Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

BDTX 2015 Phan Dia Phuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.17 KB, 46 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>LỜI NÓI ĐẦU Thực hiến kế hoạch kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên theo Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT ngày 10/7/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để nhằm bổ trợ kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn cho giáo viên, Sở Giáo dục và Đào tạo tập hợp, biên soạn tài liệu phục vụ chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Ngữ văn cấp THCS (thời lượng 30 tiết), tài liệu gồm các nội dung sau: - Định hướng phương pháp dạy kiểu bài văn nghị luận xã hội - Một số định hướng giảng dạy các tiết ôn tập trong chương trình Ngữ văn THCS - Định hướng tiến trình dạy các bài "hướng dẫn đọc thêm" phần văn bản trong chương trình ngữ văn trung học cơ sở Trong quá trình biên soạn, mặc dầu đã có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những thiếu sót, về nội dung cũng như hình thức. Trong quá trình nghiên cứu, học tập rất mong các thầy, cô giáo, đồng nghiệp chỉ ra những thiếu sót, góp ý kiến để cuốn tài liệu ngày càng được hoàn thiên hơn. Xin chân thành cảm ơn!. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TĨNH.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG GIẢNG DẠY CÁC TIẾT ÔN TẬP TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS. Vũ Xuân Lạng - Chuyên viên phòng GDĐT Kỳ Anh. I. Tổng quan về cấu trúc chương trình Trong toàn bộ chương trình giảng dạy của tất cả các bậc học từ bậc Tiểu học đến đại học thì ôn tập (review) là một phần tất yếu của chương trình. Tuy chiếm một phần không đáng kể so với toàn bộ cấu trúc của chương trình giảng dạy và học tập nhưng những tiết ôn tập lại có một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Ôn tập (review) theo nghĩa phổ thông được hiểu là: Học lại để nhớ và để nắm chắc kiến thức. Hoặc: Hệ thống lại kiến thức đã dạy để học sinh nắm chắc chương trình đã học. Như vậy, trong chương trình giảng dạy dù ở bậc học nào thì cũng có tiết ôn tập. Nhìn lại tài liệu phân phối chương trình môn Ngữ văn áp dụng cho cấp THCS bắt đầu từ năm học 2007-2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo chúng ta thấy tổng số tiết bộ môn Ngữ văn là 595 tiết, trong đó các khối lớp 6,7,8 mỗi tuần là 4 tiết x 35 tuần = 140 tiết, riêng lớp 9: 5 tiết/tuần x 35 tuần = 175 tiết trong đó phân môn tiếng Việt chỉ có 30 tiết trong tổng số 595 tiết của toàn cấp học chiếm 0,05 %: phần Ôn tập tiếng Việt chỉ có vẻn vẹn 10 tiết chiếm tỉ lệ 0,017% trong tổng số tiết của phân phối chương trình cụ thể lớp 6 (3 tiết); lớp 7 (2 tiết); lớp 8 (3 tiết); lớp 9: (2 tiết). Trong khung phân phối chương trình (bổ sung phần giảm tải) của Sở GDĐT Hà Tĩnh thì tiết Ôn tập tiếng Việt đã được tăng thêm cụ thể lớp 6:(4 tiết: 66,130,131,136); lớp 7: (4tiết: 68, 69, 123,129); lớp 8 (3 tiết: 59,63,126); lớp 9: (3 tiết: 73, 137,138 ) tổng tất cả là: 14 tiết chiếm tỉ lệ: 0,024% không kể các tiết luyện tập, tổng kết, kiểm tra. Như vậy, nhìn tổng quan về toàn bộ của cấu trúc chương trình hiện nay của Bộ và của Sở GD-ĐT thì các tiết ôn tập phần tiếng Việt mới chỉ chiếm chưa đến 0,5 %. Một tỉ lệ bất hợp lý và chưa tương xứng với tổng số tiết của bộ môn Ngữ văn nói chung và của phân môn Tiếng Việt nói riêng. Điều đó đã tác động tiêu cực đến kết quả học tập Ngữ văn của học sinh chúng ta hiện nay..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Việc giảng dạy kiến thức mới là hết sức quan trọng nhưng nếu không có ôn tập thì các kiến thức cũng sẽ không được củng cố một cách bền vững trong tư duy của học sinh. II. Thực trạng Trong thực tế giảng dạy các tiết tiếng Việt vẫn thường được giáo viên lựa chọn khi thao giảng hay dự giờ thanh tra nhưng nếu đúng giờ Ôn tập thì giáo viên chúng ta thực sự băn khoăn lo lắng bởi giáo viên thường quan niệm các tiết ôn tập không riêng gì tiếng Việt mà tiết ôn tập của các phân môn khác và bộ môn khác cũng được xem là “khó nhằn” không phải ở các đơn vị kiến thức mà chính là ở sự lựa chọn hệ thống phương pháp giảng dạy hợp lý. Chúng ta cần thống nhất với nhau rằng sẽ không có một phương pháp độc tôn hay duy nhất cho tất cả các bài ôn tập tiếng Việt mà người dạy phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức của từng tiết ôn tập để lựa chọn phương pháp thích hợp, bài tập hợp lý. Mặt khác, giờ ôn tập không phải là tiết học mà giáo viên trình bày lại những kiến thức đã dạy một cách đơn điệu. Muốn vậy thì người dạy phải thực sự sáng tạo và nghệ thuật để kết hợp với phương pháp khác nhằm đưa học sinh (người học) vào vai trò chủ động. Trong giờ ôn tập giáo viên cần kiểm tra lại kiến thức cũ thông qua hệ thống các câu hỏi, bài tập để góp phần cũng cố kiến thức và kỹ năng cho học sinh. Phần đông giáo viên do lúng túng chưa chọn được phương pháp thích hợp cho tiết dạy ôn tập tiếng Việt nên lệ thuộc vào Sách giáo viên thiếu sáng tạo và linh hoạt trong việc đa dạng hoá kiến thức và bài tập không đơn giản hoá đựoc kiến thức cơ bản trong tài liệu sách giáo khoa mà đôi khi chính giáo viên chúng ta cũng vì do lúng túng phương pháp mà đã vô tình làm phức tạp thêm nội dung các kiến thức của SGK, không hiểu ý đồ của người biên soạn dẫn tới không hình thành và không rèn luyện được kỹ năng làm bài tập cho học sinh. Vì vậy cho nên học sinh khi vận dụng kiến thức để làm bài, nói và viết đều rất lúng túng dẫn tới kết quả học tập không như mong muốn. Trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay, số lượng các tiết ôn tập tiếng Việt chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số tiết của môn Ngữ văn nói chung và cũng vì vậy mà giáo viên chúng ta có quan niệm xem nhẹ các giờ ôn tập coi đó là những giờ làm bài tập có sẵn trong Sách giáo khoa. Như vậy, giáo viên chưa thực hiện đúng chức năng đặc trưng của ôn tập Tiếng Việt nói riêng cũng như các giờ ôn tập các phân môn khác nói chung..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Từ thực tế đó nên trong khuôn khổ tài liệu này chúng tôi đề nghị một số phương pháp và gợi ý nội dung cho các bài ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay để các đồng nghiệp cùng tham khảo và định hướng nội dung ôn tập. III. Định hướng chung Ở môn Ngữ văn lớp 6 THCS tài liệu phân phối chương trình môn Ngữ văn áp dụng cho cấp THCS bắt đầu từ năm học 2007-2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ có 2 tiết Ôn tập tiếng Việt là tiết 66 của tuần 17 học kỳ I (cấu tạo từ, nghĩa của từ, phân loại từ theo nguồn gốc, lỗi dùng từ, từ loại và cụm từ các loại dấu câu) các đơn vị kiến thức này đều là những kiến thức cơ bản trọng tâm của các cấp học phổ thông mà không phải riêng chương trình THCS. Vì vậy, trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là từ vựng? Từ vựng là vốn từ của một ngôn ngữ… thực tế nhiều giáo viên chưa hiểu khái niệm từ vựng nên trong giảng dạy có những nhầm lẫn không đáng có hoặc có những ví dụ mà độ tin cậy và tính khoa học chưa chính xác, tiết 130, 131 tuần 33 của học kỳ 2, còn khung phân phối chương trình của Sở GDĐT Hà Tĩnh thì có 03 tiết ôn tập tiếng Việt. Về nội dung các tiết Ôn tập trong chương trình Ngữ văn 6 chủ yếu là kiến thức về từ vựng, cụ thể là phần Tiếng Việt Ngữ văn 6 tập 1 tập trung vào các vấn đề về từ vựng như: từ mượn, Nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa của từ, danh từ và cụm danh từ, tính từ và cụm tính từ, động từ và cụm động từ, số từ, lượng từ, chỉ từ…Ở tập 2 ngoài tiết học phó từ tập trung chủ yếu vào các vấn đề về câu và các biện pháp tu từ. Cụ thể: a. Các vấn đề về câu: - Các thành phần chính về câu - Câu trần thuật đơn và các kiểu câu trần thuật đơn - Chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ. b. Các biện pháp về tu từ từ vựng: - So sánh - Nhân hoá - Ẩn dụ - Hoán dụ Yêu cầu học sinh cần có ý thức vận dụng các đơn vị kiến thức vào việc đọc - hiểu văn bản chung ở phần văn và tạo lập các kiểu văn bảnở phần Tập Làm văn …Trong tài.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> liệu Sách giáo khoa nội dung kiến thức ôn tập rất đơn giản nếu giáo viên không thực sự nắm vững mục tiêu yêu cầu của tiết dạy thì sẽ lãng phí thời gian và không đạt được yêu cầu chung của tiết ôn tập. Ví dụ tiết Ôn tập tiếng Việt (tiết 66) nội dung Sách giáo khoa Ngữ văn 6 trang 169, 170, 171 NXBGD chỉ có 5 lược đồ về cấu tạo từ, nghĩa của từ, phân loại từ theo nguồn gốc, lỗi dùng từ, từ loại và cụm từ các loại dấu câu. Thoạt nhìn giáo viên dạy thấy khá đơn giản nhưng với thời lượng 45 phút đối với học sinh lớp 6 thì quả không đơn giản và cảm thấy rằng tác giả biên soạn còn thiên về khối lượng kiến thức mà chưa chú ý đến việc rèn luyện kỹ năng nhận biết cách cấu tạo, hiểu nghĩa của từ cũng như cách sử dụng đúng các loại dấu câu…Vì vậy, tiết Ôn tập tiếng Việt này giáo viên cần xác định đúng mục tiêu yêu cầu và chuẩn kiến thức cơ bản để chọn các đơn vị kiến thức và bài tập để giảng dạy mà không nhất thiết phải dạy hết các kiến thức như có trong SGK. Giáo viên cần phải cụ thể hoá các sơ đồ 1…5 trong SGK bằng hệ thống bài tập và đối với các tiết dạy ôn tập Tiếng Việt giáo viên có thể không kiểm tra bài cũ mà lồng ghép hoạt động này thông qua hoạt động làm bài tập của học sinh để củng cố các kiến thức kỹ năng…giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm bài tập phát hiện như sau: Bài tập1: Hãy kể các từ đơn và từ phức, từ ghép và từ láy có ở ví dụ sau: a. Nắng cuả mùa thu là sắc lá vàng ngập lối ta đi, là những bông cúc nở xoè bên hiên nhà lặng lẽ. Nắng mùa thu là mênh mang sắc vàng trái thị, của những cây rạ mẹ phơi. Mùa đông nắng hiếm hoi ngậm ngùi, một chút nao nao nuối tiếc…Bất chợt một chiều đông vài giọt nắng rớt xuống bên hiên, cô bé ngơ ngác nhìn, đưa tay ra hứng… (Lương Đình Khoa) b.Buổi sáng sương muối phủ trắng cành cây bãi cỏ. Gió bấc hun hút thổi. Núi đồi, thung lũng, làng bản chìm trong biển mây mù. Mây bò trên mặt đất, tràn vào trong nhà quấn lấy người đi đường… Bài tập 2: Hãy chia các từ đã cho sau đây thành 2 nhóm: nhóm từ ghép và nhóm từ láy. May mắn; kiến lửa; phập phồng; chông chênh; đinh ba; ba dọi; ăn chơi, cà tím; làng xóm; mời mọc; đường sá; mương máng; lặng lẽ; gần gũi; cột cờ; cá cờ; ngơ ngác, ngậm ngùi….

