MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ĐỐI VỚI HỒ SƠ HÀNH CHÍNH 07:
HÀNH CHÍNH 07:
Thị Nhân
Căn cứ:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC BL 05 tác động trực tiếp
đối với quyền và nghĩa vụ của bà Hoàng Thị Nhân với tư cách là chủ hộ kinh
doanh Hoàng Thị Nhân theo BL 09
Căn cứ khoản 8 Điều 3 luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung năm 2019: “8. Người
khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết
khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước[2]; danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử
tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri).”
2. Người bị kiện: Chủ tịch UBND TP A
Căn cứ:
I. ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ HỒ SƠ
1. Người khởi kiện: Bà Hoàng
Căn cứ khoản 2 Điều 48 Nghị Định 155/2016 của chính phủ quy định cử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: “2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
c) Tước quyền sử dụng Giấy phép mơi trường có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn thuộc thẩm quyền;
d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 50.000.000
đồng;
đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm quy định tại các điểm a, b, c, đ,
e, g, h, i, k, l và m khoản 3 Điều 4 Nghị định này.” Như vậy theo quy định thì chủ
tịch TP A mới có thẩm quyền ra quyết định
Căn cứ khoản 2 Điều 38 Luật XLVPHC 2012 “Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại
Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng;
c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn;
d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị khơng vượt q
mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;
đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, h, i và
k khoản 1 Điều 28 của Luật này.” và điểm k khoản 1 Điều 24 Luật XLVPHC 2012
“Điều 24. Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực
1. Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với cá nhân được
quy định như sau
…..k) Phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng: quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục
địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý hạt nhân và chất
phóng xạ, năng lượng nguyên tử; tiền tệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng, tín
dụng; thăm dị, khai thác dầu khí và các loại khống sản khác; bảo vệ mơi
trường.” và Điều 54 Luật XLVPHC 2012 “Điều 54. Giao quyền xử phạt
1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38; các
khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 39; các khoản 2, 3 và 4 Điều 40; các khoản 3, 4, 5, 6
và 7 Điều 41; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 42; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 43; các
khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 44; các khoản 2, 3 và 4 Điều 45; các khoản 2, 3 và 4 Điều
46; Điều 47; khoản 3 và khoản 4 Điều 48; các khoản 2, 4 và 5 Điều 49; Điều 50
và Điều 51 của Luật này có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính.
2. Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường xuyên hoặc
theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi,
nội dung, thời hạn giao quyền.
3. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về
quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp
luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người
nào khác.” chủ tịch UBND TP A có thẩm quyền ra quyết định xử phạt.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC BL 05 ở đây người ra
quyết định và ký tên là Đặng Hoàng Phát-chức vụ: Phó CT TP A nhưng là ký thay
Chủ tịch TP và căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2011 có hướng dẫn “2.
Người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật TTHC là người có chức vụ, chức
danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó
mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Trường
hợp quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính do một người cụ thể ký hoặc
thực hiện, nhưng người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành
chính với danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh đó. Ví
dụ: Quyết định hành chính do ơng Nguyễn Văn A ký với danh nghĩa Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân huyện B thì gọi là quyết định hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện B mà không gọi là quyết định hành chính của ơng Nguyễn Văn A.” nên
ở đây người ra quyết định số 44 này là CT TP A.
3. Đối tượng bị kiện: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC BL
05 vì quyết định này thõa điều kiện tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật TTHC 2015 sửa
đổi bổ sung 2019 “1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước
ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết
định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một
lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 2.Quyết định hành chính bị
kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát
sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
4. Thẩm quyền của tòa án: Tòa án Tỉnh B
Căn cứ:
Quyết định 44/QĐ-XPHC được ban hành theo thẩm quyền của chủ tịch UBND TP
A do phó chủ tịch UBND TP A ký thay.
Căn cứ Điều 30 và khoản 4 Điều 32 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ sung 2019
“Điều 32. Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh
Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
….….
4.Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án;”
5. Thời hiệu khởi kiện: Căn cứ khoản 2,3 Điều 116 Luật TTHC 2015 sửa đổi bổ
sung 2019 “2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như
sau:
01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; 3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của
pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định
như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền khơng giải quyết và khơng có văn bản trả lời cho người khiếu nại.”
trong hồ sơ thể hiện
ngày ban hành đối tượng khởi kiện là quyết định 44/QĐ-XPHC vào ngày 27/01/2018
như vậy ngày bà Nhân nhận được quyết định phải sau ngày 27/01/2018. Theo hồ sơ vụ
án thì ngày bổ sung đơn khởi kiện là 19/04/2018 vì vậy ngày nộp đơn khởi khiện từ
ngày 19/04/2018 trở về trước. Vì vậy, thời gian tính từ ngày nộp đơn khởi kiện so với
ngày bà Nhân nhận được quyết định 44/QĐ-XPHC cao nhất là 2 tháng 24 ngày vẫn
trong thời hiệu khởi kiện.
