rồng được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Đền có diện tích trên
10.000m2.cơng trình bao gồm: cổng tam quan, nhà hạ điện, nhà trung điện, thượng
điện.
+Cổng tam quan.
Cổng tam quan được xây dựng theo hướng vươn cao đồ sộ với kết cấu hình
trụ vng kết hợp với những nét gờ được tỉa tót và trang trí khá cơng phu. Nhìn
tổng qt hai bên có 2 con ngựa được đắp bằng xi măng. Phía trước hơi tiến lên
một chút là 2 con voi. Ngựa và voi là hai con vật gần gũi với vua lúc ra trận.
ở hai bên cổng có hai câu đối bằng chữ hán mà thông qua việc dịch thuật tốt
lên niềm tự hào và sự hồi cổ của kinh đô xưa:
“Vân phi vũ tuyển tân cao các
Thủy nhiểu sơn hồi cựu đế đô”.
Nghĩa là :
“mây bay mưa cuốn lầu gác mới
Nước lượn non chầu đế đô xưa”
Cổng tam quan tạo cho ngơi đền một khơng gian thống đãng nhưng khơng kém
phần uy nghi ,tơn nghiêm,tính gợi tưởng tượng .
+ Nhà hạ điện.
Từ cổng tam quan đi vào qua một sân rộng ghép gạch đỏ với cây cảnh là đến
hạ điện. Là ngơi nhà có 3 gian 2 hồi, được xây dựng theo kiên trúc chồng diêm 4
mái với quy mô tương đối lớn. Đây là nơi xây dựng để thờ nghĩa binh cùng với thờ
cộng đồng
Bên trong có đặt bức hoành phi bằng gỗ đề bốn chữ hán “Nam bang kiều sở”
có nghĩa là “Nước nam đẹp đẽ anh hùng”. Nằm ở giữa gian có đặt một hương án
làm bằng gỗ sơn đen. Hai bên đặt 2 chiếc kiệu gỗ to được sơn on thiếp vàng. Góc
phải hạ điện có treo một chiếc chng đồng nặng khoảng 50 – 60 kg.Đỉnh chng
được chạm khắc hình đầu rồng, đặt cạnh là chiếc trống to.
+Nhà Trung điện.