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Lưu ý: Từ láy hay còn gọi là láy từ cũng chính là một trong những biện pháp tu từ từ vựng. Trong quá trình giảng giáo viên cần lưu ý để học sinh hiểu được nội dung của đơn vị kiến thức này…. Đối với sơ đồ 2 (trang 170) như sau: Nghĩa của từ. Nghĩa gốc. Nghĩa chuyển. Giáo viên cần chú ý củng cố lại khái niệm về nghĩa gốc và nghĩa chuyển để học sinh hiểu và vận dụng trong quá trình sử dụng từ thông qua hệ thống bài tập. Giáo viên có thể tham khảo các bài tập sau đây: Bài tập 1: Nghĩa cuả từ “vàng”trong những ví dụ sau được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyển: a. Cô gái vàng. b. Một ngày vàng. c. Vàng ròng. d. Tấm lòng vàng. e. Huy chương vàng. Bài tập 2: Từ “đầu”trong những ví dụ sau từ nào được dùng với nghĩa gốc từ nào được dùng với nghĩa chuyển. Hãy giải nghĩa từ trong từng ví dụ cụ thể: a. Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh… (Tố Hữu) b.. Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông… (Nguyễn Du).

<span class='text_page_counter'>(7)</span> b. Đêm nay rừng hoang sương muối …………………… Đầu súng trăng treo. (Chính Hữu ) c.. Ngang lưng thì thắt bao vàng Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài… (Ca dao). Cũng trong nội dung tiết ôn tập này phần phân loại từ theo nguồn gốc là một trong những đơn vị kiến thức khó đối với học sinh đặc biệt là kiến thức có nguồn gốc từ tiếng Hán hay từ Hán-Việt. Trước hết cần phải giúp học sinh hiểu được khái niệm từ Hán Việt: Từ Hán-Việt là những từ có nguồn gốc Hán nhưng phát âm theo tiếng Việt. Trong chương trình Ngữ văn THCS từ Hán -Việt đựơc bố trí ở lớp 7 với số lượng là 2 tiết như vậy quả là quá ít so với yêu cầu thực tế cuộc sống hiện nay. Đối với tiết ôn tập này, giáo viên nên xây dựng một hệ thống bài tập để minh hoạ cụ thể cho sơ đồ của SGK và cuối cùng giáo viên nên sử dụng sơ đồ của SGK để củng cố và hệ thống hoá kiến thức cho học sinh như vậy thì tiết dạy ôn tập vừa nhẹ nhàng vừa hiệu quả. Thường thì tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THCS có khối lượng kiến thức khá lớn, chẳng hạn như tiết ôn tập này có tới 5 sơ đồ ôn tập kiến thức vì vậy trong thời gian 45 phút giáo viên không thể hướng dẫn học sinh ôn tập và củng cố rèn luyện kiến thức như SGK đã trình bày mà giáo viên cần lựa chọn bài tập, đơn vị kiến thức để ôn tập cho học sinh. Tiết 130: Ôn tập về dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy) Tiết ôn tập này đối với học sinh lớp 6 có một ý nghĩa quan trọng là củng cố lại các đơn vị kiến thức về dấu câu cụ thể là dấu chấm và dấu phẩy để rèn luyện cho các em kỹ năng về sử dụng các loại dấu câu nói chung và dấu chấm, dấu phẩy nói riêng. Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là hình thức giao tiếp rất quan trọng nó bổ sung những hạn chế của ngôn ngữ nói (cả về không gian và thời gian). Dấu câu là dấu hiệu hình thức của câu nó giúp người viết thể hiện được ý định của mình một cách chính xác, rõ ràng và logíc khoa học kể cả các sắc thái tình cảm của cuộc sống con người….

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Dấu câu được dùng để nhận biết hành phần này với thành phần kia. Vì vậy, về nguyên tắc ngữ pháp chung có thể dùng các dấu câu theo vị trí ở sau mỗi câu, giữa các thành phần câu so với nòng cốt C-V, hay thành phần tách xen… Định hướng nội dung tiết dạy: a. Trước hết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững công dụng của dấu chấm. Cụ thể như sau: 1.Dấu chấm (.) Thường được dùng để kết thúc câu tường thuật (hay trần thuật, câu kể). Ví dụ: a. Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở trắng xoá. b. Sớm. Chúng tôi tụ hội ở góc sân. Toàn chuyện trẻ em. Râm ran. (Duy Khán) Ngoài ra do mục đích tu từ, hay mục đích nhấn mạnh mà dấu chấm còn được dùng ở cuối câu đặc biệt. Ví dụ: a. Mùa thu 1945. b. Mưa. c. Sớm. 2. Dấu phẩy (,) Là loại dấu dùng để tách trạng ngữ đứng đầu câu và các thành phần còn lại của câu. Ví dụ: Để đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới, chúng ta cần cố gắng nhiều hơn. Công dụng: - Dùng để tách đề ngữ với nòng cốt câu. Ví dụ: Bài thơ anh, anh mới làm một nửa. Còn một nửa cho mùa thu làm lấy. (Chế Lan Viên) - Dùng để tách ranh giới các thành phần biệt lập được xen vào trong câu. Ví dụ: Mùa xuân ấy, một mùa xuân sáng ấm và đầy kỉ niệm, vẫn còn khắc sâu vào trong tâm khảm tôi..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Rồi một hôm nào đó, chắc hai cậu bàn nhau mãi, hai cậu bèn rủ Oanh chung vốn mở một ngôi trường.. (Nam Cao). - Dùng để tách các thành phần đẳng lập hay vế câu ghép đẳng lập. -. Anh dắt em vào cõi Bác xưa, Vườn xoài hoa trắng nắng đu đưa. (Tố Hữu). - Học ăn, học nói, học gói, học mở. (Tục ngữ) - Dùng để tách ranh giới thành phần chuyển tiếp với nòng cốt C-V của câu chính. Ví dụ: a. Tóm lại, đó là một công việc khó đối với tôi. b. Tuy vậy, tôi cũng buồn. Buồn đến nỗi không ngủ được. (Ma Văn Kháng) - Dùng để tách bộ phận được nhấn mạnh với nòng cốt của câu. Ví dụ: Y đi may một bộ hàng tơ, ba mươi đồng, thật. (Nam Cao) Tiết 131: Ôn tập về dấu chấm hỏi (?) dấu chấm than (!) Ở tiết ôn tập này giáo viên tiếp tục sử dụng hệ thống bài tập để củng cố và rèn luyện kỹ năng sử dụng dấu chấm hỏi, và dấu chấm than một cách chính xác qua đó cũng nhằm giúp học sinh nhận biết câu nghi vấn và câu cảm thán hay câu hỏi tu từ thông qua dấu hiệu hình thức. Nhưng trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu được công dụng của dấu chấm hỏi (?) và dấu chấm than (!). - Dấu chấm hỏi: (?) Dấu chấm hỏi là loại dấu câu được dùng để kết thúc câu nghi vấn trực tiếp hoặc câu hỏi tu từ. a. Con có nhận ra con không ? b. Con đã nhận ra con chưa ? (Bức tranh của em gái tôi- Ngữ văn 6- Tạ Duy Anh) Lưu ý: Đối với loại câu nghi vấn gián tiếp thì không dùng dấu chấm hỏi ở cuối câu. Ví dụ: Cô ấy không hiểu thế nào là phép lịch sự giao tiếp..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Dấu chấm hỏi còn được dùng để biểu thị sự thắc mắc, sự hoài nghi của người nói về một tình huống nhất định. Trong những trường hợp này dấu chấm hỏi được sử dụng không cần lời bình chú mà đôi khi còn thêm cả dấu chấm than (!) Ví dụ: - Đố cậu trên đầu tớ có tất cả bao nhiêu sợi tóc ? - Một triệu, năm vạn, hai nghìn, bốn trăm hai mươi mốt sợi. - ??? !!! Nếu không tin thì cậu thử đếm thử xem. - Dấu chấm hỏi có khi được dùng trong câu hỏi nhưng kì thực là lời đáp. Ví dụ: a. Em có phải là cô bé lọ lem không ? b. Sao anh lại tò mò như vậy ? Bài tập 1: Hãy dùng dấu chấm hỏi để điền vào dấu ngoặc đơn ( ) trong đoạn văn sau: Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu ( ) Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư ( ) Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao ( ) Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu ( ) (Buổi học cuối cùng - A. Đôđe) Bài tập 2: Đoạn đối thoại sau đây có dấu chấm hỏi nào dùng chưa đúng không ? Vì sao? - Bạn đã có lần nào đến thăm động Phong Nha chưa ? - Chưa ? Thế còn bạn đã đến chưa ? - Mình đến rồi. Nếu tới đó, bạn mới hiểu vì sao mọi người lại thích đến thăm động như vậy ? Dấu chấm than (!) Dấu chấm than (!) là loại dấu câu được dùng cuối câu cảm thán, nhằm biểu thị cảm xúc chủ quan. Ví dụ: - Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> (Thế Lữ) - Lo thay! Nguy thay! (Phạm Duy Tốn) - Ô ! Cô còn quên chiếc mùi soa đây này ! (Nguyễn Thành Long) Công dụng: + Dùng để biểu thị mệnh lệnh, hay thúc giục cổ vũ, động viên. Ví dụ: - Cháu của ngoại giỏi lắm mà ! (Nguyễn Quang Sáng) + Dùng để biểu thị sự gọi đáp, hiệu triệu. Ví dụ: - Im ! Khổ lắm ! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. (Kim Lân) Bài tập 1: Hãy đặt dấu chấm than vào cuối câu thích hợp trong những ví dụ sau : a. Động Phong Nha thật đúng là “Đệ nhất kì quan” của nước ta b. Chúng tôi mời các bạn đến thăm động Phong Nha quê tôi c. Thôi Ba đi nghe con d. Ba về Ba mua cho con một cây lược nghe ba e. Ôi tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này Bài tập 2: Trình bày công dụng của dấu chấm than, chấm hỏi trong những ví dụ sau: a. Đồng chí !. (Chính Hữu). b. Thanh niên bây giờ lạ thật ! Các anh chị cứ như con bướm. Mà đã mười một giờ, đến giờ “ốp” đâu ? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ ? (Nguyễn Thành Long) c. Thế thì hay quá ! Anh ta…ra sao ?. (Lỗ Tấn). d. Ấy, sao lại khách tình thế ! Chẳng phải là trước kia, vẫn gọi nhau bằng anh em cơ mà ? Cứ gọi là anh Tấn như trước kia thôi !. (Lỗ Tấn).. e. Bác Thứ đâu rồi ? Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết…cải chính cái tin làng Chợ Dầu theo Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! Toàn là sai sự mục đích cả. (Kim Lân).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Bài tập 3 Điền dấu câu thích hợp vào văn bản sau: …“Mẹ vị thiên thần của cuộc đời mỗi con người dù bao nhiêu tuổi ai cũng đã từng được mẹ sinh ra Mẹ cho vóc dáng mẹ cho tâm hồn mẹ là bóng mát trên đường dài đày nắng gió mẹ dắt dìu vượt biển đầy giông tố dù quá khứ hiện tại hay tương lai cuộc đời của con vẫn là tấm lòng của mẹ Ngọn nến lung linh soi sáng trong đêm dài tình mẹ ngời sáng giữa lòng nhân gian” Tiết 123, lớp 7 cũng giống như kiểu bài ôn tập như tiết 126 ở lớp 6, tài liệu SGK chỉ đưa ra sơ đồ như sau: 1. Các kiểu câu đã học: Các kiểu câu đơn. Phân loại theo mục đích nói. Câu nghi vấn. Phân loại theo cấu tạo. Câu trần. Câu cầu. Câu cảm. thuật. khiến. thán. Câu bình thường. Câu đặc biệt. Với sơ đồ này thì nhiều giáo viên lúng túng không biết chọn nội dung kiến thức như thế nào để hướng dẫn cho học sinh ôn tập trong thời lượng 1 tiết 45phút. Để bảo đảm chuấn kiến thức kỹ năng và thời gian giáo viên có thể tham khảo một số bài tập sau : Bài tập 1: Đọc lại đoạn văn bản sau và phân loại câu theo mục đích phát ngôn..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái dây thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: - Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho ! - Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại: - Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ ! (Tắt đèn - Ngô Tất Tố, Ngữ văn 8, tập 1, trang 30) Bài tập 2 Cho câu hỏi sau: - Em vừa nói gì thế ? Hãy trả lời câu hỏi trên lần lượt bằng kiểu câu: Nghi vấn, cảm thán, Cầu khiến, trần thuật ? Bài tập 3 Trong những câu sau đây hãy cho biết câu nào là câu bình thường, câu nào là câu đặc biệt ? a. Đêm. Mặt biển chòng chành chung quanh chúng tôi. Và gió cũng nhè nhẹ, lâng lâng… (Lê Mạnh Thường) b. Cuối thu rồi. Nắng rực như dát vàng. Và heo may như một linh hồn xa vắng từ cõi nào trở về, xao xác mỗi vòm lá rộng, quẫy động trong các khoảng trống vắng nơi cõi lòng. (Ma Văn Kháng) c. Niềm vui vừa chân chất vừa huy hoàng chan chứa trong gia đình, tràn sang cả xóm giềng. Cây mía. Vài lạng đậu xanh. Nửa cân bột sắn… (Ma Văn Kháng) d. Tháng năm âm lịch. Cuối vụ gặt. Nước lấp xấp đồng chiều trơ gốc rạ. Thỉnh thoảng sót lại một vài đám ruộng nhà ai đó chưa gặt, lúa trĩu bông vàng suộm. Tiếng dế nỉ non và tiếng chấu chuộc nhảy tõm xuống nước….