Phân tích thời hiệu khởi kiện:
TH1: Tính từ ngày bà Nhân nhận được quyết định khởi kiện. Theo đương sự trình bày
vào ngày 09/02/2018 nhận được quyết định.
TH2: Nếu coi đơn trả lời là quyết định giải quyết khiếu nại thì tính từ ngày bà Nhân
nhận được đơn giải quyết khiếu nại ngày 21/02/2018. Thực tế đơn này không phải là
quyết định giải quyết khiếu nại nên trường hợp này không thể tính.
TH3: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 166 là tính từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu
nại. Bà Nhân làm đơn khiếu nại ngày 09/02/2018, việc làm đơn này phù hợp với quy
định tại Điều 9 luật khiếu nại 2011 trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hoặc
biết được quyết định. Căn cứ Điều 28 luật khiếu nại 2011 thì thời hạn giải quyết khiếu
nại là 30 ngày có thể 45 ngày. Như vậy thời hiệu khởi kiện ở đây là 1 năm tính từ ngày
(09/02/2018+ 30 ngày) tức là tính từ ngày 10/03/2018. Cái này tương đối hợp lý
6. Yêu cầu khởi kiện:
Chấp nhận đơn khởi kiện của Nguyên Đơn: Hoàng Thị Nhân
Tuyên hủy Quyết định 44/QĐ-XPHC của Chủ tịch UBND TP A ban hành do phó
chủ tịch Đặng Văn Phát ký thay.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại( nếu có) căn cứ Điều 7 Luật TTHC
Kiến nghị xem xét trách nhiệm của chủ tịch UBND TP A(nếu có) theo điểm h
khoản 2 Điều 193 Luật TTHC
II. Những luận cứ chính để bảo vệ nguyên đơn:
Chứng minh quyết định 44/QĐ-XPHC là trái quy định pháp luật bởi các lẽ sau:
1. Thời hạn ban hành quyết định 44/QĐ-XPHC là trái quy định của pháp luật
bởi lẽ: Quyết định 44 được ban hành dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan và biên bản vi phạm hành chính do đội quản lý trật tự đô thi lập ngày
14/01/2018. Trong khi ngày ra quyết định là 27/01/2018, như vậy thời hạn ra
quyết định là 13 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Trong khi vụ
án này khơng thuộc trường hợp có nhiều tính tiết phức tạp và khơng thuộc
trường hợp trường hợp phải giải trình được quy định tại Điều 61 luật xử lý vi
phạm hành chính. Vì trong tồn bộ hồ sơ vụ án tại công văn số 604/CV-UBND
BL08 và bản nêu ý kiến cho Tòa BL 58 đều thể hiện rõ là sau khi có biên bản vi
phạm thì UBND ra quyết định xử phạt mà hồn tồn khơng có tình tiết phức tạp
nào cần xác minh. Căn cứ Điều 66 luật xử lý vi phạm hành chính “….”. Do đó,
thời hạn ra quyết định xử phạt đã quá thời hạn mà khoản 2 điều luật đã quy định
rõ là không được ra quyết định xử phạt khi quá thời gian xử phạt. Do đó việc
ban hành quyết định 44 này là trái quy định của pháp luật.
2. Khơng tồn tại biên bản vi phạm hành chính được lập ngày 14/01/2018 vì các
căn cứ sau: Trong hồ sơ vụ án không hề tồn tại biên bản vi phạm hành chính
ngày 14/01/2018. Thứ hai, ngày lập biên bản VPHC là 14/01/2018 nhằm vào
ngày chủ nhật, ngày mà cán bộ nhà nước không làm việc cũng như hộ gia đình
bà nhân khơng làm việc đã được xác nhận tại BL 35. Như vậy biên bản vi phạm
hành chính ngày 14/01/2018 không hề tồn tại làm căn cứ ra quyết định số 44.