<span class='text_page_counter'>(14)</span> (Sương Nguyệt Minh) e. Trời ngả chiều. Ánh nắng trườn qua khóm lan, len vào tận bên trong cửa sổ, nằm vắt ngang khung tranh. Không gian bức tranh hoàn toàn vàng rười rượi. Duy chỉ có suối tóc đen tuyền của người đàn bà trong tranh, phần phật bay. Cuồn cuộn bay. Mãnh liệt. Cô ấy cũng là người cay đắng. Thăng trầm. Thân phận. Với chị, cô ấy là người có tâm hồn đồng điệu tinh tế. Cô ấy sẽ hiểu chị. Cảm thông. Chia sẻ. (Nguyễn Bính Hồng Cầu) g. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má.. (Lê Minh Khuê). Giáo viên lưu ý học sinh: Người ta cũng gọi câu đặc biệt là câu không xác định thành phần. 2. Các dấu câu đã học SGK đưa ra sơ đồ như sau: Các loại dấu câu. Dấu chấm. Dấu phẩy. Dấu chấm phẩy. Dấu chấm lửng. Dấu gạch ngang. Thoạt nhìn vào sơ đồ, giáo viên chúng ta thấy một khối lượng kiến thức không nhỏ trong thời lượng có hạn 45 phút. Do vậy, đối với những tiết ôn tập như thế này, để đạt được các chuẩn kiến thức và kỹ năng cơ bản cần thiết, giáo viên cần phải chọn các nội dung đơn vị kiến thức để hướng dẫn học sinh ôn tập. Phần này, giáo viên có thể không đưa ra sơ đồ trên như SGK mà sau khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập thì hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ về các loại dấu câu theo bản đồ tư duy hoặc vẽ lại sơ đồ như trên nhưng mục tiêu cuối cùng của tiết ôn tập là học sinh hiểu tác dụng và biết sử dụng đúng các dấu câu đã học. Sau đây là một số bài tập để tham khảo. Bài tập 1 Giáo viên có thể kể và diễn giảng cho học sinh nghe 2 câu chuyện vui sau đây để hiểu được tầm quan trọng của dấu chấm câu..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Câu chuyện thứ nhất: Một ông bố lúc sắp mất cho gọi con trai đến để trối trăng. Ông cụ thều thào dặn con: - Đừng uống trà…uống ruợu con nhé! - Đừng đánh cờ… đánh bạc con nhé! Anh con trai vốn là người có hiếu, luôn nghe lời bố. Sau khi bố qua đời anh đã lao vào uống rượu, đánh bạc đến nỗi bán cả sản nghiệp do bố để lại. Câu chuyện thứ 2: Nhà văn nổi tiếng Đức Tê-o-do Phon-ta-nơ (1819-1898) hồi còn làm biên tập ở Beclin có nhận được tập bản thảo gồm mấy bài thơ của một nhà thơ trẻ gửi tới, kèm bức thư trong đó tác giả viết: “Tôi không chú ý lắm đến các dấu câu, nhờ ông thêm vào hộ cho”. Phon-ta-nơ gửi trả lại ngay những bài thơ đó. Trong bức thư trả lời tác giả, ông viết: “ Lần sau gửi bản thảo, xin ông chỉ ghi những dấu câu thôi, còn thơ thì tôi sẽ điền vào ” (Theo Nụ cười bác học) Bài tập 2 Trình bày tác dụng của dấu gạch ngang trong đoạn văn sau: … “Nào là ga Tiên An - Ga Hà Thanh- ga Quảng Trị- ga Mĩ Chánh - ga Hiền Sĩ - ga Văn Xá-ga An Hoà - ga An Cựu - ga Hương Thuỷ-ga Phú Bài- ga Nong - ga Truồi - ga Cầu Hai - ga Nước Ngọt - ga Thừa Lưu - ga Lăng Cô - ga Liên Chiểu - ga Nam Ô - ga Tua Ran ”… (Nhớ Huế - Nguyễn Tuân) Gợi ý: Dấu gạch ngang ở đây được dùng thay cho dấu phẩy (vốn chỉ sự liệt kê bình thường) để nhấn mạnh, làm nổi bật những cái được liệt kê. Trong dòng tưởng tượng cuả tác giả như có một con tàu đang vượt băng giới tuyến để trở về với Huế, với Đà Nẵng thân thương. Theo hành trình của con tàu từ Bắc vào Nam, các nhà ga cứ lần lượt nối nhịp chạy lướt qua trước nhà văn và biết bao nỗi nhớ niềm thương cũng trải dài như nối liền một dải nước non… Lớp 8 Tiết 59: Ôn luyện về dấu câu ( trang 150, SGK Ngữ văn 8, tập 1 ).

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Đây là tiết ôn luyện mà không phải là tiết ôn tập, vậy nên trọng tâm chuẩn kiến thức và kỹ năng của kiểu bài này là vừa ôn tập kết hợp với rèn luyện kỹ năng sử dụng các loại dấu câu thông qua hệ thống bài tập, trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên : Cụ thể như sau: I.Tổng kết vể dấu câu Sách giáo khoa đưa ra sơ đồ như sau:. Dấu câu. Công dụng. Ở phần này, giáo viên nên hướng dẫn học sinh: - Khái niệm về dấu câu. - Phân biệt các loại dấu câu với thanh điệu. - Tên gọi các loại dấu câu đã học. Với nội dung này, giáo viên có thể tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ học sinh mà lựa chọn các hình thức tổ chức và hoạt động dạy học thích hợp (phiếu học tập, vẽ bản đồ tư duy, hay kiểm tra hệ thống các bài tập…) II. Các lỗi thường gặp về dấu câu Nội dung phần này là hướng dẫn học sinh phát hiện và sữa chữa các lỗi về dấu câu, và trước hết giáo viên cần giúp học sinh hiểu các lỗi thường gặp về dấu câu và phương pháp sữa chữa. Cụ thể, trong quá trình tạo lập văn bản học sinh thường mắc những lỗi về dấu câu sau: a. Thiếu dấu ngắt câu khi câu đã kết thúc. b. Dùng dấu ngắt câu khi câu chưa kết thúc. c. Thiếu dấu câu để tách các thành phần và bộ phận của câu khi cần thiết. d. Nhầm lẫn công dụng của các loại dấu câu. Trên cơ sở xác định các lỗi về cách sử dụng dấu câu, giáo viên lựa chọn nội dung và dạng bài tập thích hợp. Để giúp học sinh rèn luyện kỹ năng về sử dụng các loại dấu câu và sửa chữa các lỗi về dấu câu, giáo viên có thể tham khảo thêm các bài tập sau: Bài tập 1: Những đoạn văn bản sau có sai một số lỗi về dấu câu, em hãy sửa chữa lại cho hợp lý?.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> a. ...Hương hoa dã quỳ dịu nhẹ. Chỉ đủ thoang thoảng. Len lỏi vương vít trong không gian, tạo một cảm giác dễ chịu. Hoa mang một dáng vẻ vừa hoang dại. Khoẻ khoắn lại vừa dịu dàng, thuần khiết đến lạ lùng. Dã quỳ mọc đơn lẻ mà đan nhau. Chen chúc nối dài thành lớp lớp sóng hoá và xô nhau trước những cơn gió thổi ràn rạt trên khắp núi đồi Tây Nguyên… (Huỳnh Thạch Thảo) b. …Hoa bưởi đã nở trắng ngần. Thang thoảng hương thơm, vương dài trên từng ngõ xóm quê tôi. mùa xuân, hoa nở trắng cành. Hoa buông trắng lối đi. Và nếu dừng lâu dưới những gốc bưởi ấy. Thế nào cũng có vài cánh hoa rơi trên vai áo như một cái chạm nhẹ nhàng của người yêu. Mặt nước giếng làng cũng lửng lờ trôi vài cánh hoa bưởi, vốc đầy hai tay làn nước ấy vã lên mặt. Tôi cảm nhận rõ hương vị của quê hương lan toả trong tâm hồn… (Nguyễn Thanh Xuân) Bài tập 2 Hãy phát hiện các lỗi về dấu câu trong các ví dụ sau và chữa lại cho đúng. a. …Thật là dễ chịu. Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa ! Bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà ! Khi tuyết phủ kín mặt đất. Gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế ? Trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi. Thì khoái biết bao ? (Cô bé bán diêm - Andecxen) b. Hãy viết một đoạn văn với nội dung tự chọn trong đó có sử dụng những dấu câu đã học ? Tiết 63: Ôn tập tiếng Việt (PPCT của Sở), nội dung phần II, trang 157, 158, SGK Ngữ văn 8, tập I. Tiết ôn tập này có rất nhiều nội dung, giáo viên nên lựa chọn đơn vị kiến thức hợp lý để hướng dẫn học sinh ôn tập. I: Từ vựng có các kiến thức về: Cấp độ khái quát nghĩa của từ ngữ, trường từ vựng, từ tượng hình, từ tượng thanh, từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, các biện pháp tu từ từ vựng, (nói quá, nói giảm, nói tránh)… Phần này giáo viên nên chọn kiến thức về trường từ vựng, các biện pháp tu từ để ôn tập vì các đơn vị kiến thức này sẽ liên kết và tích hợp với chương trình lớp 10 THPT. Giáo viên có thể đưa ra các bài tập sau đây để ôn luyện cho học sinh:.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Bài tập1: a Hãy chỉ ra các từ cùng trường từ vựng trong những ví dụ sau: Mùa xuân em đi chợ hạ Mua cá thu về chợ hãy còn đông Ai bảo rằng em đã có chồng Bực mình em đổ cá xuống sông em về. b. …Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến… `(Nguyên Hồng- Những ngày thơ ấu) c. …Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khắn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. (Hồ Chí Minh) Bài tập 2 Đọc khổ thơ sau đây: …Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu ? Giấy đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong nghiên sầu… (Ông đồ - Vũ Đình Liên) Hãy xác định các từ cùng trường từ vựng có trong đoạn thơ ? Bài tập 3 a.. … Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. (Ánh trăng- Nguyễn Duy).

<span class='text_page_counter'>(19)</span> b.. Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song. (Đánh đu - Hồ Xuân Hương). c. Giăng giăng khói nắng lưng đồi Phố lèo tèo-Phố tự hồi nảo nao Liu riu vài quán thuốc lào Vài con đường đá bước sào sạo trưa Vài ngôi nhà cũ lưa thưa Đá ong rỗ mặ,t tiếng mưa gõ buồn. ( Phúc yên- Ngân Vịnh ) d.. Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ Với buồn phơn phớt, nắng trơ vơ Cây gì mảnh khảnh run cầm cập Điềm báo thu vàng buồn xác xơ. ( Cuối thu- Hàn Mặc Tử ). Hãy trình bày ý nghĩa biểu đạt của từ láy trong những ví dụ trên? Bài tập 3 a.. Dưới trăng quên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. ( Truyện Kiều-Nguyễn Du). b.. Bà quan tênh nghếch xem bơi chải Thằng bé lom khom nghé hát chèo. (Hội Tây- Nguyễn Khuyến). c. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc… (Lão Hạc -Nam Cao).

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Chỉ ra các từ tượng hình trong những ví dụ trên và trình bày ý nghĩa biểu đạt của chúng ? Ở chương trình Ngữ văn 8, phân phối chương trình của Sở có tiết 126: Ôn tập phần Tiếng Việt học kỳ II tức là bài Ôn tập và kiểm tra phần Tiếng Việt (trang 130 và trang 138). Về nội dung thì tiết ôn tập này là tiết gộp của 2 bài trong SGK, gồm có nội dung ôn tập và kiểm tra, nhưng nội dung kiểm tra sẽ phân phối tại tiết 130. Như vậy, tiết 126 này chỉ ôn tập lại chương trình tiếng Việt học kỳ II, lớp 8 gồm có các kiến thức sau: 1. Kiểu câu: Nghi vấn, cầu khiến, cảm thán, trần thuật, phủ định. 2. Hành động nói. 3. Lựa chọn trật tự từ trong câu. Trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh ôn tập lại các khái niệm về các kiểu câu, hành động nói và một số tác dụng của sự sắp xếp trật tự từ… Trong thời lượng 1 tiết với khối luợng kiến thức như vậy giáo viên cần lựa chọn hệ thống bài tập phổ quát và điển hình để ôn tập và củng cố kiến thức cho học sinh. Sau đây là một số bài tập tham khảo thêm cho tiết ôn tập. Bài tập 1 Trình bày tính logic trong việc sắp xếp trật tự từ ngữ trong những ví dụ sau: a. …Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… (Lão Hạc-Nam Cao ) b.. Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà. (Qua Đèo ngang - Bà Huyện Thanh Quan). c.. Lá bàng đang đỏ ngọn cây Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời… (Tố Hữu). d.…Xe chạy chầm chậm…mẹ tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau, tôi đuổi kịp. Tôi thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. mẹ tôi vừa kéo tay tôi hỏi, thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở. mẹ tôi cũng sụt sùi theo… (Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng).

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Lớp 9: Trong phân phối chương trình của Sở có 3 tiết Ôn tập tiếng Việt ( tiết 73, và 137, 138), cụ thể tiết 73 của học kỳ I có nội dung ôn tập về: Các phương châm hội thoại; Xưng hô trong hội thoại; Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp. Với thời lượng 1 tiết cho cả 3 nội dung này nếu giáo viên không có sự chuẩn bị và chọn đơn vị kiến thức để hướng dẫn ôn tập thì sẽ không đạt được yêu cầu chuẩn kiến thức và kỹ năng của tiết ôn tập này. Về phần: Các phương châm hội thoại, Sách giáo khoa đưa sơ đồ như sau:. Các phương châm hội thoại. Phương châm về lượng. Phương châm về chất. Phương châm quan hệ. Phương châm cách thức. Phương châm lịch sự. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững các phương châm hội thoại đã học ở lớp 9. Sơ đồ trên có thể là bài tập cuối giờ ôn tập mà không dứt khoát phải theo trình tự như SGK. Sau đây là một số bài tập tham khảo: Bài tập 1 Hãy cho biết mỗi câu sau đây có vi phạm phương châm hội thoại nào không ? a. Ông nói gà, bà nói vịt. b. Loài chim nào cũng biết nói tiếng người. c. Rộng thương cỏ nội hoa hèn Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau. (Nguyễn Du) Bài tập 2 Đọc câu chuyện cười sau:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Một ông nọ sai người hầu đi mua thịt chó nhưng dặn không được nói cho ai biết. Người hầu xăm xăm đi mua. Gần về đến nhà thì gặp khách. Khách thấy anh ta cầm cái gói, mới hỏi: - Chú cầm gói gì trong tay đấy? Người hầu nhớ lời chủ dặn, không dám nói thật, nhưng lại giơ cao cái gói và đố: - Ông đoán đi…ông mà đoán đúng thì tôi xin biếu ông cả gói thịt chó này ! (Truyện cười dân gian Việt Nam) Hãy cho biết câu in đậm trong câu chuyện trên có tuân thủ phương châm về lượng không ? Phần II. Xưng hô trong hội thoại - Nội dung phần này giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu phương châm xưng hô trong tiếng Việt là: “Xưng khiêm, hô tôn” nghĩa là thế nào? Lấy ví dụ minh hoạ cho cách hiểu ? Phần III. Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp. Trước hết, giáo viên cần lưu ý phân biệt cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp, chú trọng giành thời gian cho học sinh rèn luyện kỹ năng viết lời dẫn gián tiếp, trực tiếp trong bài tập làm văn. Sau đó, hướng dẫn luyện tập theo các bài tập tham khảo sau: Bài tập 1: Hãy viết lời dẫn trực tiếp và gián tiếp cho các dẫn chứng sau: a.. …. “Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” (Sang thu - Hữu Thỉnh). b. Mặt lão đột nhiên co rúm lại. những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.” c. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình…(Hồ Chí Minh).

<span class='text_page_counter'>(23)</span> d. Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. (Viễn Phương) Ở chương trình học kỳ II lớp 9, phân phối chương trình của Sở GD-ĐT Hà Tĩnh tiết 137,138: Ôn tập tiếng Việt lớp 9, tức là bài: Ôn tập phần Tiếng Việt ở trang 109 (SGK Ngữ văn 9, tập II) gồm có các nội dung sau: 1. Khởi ngữ và các thành phần biệt lập; 2. Liên kết câu và liên kết đoạn văn; 3. Nghĩa tường minh và hàm ý. Cả 3 nội dung kiến thức trên được giáo viên hướng dẫn học sinh ôn tập trong thời lượng 2 tiết, giáo viên cần kết hợp vừa củng cố lý thuyết vừa luyện bài tập. Trước hết, giáo viên cần lưu ý học sinh khái niệm khởi ngữ và đề ngữ chính là một. a. Khởi ngữ. Khởi ngữ: Là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. Thông thường trước khởi ngữ thường có thêm các quan hệ từ như về, đối với… Hoặc: Đề ngữ là thành phần phụ của câu thường đứng trước nòng cốt câu chính để nêu lên một sự việc, sự vật, tình trạng…với mục đích nhấn mạnh như một chủ đề. Điều quan trọng là trong quá trình ôn tập giáo viên cần lưu ý học sinh nắm vững vai trò ý nghĩa của khởi ngữ trong đơn vị câu và phân biệt đề ngữ với chủ ngữ. Cụ thể: Đề ngữ khác chủ ngữ ở chỗ: - Về vị trí: Đề ngữ thường đứng trước C-V và có quan hệ với cả nòng cốt câu, còn chủ ngữ chỉ có quan hệ với vị ngữ. - Về hình thức: Đề ngữ thường được tách khỏi nòng cốt câu chính bằng quãng ngắt (dấu phẩy) hay trợ từ thì , còn giữa chủ ngữ và vị ngữ thì không sử dụng dấu ngắt câu (dấu phẩy). Sau đây là bài tập tham khảo..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Bài tập 1: Hãy xác định khởi ngữ trong những ví dụ sau, nêu chức năng và ý nghĩa của nó: a. Mà y, y không chịu Oanh một tí nào.. (Nam Cao). b. Viết, anh ấy cẩn thận lắm.. (Hồ Phương). c. Tình thư, một bức phong còn kín.. (Nguyễn Trãi). d. Những kỉ niệm ấy tôi còn nhớ rành rành. e. Phụ nữ, tôi kính trọng nhất là bà Indira Gandi.. (Nguyễn Huy Thiệp) (Lê Duẩn). Bài tập 2 Hãy vẽ lược đồ các chức năng của khởi ngữ và lấy ví dụ minh họa ? b. Các thành phần biệt lập Khái niệm: Các thành phần biệt lập là những thành phần không tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu. Đó là các thành phần tình thái, cảm thán… Trong chương trình Ngữ văn 9 học sinh học và ôn tập các thành phần biệt lập: - Thành phần tình thái; - Thành phần cảm thán; - Thành phần gọi - đáp; - Thành phần phụ chú. Sau khi củng cố khái niệm về các thành phần biệt lập, giáo viên cần lưu ý và giành thời gian hợp lý để hướng dẫn luyện tập cho học sinh phát hiện, xác định các thành phần biệt lập và ý nghĩa, tác dụng của các thành phần biệt lập đó. Giáo viên dạy có thể tham khảo, sử dụng các bài tập sau: Bài tập 1 Hãy chỉ ra và cho biết tên gọi thành phần biệt lập trong các câu sau: a. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh - và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một tuổi. b. Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ.. (Nguyễn Quang Sáng) (Ngô Tất Tố). c. Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất.. (Vũ Khoan). d. Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn toàn sáng tác còn là một chặng đường dài.. (Nguyễn Thành Long).

<span class='text_page_counter'>(25)</span> đ. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam - những người con ở xa - bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn.. (Đức Thảo - Ngữ văn 9, tập 2, trang. 85) e. Ô ! Ông nghe tôi, ông Phan Bội Châu này !. (Nguyễn Ái Quốc). Bài tập 2 Xác định thành phần tình thái trong các câu sau và cho biết tác dụng của chúng ? a.…“Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chã nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được”. (Kim Lân) b.. Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn. (Chế Lan Viên). c. Gì thì gì, cũng phải nghĩ đến cái chỗ cái công người ta. (Hoàng Chính) d. Khổ quá ! Tao có đụng chạm gì đến cái việc ấy đâu? (Nguyên Hồng) đ. Bởi vì…bởi vì, San cúi mặt và bỏ tiếng Nam dùng tiếng Pháp, người ta lừa dối anh. (Nam Cao) e. Im ! Khổ lắm ! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. g. Ơ, cái bà này ! Sao bà cứ cuống quýt lên vậy ?. (Kim Lân) (Lê Minh Khuê). h. Đến hang thứ mười bốn, có thể theo các hành lang hẹp để đến các hang to ở phía trong sâu, nơi mới chỉ có một vài đoàn thám hiểm với đầy đủ các trang thiết bị (máy móc, đèn, quần áo, thuốc men…) cần thiết đặt chân tới.. ( Trần Hoàng - Động. Phong Nha…) Giáo viên có thể vận dụng “Bảng tổng kết về khởi ngữ và các thành phần biệt lập” hoặc Bản đồ tư duy, Ô chữ thông minh… để củng cố kiến thức, bài tập cho học sinh. Bảng tổng kết về khởi ngữ và các thành phần biệt lập Khởi ngữ Tình thái Bài tập 3:. Thành phần biệt lập Cảm thán Gọi - đáp. Phụ chú.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Gạch chân các thành phần biệt lập trong những ví dụ sau, cho biết tên gọi và ý nghĩa của chúng: a. Cô bé nhà bên (có ai ngờ) cũng vào du kích.. (Giang Nam). b. Thế rồi bỗng một hôm, chắc rằng hai cậu bàn nhau mãi, hai cậu bèn rủ Oanh chung vốn mở một ngôi trường.. (Nam Cao). c. Cô nhìn thẳng vào mắt anh – những người con gái sắp xa ta, biết không bao giờ gặp lại ta nữa, hay nhìn ta như vậy.. (Nguyễn Thành. Long) d. Quế, em gái tôi, là một phụ nữ tốt bụng. đ. Hức ! Thông ngách sang nhà ta ? Dễ nghe nhỉ ? e. Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? g. Này bác ! Bác còn tiền không ? h. Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa !. (Hồ Anh Thái) (Tô Hoài ) (Nguyễn Dữ) (Nguyễn Công Hoan) (Bằng Việt). Liên kết câu và liên kết đoạn văn. Thực tế SGK Ngữ văn 9 không trình bày khái niệm về phương thức liên kết cho nên cả giáo viên và học sinh chưa hiểu thế nào là phương thức liên kết. Vì vậy ở đây chúng tôi xin đưa ra khái niệm phép liên kết như sau: Phép liên kết là những cách thức chung trong việc sử dụng phương tiện ngôn ngữ vào liên kết câu với câu (hoặc với cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu). Những phương tiện ngôn ngữ có tác dụng liên kết như thế này được gọi là những phương tiện liên kết. Trong Tiếng Việt có nhiều phép liên kết câu và liên kết đoạn văn nhưng ở bậc THCS học sinh chỉ tìm hiểu các phép liên kết: Phép lặp, phép thế…và một số cách trình bày đoạn văn như: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành…Sau khi củng cố lí thuyết giáo viên có thể hướng dẫn tham khảo các bài tập và cần chú trọng rèn luyện cho học sinh kỹ năng liên kết, trình bày câu văn, đoạn văn theo các phép liên kết đã học. Bài tập 1: Chỉ ra các phép liên kết câu và liên kết đoạn văn trong những ví dụ sau: a. Bà dẫn chị em tôi ra vườn. Trời ơi, y như vườn cổ tích. Xanh ươm. Ríu rít. Vàng ươm. Ngào ngạt. Ổi chín. Mít chín. Xoài chín. Chuối chín. Đu đủ chín… b. Với những tiếng thổn thức trong đáy tim và những giọt nước mắt luôn luôn đọng ở gò má, chị Dậu cố sống cố chết nhũng nhẵng dẫn con chó lẽo đẽo dưới ánh nắng mùa.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> hè. Con vẫn lướt mướt khóc, chó vẫn ý ẳng kêu, chị vẫn nhất định giả câm, giả điếc mong cho chóng đến nhà cụ Nghị… (Ngô Tất Tố) c. Rồi nó lùi lũi bước ra cửa. Rồi nó đi về…ông huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi khi thấy nó đi đã khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc dày ra một tí. Và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống, thò tay nhặt lấy đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giày bám vào rồi bỏ tọt vào túi… (Nguyễn Công Hoan) d. Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tền mà tra tấn cha con Vương ông, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người. Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm, Khuyển Ưng cũng vì tiền mà làm những điều độc ác. Cả xã hội chạy theo đồng tiền… (Hoài Thanh ) e. Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình-làng xã- Tổ Quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động. Sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. (NQ Hội nghị lần thứ V- BCH TW Đảng khoá VIII) Bài tập 2 Hãy chỉ ra và trình bày cách sửa các lỗi liên kết hình thức trong những đoạn trích dưới đây: a. Với bộ răng khoẻ và cứng, loài nhện khổng lồ này có thể cắn thủng cả giày da. Mọi biện pháp chống lại nó vẫn chưa có kết quả vì chúng sống sâu dưới mặt đất. Hiện nay, người ta vẫn đang thử tìm cách bắt chúng để lấy nọc độc điều trị cho những người bị nó cắn. (Trích báo KH-ĐS) b. Tại văn phòng, đồng chí Bộ trưởng đã gặp gỡ một số bà con nông dân để trao đổi ý kiến. Mỗi lúc bà con kéo đến hội trường một đông. (Báo Nhân dân) Bài tập 3.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Hãy trình bày những kiểu liên kết giữa các câu trong truyện tiếu lâm sau đây: Một cậu ấm ngồi học ra rả suốt đêm. Con bò nghe tiếng than thở với con gà; - Nó bắt đầu đi thi, thì mày chết. Nó thi đỗ thì tao chết. Con gà nói: - Anh không biết, chứ tôi thì biết nó. Này nó học như anh, nó viết như tôi, chắc không dám vác lều chõng vào trường thi đâu mà sợ. (Trương Chính - Tiếng cười dân gian Việt Nam) Bài tập 4 Hãy tìm trong đoạn văn sau đây những từ ngữ có tác dụng liên kết những câu đứng cạnh nhau và cho biết chúng thuộc những phép liên kết nào? Ngày xưa có hai anh em nhà kia cha mẹ đều chết sớm. Họ ở chung với nhau một nhà. Người anh lấy vợ. Người anh tính nết tham lam, còn em đang ít tuổi có phần khờ dại. Được ít lâu người anh lấy vợ. Chị vợ chẳng những tham lam như chồng mà lại còn thêm độc ác. Không muốn cho em ở chung với mình, hai vợ chồng quyết định chia gia tài, lấy cớ rằng để ai lo phận nấy. Khi chia của, họ chiếm hết tài sản quý giá mà cha mẹ để lại, chỉ cho em một gian nhà nhỏ và một mảnh vườn trong đó có cây khế ngọt. Người em vẫn không chút phàn nàn chỉ chăm làm thuê làm mướn nuôi thân. (Truyện Cổ tích Cây khế) Nghĩa tường minh và hàm ý Sách giáo khoa Ngữ văn 9 THCS và sách giáo khoa lớp 10 THPT xuất bản trước đây đều chung thuật ngữ là Hàm ngôn và hiển ngôn nhưng nay tài liệu SGK in là Nghĩa tường minh và hàm ý. Về bản chất của khái niệm không có gì khác nhau nhưng khi hướng dẫn ôn tập giáo viên cần lưu ý học sinh về dấu hiệu nhận biết, hoàn cảnh giao tiếp để sử dụng hàm ngôn, cách hiểu hàm ngôn của người nói tránh lối suy diễn tuỳ tiện, hiểu sai hàm ngôn để xẩy ra những điều không đáng có… Phần này giáo viên có thể tham khảo, sử dụng một số truyện mini cực ngắn hiện đại, hay truyện cười dân gian, truyện ngắn 100 chữ … để giúp học sinh tiếp cận những nội dung hàm ngôn từ đó hiểu và biết cách sử dụng hàm ngôn trong những tình huống, hoàn cảnh giao tiếp trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn chương. Thay lời kết luận.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay, số tiết ôn tập tiếng việt chiếm số lượng ít nhưng nó lại có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện các kỷ năng sử dụng Tiếng Việt cũng như khả năng tạo lập văn bản cho học sinh. Những nội dung mà SGK hướng dẫn chỉ là những sơ đồ, lược đồ minh hoạ mang tính gợi ý, định hướng vì vậy trong các giờ Ôn tập tiếng Việt giáo viên không quá phụ thuộc vào SGK lại càng không nên bê nguyên các sơ đồ và hệ thống bài tập trong SGK một cách máy móc mà giáo viên dạy cần phải sáng tạo khai thác các bài tập, câu hỏi để học sinh tích cực và chủ động trong các tiết ôn tập nhằm đạt các chuẩn kiến thức và kỹ năng cần thiết… Song song với việc củng cố và khắc sâu kiến thức đã học giáo viên cũng cấn chú trọng nội dung rèn luyện các kỹ năng nhận biết kiến thức, ý nghĩa, tác dụng của đơn vị kiến thức để từ đó học sinh vận dụng, phân tích, cảm nhận và làm bài viết tập làm văn cũng như trong việc tạo lập văn bản. Đây chính là mục đích của các tiết ôn tập tiếng Việt ở bậc học THCS. Tài liệu này chỉ góp phần định hướng gợi mở cho giáo viên những bài tập có thể sử dụng luyện tập trong các tiết Ôn tập tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn THCS hiện hành.. ĐỊNH HƯỚNG TIẾN TRÌNH DẠY CÁC BÀI "HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM" PHẦN VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ Đặng Thị Hảo - chuyên viên phòng GDĐT Nghi Xuân. PHẦN MỞ ĐẦU. Trong chương trình Ngữ văn THCS hiện hành có một số lượng văn bản khá lớn được quy định là văn bản hướng dẫn đọc thêm. Chương trình được áp dụng từ năm 2009 có sự phân bố lại, tăng thêm số lượng các văn bản đọc thêm. Năm 2011, trong quy định giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm mục đích giảm bớt sự quá tải của chương trình và sách giáo khoa, Bộ chuyển thêm một số văn bản học chính thức sang hướng dẫn đọc thêm. Số lượng văn bản được quy định là văn bản hướng dẫn đọc thêm trong toàn bộ chương trình Ngữ văn THCS là 32 văn bản..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Số lượng cụm văn bản hướng dẫn đọc thêm được phân bố trong cả 4 khối lớp: lớp 6 có 14 văn bản thời lượng chương trình 16 tiết; lớp 7 có 10 văn bản, phân bố trong 10 tiết; lớp 8 có 3 văn bản, phân bố trong 3 tiết; lớp 9 có 5 văn bản, phân bố trong 5 tiết. Thời lượng trong chương trình của các văn bản này hầu như không khác các văn bản được học chính thức. Chỉ có một số văn bản có thời lượng nửa tiết, còn lại mỗi văn bản được dạy trong một tiết, có văn bản được dạy trong 2 tiết. Mục đích yêu cầu cần đạt về nội dung, về kỹ năng của các văn bản này cũng không có gì thay đổi so với những văn bản học chính thức. Những văn bản này vẫn nằm trong từng cụm văn bản phục vụ cho một chủ đề hoặc một mảng kiến thức nhất định. Do chương trình giảm tải ra đời sau sách giáo khoa, chuẩn kiến thức và chương trình phần cứng, nên không có một tài liệu chính thức nào kèm theo, định hướng cho giáo viên cách dạy một văn bản hướng dẫn đọc thêm như thế nào? Cách dạy có gì khác với một văn bản được quy định dạy chính thức? Hiện nay giáo viên vẫn rất lúng túng khi giảng dạy những văn bản này. Có hai xu hướng, hoặc là dạy qua loa vì quan niệm đây là bài “đọc thêm” không cần thiết, hoặc là dạy y nguyên như một văn bản học chính thức mà không hề có sự thay đổi trong phương pháp. Như vậy vấn đề là ở chỗ chưa có sự thống nhất chung về phương pháp giảng dạy những văn bản hướng dẫn đọc thêm này như thế nào để đúng với yêu cầu một tiết hướng dẫn đọc thêm. Để có sự thống nhất chung, Bộ GD&ĐT cần chỉ đạo các nhà nghiên cứu giáo dục có những công trình xây dựng tài liệu định hướng cụ thể phương pháp dạy các bài hướng dẫn đọc thêm cho môn Ngữ văn bậc Trung học cơ sở. Trong khi chờ định hướng của Bộ, từ thực tiễn giảng dạy của địa phương, chúng tôi tổng hợp đưa ra những đề xuất mang tính kinh nghiệm của bản thân, xem như một cách gợi ý hướng giải quyết vấn đề này để đồng nghiệp tham khảo. NỘI DUNG I. Những vấn đề chung Nên hiểu khái niệm "đọc thêm" trong cụm từ "Hướng dẫn đọc thêm" như thế nào? Có cách hiểu cho rằng đọc thêm là chỉ thiên về đọc tác phẩm để biết nội dung. Có cách hiểu là dạy bình thường tất cả các phần theo đúng trình tự một tiết đọc hiểu văn bản. Nếu chỉ đơn thuần đọc tác phẩm - đọc để biết nội dung và luyện đọc cho học sinh thì giáo viên không thể giải quyết hết thời lượng của một tiết học nếu gặp văn bản đọc.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> thêm là những bài thơ ngắn. Mặt khác cách làm này có thể phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6, nhưng với lớp 8, lớp 9 luyện đọc không còn là mục tiêu của môn Ngữ văn nữa, thì dùng cả tiết học để chỉ luyện đọc sẽ không phù hợp. Nếu dạy tuần tự như một tiết dạy văn bản bình thường thì liệu có phù hợp với yêu cầu giảm tải của Bộ? Trong chương trình, thời lượng dành cho các văn bản này không thay đổi, có 32 văn bản được phân bố trong thời lượng 34 tiết, các văn bản được dạy trong 1 tiểt, có một số văn bản được dạy trong 2 tiết. Do quy định giảm tải ra đời sau các tài liệu hướng dẫn giảng dạy nên các tài liệu làm căn cứ để giáo viên soạn giảng như sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kỹ năng đều không có gì thay đổi. Như vậy nếu mục đích yêu cầu không khác, thời lượng chương trình dành cho văn bản đọc thêm cũng không thay đổi, vậy thì điểm khác giữa cách dạy văn bản chính thức và văn bản đọc thêm là gì? Phải chăng điểm khác giữa hai cách dạy đó chính là phương pháp, là cách thức tiến hành khai thác và cách hướng dẫn học sinh khai thác các văn bản này. Đọc như thế nào là đủ hay khai thác tác phẩm thế nào là vừa phải với một tiết hướng dẫn đọc thêm không còn là vấn đề, mà vấn đề ở chỗ xác định lại phương pháp dạy văn bản hướng dẫn đọc thêm và mục đích đạt được của một tiết học dạng bài này. Qua khảo sát một số tiết dạy thực tế của giáo viên, qua nghiên cứu mục đích đưa vào chương trình các văn bản này, có thể đề xuất một số ý kiến như sau: 1. Thống nhất cách gọi: Về cụm bài này đã tồn tại hai cách gọi: sách giáo khoa gọi là bài “Đọc thêm có hướng dẫn”, phân phối chương trình gọi là bài “Hướng dẫn đọc thêm”. Xét về tính chất có thể thống nhất gọi là các văn bản được “Hướng dẫn đọc thêm”. 2. Quan điểm, thái độ: Mặc dù gọi là bài đọc thêm, nhưng những văn bản này vẫn là những tác phẩm tiêu biểu có giá trị lớn, được chọn lọc trong hàng ngàn tác phẩm để đưa vào chương trình. Những văn bản này được đặt trong hệ thống khoa học của sách giáo khoa từng khối lớp, phục vụ việc thể hiện một mảng đề tài, làm dẫn liệu cho một phương thức biểu đạt nào đó. Vậy nên cần dạy một cách nghiêm túc, hệ thống, có thái độ coi trọng không được bỏ qua. 3. Mục đích cần đạt được của những tiết hướng dẫn đọc thêm văn bản:.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Những văn bản ở tiết hướng dẫn đọc thêm cũng là những tác phẩm văn học trọn vẹn có giá trị nội dung, nghệ thuật sâu sắc, chuẩn mực, nên khi tìm hiểu, yêu cầu giáo viên hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh được các giá trị của tác phẩm.. Giá trị nội. dung, nghệ thuật của văn bản đã được định hướng trong sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức, nên việc xác định mục đích cần đạt được ở mỗi văn bản không khó. Như vậy đích đến của những tiết dạy chính thức và những tiết đọc thêm văn bản hoàn toàn giống nhau: giải mã được những giá trị của tác phẩm, cung cấp cho học sinh những kiến thức về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vậy thì điểm khác trong phương pháp dạy hai dạng này là ở con đường đi, hay là cách thức tiến hành. Nếu như, ở tiết dạy chính thức giáo viên và học sinh cùng nhau khai thác phân tích để đạt được hiệu quả, còn ở tiết đọc thêm giáo viên phải hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, tự đi tới đích: tự mình nắm được giá trị của văn bản. Từ đó để thấy rằng: phải chăng mục đích thực sự của những tiết hướng dẫn đọc thêm ngoài việc cho học sinh hiểu được giá trị của văn bản, giáo viên còn phải hình thành cho học sinh khả năng, phương pháp phân tích, cách phân tích, tìm hiểu một tác phẩm văn học. Thiết nghĩ đó mới là mục tiêu chính của những tiết hướng dẫn đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THCS. Trong chương trình Ngữ văn THCS, đến cuối lớp 9 học sinh mới được học kiểu bài nghị luận về tác phẩm thơ, nghị luận về tác phẩm truyện, nhưng trong toàn cấp học sinh đã được hướng dẫn "Đọc - hiểu văn bản", hay nói cách khác thường xuyên cùng giáo viên thẩm định, cảm thụ, phân tích những tác phẩm để đánh giá được nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học. Thực tế từ lớp 6 học sinh đã được làm quen và rèn luyện dần với các phương pháp cảm nhận, giải mã một văn bản nghệ thuật ngôn từ. Từ lớp 7, với kiểu bài "Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học" học sinh đã bắt đầu viết những đoạn, bài phân tích cảm nhận đơn giản về tác phẩm văn học. Lên lớp 8, với kiểu bài nghị luận, học sinh kết hợp các thao tác chứng minh, giải thích với các vấn đề của tác phẩm văn học. Ở lớp 9 học sinh được hoàn thiện bài viết phân tích một đoạn, một bài thơ, truyện ngắn qua kiểu bài nghị luận về tác phẩm. Có thể thấy quá trình "đọc hiểu văn bản" ngoài việc cung cấp kiến thức về tác phẩm văn học, giúp học sinh có những nhận thức cơ bản về nền văn học dân tộc và văn học nhân loại ở mức độ cấp.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> THCS, thì còn có nhiệm vụ rèn luyện kỹ năng phân tích, thẩm định tác phẩm văn chương cho học sinh để học sinh hình thành dần khả năng "làm văn". Nếu cụm bài hướng dẫn đọc thêm có nhiệm vụ định hướng phương pháp phân tích, thẩm định văn bản văn học cho học sinh thì làm thế nào để hình thành cho học sinh khả năng phân tích tìm hiểu tác phẩm. Muốn rèn được kỹ năng đó cho học sinh, trước hết giáo viên phải thực sự làm chủ phương pháp phân tích văn bản đọc thêm. Các văn bản đọc thêm khác nhau về thể loại, thời kỳ ra đời, trào lưu văn học, phương thức biểu đạt…. nên mỗi văn bản lại có một cách thức phân tích, giải mã, đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức vững, vận dụng linh hoạt đối với từng văn bản. Khi hướng dẫn đọc thêm một văn bản, giáo viên cần xác định rõ thể loại văn bản, phương thức biểu đạt của văn bản để định hướng cách phân tích phù hợp với đặc trưng thể loại. Sau khi xác định được các vấn đề trên giáo viên sẽ đưa ra được một hệ thống câu hỏi định hướng phân tích phù hợp. Mỗi thể loại tác phẩm có một cách khai thác, thẩm định mang tính đặc thù. Ngoài các vấn đề chung mà tác phẩm nào cũng cần tìm hiểu như lai lịch tác phẩm, tác giả, những yếu tố liên quan... thì mỗi văn bản là một chỉnh thể nghệ thuật cần được thẩm định đúng phương pháp, đúng với đặc trưng thể loại biểu đạt của tác phẩm đó. Đối với văn bản thơ cần xác định rõ: thể loại thơ, thời gian ra đời của tác phẩm thơ (trung đại hay hiện đại), phương thức biểu đạt (cơ bản là trữ tình hay có xen tự sự, nghị luận). Nếu là thơ Đường luật nên phân tích theo cấu trúc hay mạch thơ, thơ trữ tình nên phân tích theo bố cục hay mạch cảm xúc trữ tình… Đối với truyện nên phân tích theo cốt truyện hay theo nhân vật, với các thể loại khác nên chọn cách nào để tiếp cận khai thác văn bản cho đúng hướng. Như vậy nếu giáo viên xác định đúng đặc trưng thể loại sẽ giúp học sinh định hướng phân tích hợp lý và rèn cho học sinh phương pháp tiếp cận từng thể loại tác phẩm văn học. II. Phân loại các văn bản đọc thêm: Phân loại các văn bản đọc thêm theo những tiêu chí nhất định sẽ giúp cho giáo viên có những định hướng cụ thể khi hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản. Có thể có nhiều tiêu chí để phân loại, nhưng chọn tiêu chí phân loại văn bản theo giai đoạn sáng tác và theo thể loại là có tính khả thi nhất. Tuy nhiên, cách chia cụm văn bản theo tiêu chí thể loại cũng chỉ mang tính tương đối, không thể chặt chẽ được, vì còn tuỳ thuộc.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> vào mục đích đưa văn bản vào chương trình của nhà soạn sách. Ví dụ như ở cụm Văn bản nhật dụng: Khái niệm "nhật dụng" là để chỉ tính chất nội dung của văn bản, chứ không phải chỉ một loại văn bản, vậy nên cụm văn bản này trong toàn cấp rất phong phú về thể loại. Có văn bản là truyện ngắn (Cuộc chia tay của những con búp bê - Ngữ văn 6), có văn bản thuộc thể loại bút ký (Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử - Ngữ văn 6). Từ thực tế trên ta có thể phân các văn bản đọc thêm của chương trình thành 8 cụm văn bản như sau: TT Cụm văn bản 1 Cụm truyện dân gian. 2 3. Tên văn bản Con Rồng cháu Tiên Bánh chưng bánh giầy Sự tích Hồ Gươm Ông lão đánh cá và con cá vàng Cây bút thần Chân, tai, mắt, miệng Lợn cưới áo mới Cụm truyện trung đại Con hổ có nghĩa Mẹ hiền dạy con Cụm thơ trung đại và Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra. Lớp 6 6 6 6 6 6 6 6 6 7. thơ Đường Côn Sơn ca Sau phút chia ly Xa ngắm thác núi Lư Phong Kiều dạ bạc Bài ca nhà tranh bị gió thu phá Lao xao Lòng yêu nước Sài Gòn tôi yêu Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh Muốn làm thằng Cuội Hai chữ nước nhà Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác Con cò Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Những trò lố hay là Va-Ren và Phan Bội. 4. Cụm ký. 5. Cụm thơ hiện đại. 6. Cụm truyện hiện đại. 7 8. Châu Bến quê Những đứa trẻ Cụm sân khấu dân gian Chèo Quan Âm Thị Kính Cụm văn bản nhật dụng Động Phong Nha. 7 7 7 7 7 6 6 7 9 8 8 8 9 9 7 9 9 7 6.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử. 6. III. Định hướng cách khai thác từng cụm bài: Khi phân loại cụm theo thể loại văn bản, chúng tôi muốn lưu ý giáo viên định hướng phân tích văn bản theo đặc trưng thể loại của tác phẩm. Mỗi cụm văn bản lại có những đặc trưng thi pháp riêng biệt: cụm truyện dân gian có thi pháp truyện dân gian, cụm thơ trung đại có thi pháp thơ trung đại ... Trong phạm vi cho phép của tài liệu, chúng tôi chỉ bàn về những vấn đề cụ thể, có ích trực tiếp cho quá trình giảng dạy của giáo viên khi dạy các cụm bài này. 1. Cụm truyện dân gian: Cụm truyện dân gian được phân bố ở lớp 6, đây là những truyện thuộc các thể loại truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn và truyện cười thuộc truyện dân gian Việt Nam và truyện dân gian nước ngoài. Có bảy văn bản, trong đó có ba truyền thuyết, hai truyện cổ tích, một truyện ngụ ngôn và một truyện cười. Các truyện đọc thêm được bố trí xen các truyện được học chính thức ở từng thể loại. Đối với mỗi thể loại có một cách khai thác khác nhau nhưng cần định hướng cho học sinh những vấn đề sau: Yêu cầu học sinh xác định đúng thể loại văn bản được học, nắm được khái niệm thể loại truyện và khai thác đúng hướng văn bản theo đặc trưng thể loại truyện. Đối với truyền thuyết cần xác định sự kiện và nhân vật lịch sử mà truyện lấy làm căn cứ, nhận xét cách nhân dân đánh giá và bày tỏ thái độ đối với sự kiện lịch sử đó. Đồng thời phân tích được màu sắc thần kỳ - sản phẩm của trí tưởng tượng nhân dân đã tạo nên vẻ đẹp của truyền thuyết như thế nào. Bởi vì "truyền thuyết không phản ánh lịch sử mà là nghệ thuật phản ánh lịch sử của con người", hay nói cách khác "truyền thuyết không phản ánh chính xác các sự việc và nhân vật mà quan tâm đến sự lay động tình cảm và niềm tin của người nghe sau những sự kiện, nhân vật đó" (Ngữ văn 10 Nâng cao). Hệ thống câu hỏi tìm hiểu truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm cần xác định được sự kiện lịch sử được nói đến trong truyện là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ thứ XV, nhân vật lịch sử trong truyện là chủ tướng Lê Lợi. Truyền thuyết thể hiện thái độ ngợi ca của nhân dân dành cho người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa yêu nước Lam Sơn..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Những chi tiết chuôi gươm khắc chữ "Thuận Thiên", lưỡi gươm do Rùa Vàng dâng tặng, và từ khi có gươm thần, đội quân của Lê Lợi đi đến đâu thắng đến đấy muốn khẳng định rằng: Không những lòng người, mà cả trời đất, linh khí non sông cũng hội tụ lại tiếp thêm sức mạnh cho đội quân chiến thắng. Cách giải thích lịch sử và bộc lộ thái độ đánh giá của nhân dân đã được lồng vào chuỗi chi tiết kỳ ảo tưởng tượng tạo nên vẻ đẹp của truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm. Đối với truyện cổ tích cần khai thác được mô típ cốt truyện thể hiện theo từng kiểu nhân vật: kiểu nhân vật tài năng, nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sỹ… và mô típ truyện có hậu, thiện thắng ác thể hiện mơ ước muôn đời của nhân dân. Bởi nội dung của truyện cổ tích là phản ánh số phận của những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh và bày tỏ ước mơ về sự công bằng, dân chủ, hạnh phúc trong xã hội. Cốt truyện cổ tích đã gần với đời thường hơn truyền thuyết, truyện xoay quanh số phận các kiểu nhân vật, mỗi kiểu nhân vật có những đặc điểm riêng. Đối với kiểu nhân vật tài năng, cần khai thác các tình huống, các sự việc bộc lộ tài năng kỳ lạ của nhân vật. Kiểu nhân vật bất hạnh khai thác các chuỗi việc để thấy được hoàn cảnh đặc biệt của nhân vật, kết thúc có hậu với các nhân vật bất hạnh như một phần thưởng thể hiện ước mơ, niềm tin của người xưa muốn có sự công bằng cho những kiếp người đáng thương trong xã hội. Đối với truyện cười cần tìm được sự việc, hiện tượng gây cười của truyện, từ đó chỉ ra thói xấu mà tác giả muốn chỉ trích, phê phán. Truyện cười ở lớp 6 chỉ dừng lại ở khía cạnh cười những lệch lạc, bất hợp lý chứ chưa đi sâu vào phương diện đả kích phê phán các đối tượng xấu trong xã hội nên chưa cần khai thác sâu. Lớp 6 cần rèn kỹ năng đọc và kể chuyện cho học sinh, nên ngoài việc chú trọng khai thác nội dung, giáo viên cần lưu ý dành thời gian nhất định cho học sinh luyện đọc và kể tóm tắt truyện. 2. Cụm truyện trung đại: Cụm truyện Trung đại của lớp 6 có ba văn bản thì hai văn bản đã được chuyển sang hướng dẫn đọc thêm. Ở văn bản "Con hổ có nghĩa", giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về đặc điểm truyện trung đại. Cụm truyện trung đại của lớp 6 có đặc điểm khác với tác phẩm truyện trung đại ở lớp 9. Truyện trung đại lớp 6 ngắn gọn, cốt truyện đơn giản, nội dung mang đậm tính.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> giáo huấn. Đồng thời có sự tiếp nối và phát triển của truyện trung đại so với truyện ngụ ngôn cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Khi khai thác truyện trung đại cần cho học sinh xác định được nội dung cốt truyện, các sự việc chính và phân tích được ý nghĩa giáo huấn ẩn trong cốt truyện. Truyện Con hổ có nghĩa có hai mẩu truyện nhỏ, nhưng có cùng chủ đề và mang một ý nghĩa: kể về chuyện trả ơn của con hổ và gửi đến người đọc thông điệp: trong đạo làm người cần phải đề cao ân nghĩa. Để học sinh rút ra được ý nghĩa của truyện, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể từ việc nắm cốt truyện, hệ thống chi tiết, rút ra ý nghĩa từ phân tích kết thúc truyện ... 3. Cụm thơ trung đại: Cụm thơ trung đại gồm bảy văn bản, đều thuộc chương trình lớp 7, trong đó bốn bài thơ trung đại Việt Nam, có 3 bài thơ đời Đường Trung Quốc. Đây là những văn bản có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc - là những viên ngọc sáng của văn học dân tộc cũng như văn học Trung Quốc. Những bài thơ được viết từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, qua các bản dịch mới đến được độc giả. Do những rào cản về khoảng cách thời gian, về kiến thức lịch sử, về văn tự, về thi pháp thơ cổ nên với đối tượng là học sinh lớp 7 sẽ rất khó nắm bắt giá trị đích thực của những tác phẩm văn học giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do Bộ đưa những văn bản này vào phần hướng dẫn đọc thêm. Những bài thơ Đường của thơ ca Trung Quốc có nội dung hàm súc, giàu tính biểu tượng cũng là đối tượng khó khai thác đối với học sinh lớp 7. Vậy nên để định hướng cho học sinh phân tích cảm nhận đánh giá được các văn bản này đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo. Trước hết, cần định hướng cho học sinh nắm được thời gian ra đời, hoàn cảnh sáng tác, tác giả, bởi vì đối với thơ trung đại, đây là các yếu tố tiên quyết giúp học sinh hiểu đúng, khai thác đúng hướng giá trị của văn bản. Nếu ý thức được bức tranh thôn quê trong bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” là cảm nhận của một nhà vua về quê hương, học sinh sẽ khai thác được tâm hồn, tình yêu đất nước của tác giả và cảm hứng ngợi ca trong văn học giai đoạn này. “Sau phút chia ly” là tâm sự khắc khoải da diết của một người chinh phụ khi tiễn chồng ra trận. Có lẽ vậy mà Đoàn Thị Điểm đã rất thành công khi tái sinh lại tác phẩm bằng bản dịch thơ từ chữ Hán của Đặng Trần Côn sang chữ Nôm. Nếu nắm được bút pháp lãng mạn là phong cách sáng tác của Lý Bạch thì sẽ khai.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> thác được vẻ đẹp kỳ ảo, phi thường được vẽ nên bằng trí tưởng tượng của bức tranh thác núi Hương Lô. Giáo viên định hướng được cách khai thác từng tác phẩm dựa vào thể loại cụ thể từng tác phẩm, cần quan tâm đặc biệt đến thi pháp thơ cổ. Các thể thơ được sử dụng ở đây chủ yếu là thơ đường luật, nhưng qua dịch có một số văn bản thay đổi, "Côn Sơn ca" được chuyển thành thơ lục bát. "Sau phút chia ly" là một thể thơ dân tộc khá đặc biệt: song thất lục bát; còn "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" lại viết theo loại cổ thể. Sáu bài thơ đầu có thể phân tích tìm hiểu theo mạch cảm xúc và cấu trúc bài thơ đường luật (phân tích theo cấu trúc: đề, thực, luận, kết), còn bài thơ "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" nên phân tích theo bố cục, đây là một bài thơ trữ tình xen yếu tố tự sự và có bố cục rất rành mạch, đồng thời mạch cảm xúc của bài thơ phát triển theo bố cục đó. Khi dạy những văn bản này, giáo viên thường mắc lỗi sa vào tìm hiểu những vấn đề liên quan tác phẩm mà không có thời gian tìm hiểu giá trị nội dung chính của văn bản, vì vậy cần lưu ý phân bố thời gian hợp lý cho các phần, bởi mục đích tìm hiểu các yếu tố liên quan là nhằm tạo cơ sở để thẩm định giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản. 4. Cụm ký: Trong bốn văn bản của phần này, có một văn bản thuộc thể loại hồi ký (Lao xao Ngữ văn 6), còn ba văn bản thuộc thể loại tuỳ bút, đều là các trích đoạn của tác phẩm. Thể loại tuỳ bút nhằm ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể, có thực, qua đó tác giả bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống. Sự ghi chép tuỳ theo cảm hứng chủ quan, có thể tản mạn, không cần gò bó theo kết cấu, hệ thống, nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo. Lối ghi chép của tuỳ bút giàu chất trữ tình hơn ở các loại ghi chép khác (bút ký, ký sự). Đặc điểm của tùy bút là bộc lộ cảm xúc của tác giả. Tùy bút viết về một vấn đề nào đó nhưng được cảm nhận theo cảm xúc chủ quan của tác giả. Vậy nên khi khai thác tùy bút cần xác định được cảm xúc chủ đạo và mạch phát triển của cảm xúc tác giả trong bài tùy bút. Tùy bút “Sài Gòn tôi yêu” bày tỏ cảm xúc của tác giả về một Sài Gòn trong kí ức, tác giả ấn tượng về Sài Gòn trong những thời khắc thiên nhiên khác nhau, mỗi thời điểm Sài Gòn đều hiện lên tuyệt đẹp và mang một sắc thái rất riêng. Văn bản "Lòng yêu nước" của I-li-a Ê-ren-bua bắt đầu từ chân lí: "Lòng yêu nước ban đầu là.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> lòng yêu những vật tầm thường nhất... Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tố quốc". Chân lí đó được chứng minh không phải bằng lập luận khô khan mà bằng chính tình cảm thiết tha sâu đậm và sự hiểu biết phong phú về các miền quê trên Tổ quốc Liên bang Xô - Viết của tác giả. Tác giả đã dùng tình cảm, cảm xúc của mình để lay động, thuyết phục người đọc. Vũ trung tuỳ bút (Tuỳ bút viết trong những ngày mưa), với trích đoạn "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” tuy không có kết cấu đặc biệt, nhưng vẫn tuân theo tư tưởng cảm xúc chủ đạo của tác giả: Thể hiện thái độ phê phán thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại hầu cận trong phủ chúa Trịnh những năm cuối thế kỷ XVIII. Như vậy khi khai thác các văn bản thuộc thể loại tuỳ bút, giáo viên cần định hướng tìm hiểu các sự việc, chi tiết, hình ảnh đặt trên nền mạch cảm xúc của tác giả, nếu tách rời khỏi mạch cảm xúc ấy sẽ không đúng với đặc trưng thể loại của tuỳ bút. 5. Cụm thơ hiện đại: Cụm thơ hiện đại gồm nhiều tác phẩm thơ thuộc nhiều giai đoạn khác nhau. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, hơn một thế kỷ văn học Việt Nam đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi giai đoạn mang một màu sắc, dấu ấn riêng, vậy nên khi khai thác một tác phẩm nào đó cần đặt tác phẩm văn học vào những giai đoạn lịch sử cụ thể, nắm được đặc điểm phát triển của văn học giai đoạn đó. Từ đó nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đây là tiền đề giúp học sinh phân tích đánh giá đúng giá trị của tác phẩm. Cụm thơ hiện đại có ba tác phẩm thuộc giai đoạn những năm 20 của thế kỷ: "Muốn làm thằng Cuội", "Hai chữ nước nhà" và "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác". Có ba tác phẩm thuộc giai đoạn văn học sau 1945: "Mưa", "Con cò" và "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ". Ba tác phẩm thuộc giai đoạn đầu thế kỷ XX mặc dù nằm trong phần thơ hiện đại, nhưng đây là giai đoạn chuyển giao giữa thơ Trung đại và thơ Hiện đại nên các bài thơ vẫn mang thi pháp thơ cổ. Vì vậy giáo viên cần xác định rõ thể thơ để định hướng phân tích hợp lý. Bài thơ của Tản Đà và Phan Bội Châu được viết theo thể thất ngôn bát cú, tuy nhiên trong tác phẩm của Tản Đà đã có những dấu hiệu "bình cũ rượu mới". Mặc dù vẫn viết theo thể thơ cũ, nhưng nội dung, tư tưởng, cấu tứ thơ đã thể hiện bút pháp lãng mạn – dấu hiệu cách tân của phong trào Thơ Mới sau này..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Thơ hiện đại sau 1945 chủ yếu viết theo thể thơ tự do, tuy nhiên vẫn có những thể loại chuyên biệt: lục bát, thơ ngũ ngôn, thơ 8 chữ, thơ 4 chữ…Mỗi thể loại sẽ có những ưu thế khác nhau, vậy nên cần nắm vững và khai thác hết thế mạnh của từng thể thơ. Cụm thơ hiện đại là những bài thơ chủ yếu có phương thức biểu đạt trữ tình, nên trước khi phân tích cần định hình được mạch cảm xúc trữ tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ, từ đó phân tích, tìm hiểu theo mạch cảm xúc đó. Bài thơ "Con cò" (Văn 9) tác giả chọn hình ảnh con cò làm hình tượng chủ đạo. Đi suốt bài thơ là những suy ngẫm của tác giả về tình cảm của người mẹ, về lời ru của mẹ về ảnh hưởng lớn lao của mẹ đối với con, tất cả gắn với hình tượng con cò trong ca dao. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm (Ngữ văn 9) có mạch cảm xúc rất đặc biệt: bài thơ có 3 điệp khúc, mỗi điệp khúc có hai lời ru: lời ru của tác giả nối tiếp lời ru của mẹ, mỗi lời ru đều có sự lặp lại nhưng nâng cao hơn giữa ba khổ thơ. Tác giả kể cho em Cu Tai về công việc mẹ đang làm, hoàn cảnh của mẹ, của em. Lời ru của mẹ hát lên nỗi niềm tâm tình của mẹ với em. Lần theo các điệp khúc ấy, học sinh sẽ nắm được qui luật lặp lại, nâng cao của mạch cảm xúc bài thơ - thấy được thành công của tác giả. 6. Cụm truyện hiện đại: Khi hướng dẫn đọc thêm văn bản truyện, giáo viên cần cân đối thời gian đọc, tóm tắt tác phẩm hợp lý, không để phần đọc chiếm hết thời gian tìm hiểu tác phẩm. Cần chọn đoạn để đọc, xen lẫn tóm tắt từng phần. Những phần chọn đọc có nội dung quan trọng, có nhiều chi tiết, sự việc, hình ảnh cần cho thao tác phân tích khai thác để làm rõ giá trị nội dung của tác phẩm. Có hai hướng phân tích truyện thường được vận dụng là phân tích theo cốt truyện hoặc phân tích theo nhân vật. Nếu xác định phân tích theo cốt truyện thì cần tìm hiểu bố cục truyện, nếu phân tích theo nhân vật thì cần tìm hiểu chung về hệ thống nhân vật, nhân vật chính, nhân vật phụ của truyện. Truyện ngắn "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" của tác giả Nguyễn Ái Quốc hình thức có vẻ như một kí sự, nhưng thực chất là một truyện ngắn mang màu sắc hư cấu. Truyện có hai nhân vật tương phản, đối nghịch nhau, chi tiết của truyện tập trung miêu tả hành động, lời nói, cử chỉ của nhân vật Va-ren, nhân vật Phan Bội Châu.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> chỉ được phác hoạ vài nét, không hành động, không ngôn ngữ, chỉ một vài biểu hiện của cử chỉ và thái độ, nhưng lại nổi bật, đẹp đẽ, lớn lao, vĩ đại bên cạnh sự thảm hại của Va - ren. Những truyện hướng dẫn đọc thêm ở lớp 9 bổ sung vào cụm bài của từng giai đoạn: Truyện Bến quê là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau 1975. Sau 1975 có một số tác phẩm tiếp tục viết về đề tài chiến tranh, nhưng xu hướng cơ bản chủ yếu tập trung vào phản ánh các vấn đề của xã hội thời hậu chiến, các tác giả chú ý đi sâu vào khai thác đời sống nội tâm của con người - Bến quê là một tác phẩm như thế. Để phân tích truyện, học sinh cần xác định xem chọn cách nào để phù hợp với tác phẩm: phân tích theo nhân vật hay phân tích theo cốt truyện. Bến quê là một truyện ngắn thiên về khai thác nội tâm nhân vật, cốt truyện rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, chi tiết nghệ thuật đơn giản, bình dị nhưng có một sức gợi rất lớn. Chính vì vậy có thể phân tích theo cốt truyện, bám vào các tình huống truyện, các chi tiết nghệ thuật có tính biểu tượng của truyện để khai thác. Truyện xoay quanh tình huống của cuộc đời Nhĩ: Nhĩ đã hơn nửa đời bôn ba khắp nửa vòng trái đất. Lúc lâm bệnh nặng sắp giã từ cuộc đời, anh bỗng phát hiện ra bãi bồi bên kia sông có một sức hấp dẫn kỳ lạ mà chưa bao giờ anh đặt chân tới. Anh khao khát được đặt chân lên bãi bồi lấy một lần, nhưng trong tình cảnh bệnh tật, anh không thể thực hiện được ước nguyện đó. Ý nghĩa của câu chuyện rất sâu sắc: con người hãy biết yêu thương, quí trọng những gì gần gũi gắn bó với mình, đừng thờ ơ với nó, bởi khi những thứ đó vuột khỏi tầm tay sẽ phải nuối tiếc xót xa. Hình ảnh bãi bồi bên kia sông, đám cờ thế bên đường, cây bằng lăng nở muộn… là những hình ảnh giàu tính biểu tượng cần khai thác trong truyện. 7. Cụm sân khấu dân gian: Trích đoạn "Nỗi oan hại chồng" trong vở chèo Quan Âm Thị Kính thuộc chương trình Ngữ văn 7 là văn bản sân khấu dân gian duy nhất được học trong chương trình. Đây là một thể loại đặc biệt nên giáo viên cần lưu ý cách khai thác. Giáo viên cần nắm được đặc trưng cơ bản của chèo, có thể không triển khai nội dung này cho học sinh, nhưng phải nắm được bản chất thể loại hát chèo trong các loại hình sân khấu dân gian. Có bốn đặc trưng cơ bản: - Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện để khuyến giáo đạo đức. - Chèo thuộc loại sân khấu tổng hợp các yếu tố nghệ thuật ..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> - Chèo thuộc loại sân khấu ước lệ và cách điệu cao. - Chèo thuộc loại sân khấu có sự kết hợp chặt chẽ cái bi và cái hài. Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” được dạy trong sách giáo khoa chỉ là phần kịch bản, không thể thẩm định như một thể loại sân khấu dân gian trọn vẹn, vậy nên giáo viên định hướng phân tích trên cơ sở văn bản ngôn từ. Như vậy phải chú ý tính kịch của văn bản: sự phát triển của tình tiết, cao trào của xung đột. Hệ thống nhân vật, đặc điểm của các tuyến nhân vật mang đặc trưng của thể loại chèo như: nhân vật mụ ác (Sùng Bà), nhân vật nữ chính (Thị Kính). Đồng thời phân tích diễn biến, số phận của nhân vật chính để thấy được giá trị nội dung của vở chèo: phản ánh số phận bi kịch của người phụ nữ, bày tỏ thái độ cảm thông với họ, đề cao phẩm giá của họ và châm biếm đả kích những xấu xa bất công trong xã hội phong kiến đời xưa. 8. Cụm văn bản nhật dụng: Chương trình và sách giáo khoa hiện hành đưa vào một lượng văn bản nhật dụng từ lớp 6 đến lớp 9 với mục đích là cung cấp cho học sinh những kiến thức về các vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Các vấn đề văn bản nhật dụng đưa vào chương trình tương đối rộng, liên quan đến các lĩnh vực môi trường, sinh học, giáo dục truyền thống, giáo dục pháp luật…Tuy nhiên các văn bản đều đạt đến một giá trị nghệ thuật nhất định, cho nên vẫn phải tìm hiểu các văn bản này như một văn bản văn học về mặt thi pháp thể loại. Như vậy khi định hướng phân tích cụm văn bản này cần quan tâm mục tiêu “nhật dụng” (cung cấp cho học sinh những vấn đề bức thiết trong xã hội hiện nay), vừa phải chú ý khai thác văn bản đầy đủ các yếu tố với tư cách là một văn bản nghệ thuật. Hai văn bản nhật dụng trong cụm bài hướng dẫn đọc thêm thuộc chương trình lớp 6. Văn bản “Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử” giáo viên phải cung cấp cho học sinh khái niệm văn bản nhật dụng và ý nghĩa của việc học loại văn bản này. Đây là một bài bút ký mang nhiều tính chất hồi ký, nên ngoài việc ghi chép sự kiện tác giả còn bày tỏ cảm xúc dâng trào của mình. Giáo viên phân đoạn, khai thác các yếu tố nghệ thuật của thể loại bút ký để giúp học sinh phân tích, làm rõ được ý nghĩa làm “nhân chứng lịch sử” của cầu Long Biên từ đó nâng lên thành tình yêu quê hương đất nước. Văn bản “Động Phong Nha” giới thiệu vẻ đẹp lộng lẫy kỳ ảo của thiên nhiên, qua đó đặt ra vấn đề bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo vệ danh lam thắng cảnh và phát triển kinh tế du lịch. Khi khai thác văn bản này, mục đích “nhật dụng” lớn hơn mục đích khai.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> thác một văn bản nghệ thuật, nên để thành công, giáo viên có thể vận dụng nhiều hình thức hỗ trợ: giới thiệu ảnh, băng hình giới thiệu phong cảnh động Phong Nha để giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp kỳ thú của động. Mỗi cụm văn bản có những đặc trưng về thể loại chung, nhưng mỗi tác phẩm lại là một chỉnh thể nghệ thuật riêng, nên khó có thể có một định hướng cụ thể áp dụng cho tất cả các văn bản. Vậy nên giáo viên có thể hướng dẫn học sinh khai thác, đánh giá văn bản từ nhiều hướng, bằng nhiều phương pháp khác nhau, làm sao để đạt được hai mục tiêu: học sinh tiếp thu được giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản và bước đầu rèn kỹ năng phân tích, thẩm định một văn bản văn học. IV. Định hướng hệ thống câu hỏi. Khi giáo viên có bề dày về lý luận văn học và tri thức về tác phẩm văn học, thì giáo viên sẽ tiếp cận và khai thác dễ dàng bất kỳ tác phẩm nào, đồng thời sẽ chủ động trong việc dẫn dắt học sinh tìm hiểu tác phẩm. Vậy nên, trước hết giáo viên dạy văn phải tự trang bị kiến thức cho bản thân và không ngừng học hỏi để nâng cao hiểu biết. Trong thực tế giáo viên chủ yếu rập khuôn theo tài liệu hướng dẫn giảng dạy của Bộ mà ít nghiên cứu, tìm tòi hướng đi theo cách của mình. Để dạy thành công bài Hướng dẫn đọc thêm giáo viên phải bỏ công nhiều hơn. Hình dung rằng: Khi dạy các văn bản bình thường, giáo viên dẫn dắt học sinh cùng đi trên một con đường, nhưng khi dạy Hướng dẫn đọc thêm giáo viên không cùng đi trên một con đường với học sinh mà phải chỉ đường để học sinh tự đi đến đích. Dần dần sẽ rèn cho học sinh kỹ năng phân tích tác phẩm một cách độc lập. Việc chỉ đường được cụ thể hoá bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh khai thác văn bản. Do mục đích của bài Hướng dẫn đọc thêm có điểm khác văn bản học bình thường nên hệ thống câu hỏi cũng theo đó mà phải có sự thay đổi. Hệ thống câu hỏi của bài Hướng dẫn đọc thêm cần đạt được các yêu cầu sau: * Tính chất của câu hỏi: + Câu hỏi phải có tính hệ thống, phân loại cụ thể, có câu hỏi khái quát, có câu hỏi chi tiết, nhưng phải tăng cường loại câu hỏi mang tính định hướng. Tuỳ vào đối tượng học sinh, nếu năng lực học sinh kém thì phải bổ sung nhiều câu hỏi gợi ý, dẫn dắt. + Hệ thống câu hỏi phải logíc, khoa học, không thừa, không thiếu, gọn rõ, vừa tầm nhận thức của học sinh, không đánh đố, không rườm rà, không tối nghĩa. Tránh trường hợp giáo viên hỏi nhưng nếu giáo viên là người trả lời cũng sẽ gặp khó khăn..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> * Nội dung câu hỏi: - Câu hỏi về các vấn đề tìm hiểu chung văn bản: hỏi về tác giả, tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, giai đoạn sáng tác... Chú trọng những thông tin giúp cho việc khai thác giá trị nội dung văn bản. - Câu hỏi khai thác tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản: + Câu hỏi định hướng cách khai thác văn bản. Câu hỏi này rất quan trọng, giúp học sinh xác định hướng khai thác văn bản. Nếu là truyện hỏi về bố cục hoặc hệ thống nhân vật, nếu là thơ tuỳ vào thể loại hỏi về cấu trúc hay mạch cảm xúc bài thơ. Hỏi về chủ đề, đề tài nội dung tác phẩm phản ánh. + Câu hỏi định hướng khai thác từng mảng nội dung của văn bản: Mỗi mạch ý đều có những câu hỏi khái quát nhằm định hướng hiểu nội dung chính. Trên cơ sở ý chính đó giúp học sinh khai thác các chi tiết, hình ảnh, sự việc để phân tích, đánh giá. - Câu hỏi khái quát, tổng hợp: Sau khi triển khai phân tích, khai thác chi tiết cụ thể cần có thao tác hỏi yêu cầu học sinh khái quát lại nội dung vừa phân tích để đánh giá một cách toàn diện vấn đề đã tung ra, gói lại giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm. * Tham khảo hệ thống câu hỏi khai thác tìm hiểu văn bản: Hướng dẫn đọc thêm "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" (Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 9 - tập 1) Đây là một bài thơ thuộc phần thơ hiện đại của chương trình Ngữ văn lớp 9. Đối với học sinh lớp 9, kỹ năng phân tích, thẩm định tác phẩm đã được rèn luyện tương đối, nên giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp để vừa khai thác được nội dung bài thơ, vừa phát huy được kỹ năng phân tích thơ các em đã được trang bị. Ở đây chúng tôi chỉ nêu hệ thống câu hỏi khai thác giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Bài thơ có một cấu trúc đặc biệt, cần khai thác mạch cảm xúc phát triển qua cấu trúc điệp khúc 3 lần của bài thơ. Đây là một tác phẩm trữ tình nhưng có bố cục khá rành mạch. Có thể nêu hệ thống câu hỏi khai thác như sau: Câu hỏi 1: Nếu bài thơ là "khúc hát ru"thì lời ru này có cấu trúc như thế nào? Gợi: Nêu đặc điểm của từng khúc? Số khổ thơ trong mỗi khúc? Mở đầu, kết thúc mỗi khổ? Cách ngắt nhịp ở mỗi khổ?.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Đặc điểm đó được lặp lại ở cả 3 điệp khúc có hiệu quả nghệ thuật gì? Câu hỏi 2: Qua mỗi khổ thơ hình ảnh của người mẹ Tà Ôi hiện lên như thế nào? Gợi: Mẹ được miêu tả trong những công việc gì? Hoàn cảnh nào? Hình ảnh thể hiện sự vất vả gian khổ của mẹ? Câu hỏi 3: Qua các khúc ru, tình cảm của mẹ đối em Cu - Tai được thể hiện như thế nào? Gợi: Thể hiện qua hình ảnh của mẹ và em trong mỗi công việc? Thể hiện qua mong ước mẹ gửi gắm vào giấc mơ con? Nhận xét sự phát triển của các ước mơ trong mỗi lời ru? Câu hỏi 4: Tình yêu con của mẹ gắn với những tình cảm gì? Qua đó bài thơ phản ánh hiện thực chiến tranh và tinh thần, ý chí của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ như thế nào? V. Cấu trúc chung của một bài Hướng dẫn đọc thêm: Đối với cụm bài này khi giảng dạy cũng cần phải tuân thủ các bước như một bài đọc hiểu văn bản. Phần I: Đọc, tìm hiểu chung: a. Tác giả: Chỉ lưu ý những yếu tố giúp cho việc khai thác tác phẩm. b. Tác phẩm: - Thể loại, xuất xứ, bố cục … Đây là phần định hướng cơ bản để học sinh xác định được cách phân tích, tìm hiểu văn bản. Phần II: Đọc, tìm hiểu văn bản a. Đọc: - Thơ (Hướng dẫn đọc diễn cảm) - Truyện: Đọc, tóm tắt tác phẩm Nếu truyện có dung lượng ngắn, có thể cho học sinh đọc cả truyện, nếu truyện có dung lượng dài cần kết hợp đọc trích đoạn với tóm tắt nội dung truyện. Đối với đối tượng lớp 6, giáo viên có thể nêu hệ thống các sự việc cơ bản của truyện, yêu cầu học sinh dựa vào đó để kể lại truyện. b.Tìm hiểu tác phẩm: Dẫn dắt học sinh phân tích, tìm hiểu văn bản bằng hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Phần III: Tổng kết, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản. Phần IV. Luyện tập, hướng dẫn về nhà KẾT LUẬN Nội dung chúng tôi trình bày chỉ mang tính định hướng, mong muốn cung cấp một hướng giải quyết vấn đề tìm phương pháp dạy cụm bài "Hướng dẫn đọc thêm" để giáo viên tham khảo trong quá trình giảng dạy. Trong thực tế, chất lượng giờ dạy phụ thuộc rất lớn vào ý thức tìm tòi, chuẩn bị của giáo viên. Một tiết hướng dẫn đọc thêm để có được thành công đòi hỏi người giáo viên phải cất công chuẩn bị chu đáo hơn, dày công hơn so với tiết dạy bình thường, bởi muốn định hướng cho học sinh người định hướng phải nắm rất vững hướng đi ấy và điểm đến của nó. Quá trình giảng dạy là một quá trình tìm tòi, rút kinh nghiệm và tự hoàn thiện, vậy nên đối với những tiết dạy thêm còn cần nhiều hơn nữa những kinh nghiệm giảng dạy, những phương pháp tích cực để giờ dạy cụm bài này có hiệu quả hơn./..

<span class='text_page_counter'>(47)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×