3. Quyết định 44 có sai sót về chủ thể bị xử phạt tại mục 3. buộc bà Đinh Thị
Nhường phải thực hiện….Như vậy trong quyết định 44 tồn tại nhiều chủ thể bị
xử phạt không rõ ràng nên nội dung quyết định 44 đã không đảm được nội dung
được quy định tại Điều 68 luật VLVPHC.--->Vấn đề này cần làm rõ
4. Hình thức khơng tn thủ mẫu số 02 Nghị định 97/2017/NĐ-CP
5. Thẩm quyền ban hành thuộc Chủ tịch UBND TP A mà phó CT ký thay cần
xem xét có văn bản giao quyền cho cấp phó hay không căn cứ khoản 2 Điều
54 Luật XLVPHC.
6. Vấn đề áp dụng đưa ra mức xử phạt tại khoản 1 Điều 01 quyết định 44 sai
quy định của pháp luật vì vi phạm này thuộc thẩm quyền UBND cấp huyện
và do phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện cấp giấy BL 09 thì sai phạm này
phải áp dụng điểm a khoản 1 Điều 8 nghị định 155/2016 với hình thức phạt
cảnh cáo không thể áp dụng điểm a khoản 2 điều 8 nghị định 155. Ngay cả
trong trường hợp có áp dụng đúng điều luật thì phải áp dụng mức xử phạt trung
bình căn cứ khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC do trong quyết định khơng nêu có
tình tiết tăng nặng. Thứ hai, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận
cơ sở bà Nhân có hành vi “không thực hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ
môi trường” nhưng lại xử phạt đối với hành vi “thực hiện không đúng nội dung
kế hoạch bảo vệ môi trường”\n
7. Thời hạn giao quyết định được quy định trong Điều 3 là trong thời hạn 03
ngày. Điều này trái quy định pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 70 luật
XLVPHC “…” là 02 ngày. Trên thực tế thời điểm bà Nhân nhận được quyết
định là 09/02/2018 sau 13 ngày kế từ ngày ra quyết định theo BL56 tại lời khai
của bà Nhân “Vấn đề này cần làm rõ”.Như vậy thời hạn giao quyết định 44
được quy định trong QĐ là trái quy định của pháp luật.
8. Trường hợp quyết định 44 dựa trên biên bản vi phạm ngày 15/01/2018 của
ơng Tuất : Phân tích biên bản vi phạm ngày 15/01/2018:
Căn cứ để lập biên bản vi phạm này là dựa trên báo cáo ngày 26/11/2017 của
phòng TNMT TP A. Báo cáo này khơng đảm bảo tính khách quan bởi các lẽ sau:
1. Quá trình để ra báo cáo này không tuân thủ quy định về quá trình và cơng
tác nhân sự chun mơn: Thứ nhất, ngày 08/11/2017 UBND đã phân công
theo quyết định số 16/QĐ-UBND nhân sự của đoàn kiểm tra gồm 9 thành viên
BL 37 là: Tuấn (Trường phịng TNMT)-Trưởng đồn, chiến, diên, cường, mùa,
hưng, văn, hoa, năm. Nhiệm vụ của đồn theo phân cơng của UBND TP A là
kiểm tra hộ kinh doanh của bà Nhân vào ngày 11/11/2017. Tuy nhiên vào ngày
11/11/2017, thành viên đoàn kiểm tra là 11 người nhung chỉ có 9 người ký tên ở
biên bản kiểm tra trong đó 6 người thuộc thành viên trong biên bản ngày
11/11/2017 và 03 người khơng thuộc đồn khơng thể xác định là ai (Bùi Công
Điền, Diệp Thanh Vũ, Lê Văn Hiệp). Điều này thống nhất với lời khai của bà
Nhân tại BL 55, như vậy thành viên của đoàn kiểm tra này khơng đầy đủ chỉ có
đúng 06 người trong danh sách thành viên đoàn. Mặt khác, trong 06 người đã
ký đúng như danh sách nêu trên thì khơng có bất kỳ thành viên nào được phân
công theo quyết định 16/QĐ-UBND. Như vậy về công tác nhân sự chuyên môn
để thực hiện việc đo các chỉ số sai phạm này hồn tồn khơng đảm bảo, trái
quyết định 16 của UBND. Vì vậy có thể kết luận, biên bản thu mẫu ngày
11/11/2016 khơng thể đảm bảo tính khách quan và chính xác của việc lấy mẫu
giám định. Hệ quả dẫn dến là biên bản thu mẫu cũng như kết quả phân tích
ngày 15/11/2017 sẽ khơng đảm bảo tính chính xác và khách quan.
2. Kết quả phân tích ngày 15/11/2017 chưa đảm bảo tính khách quan bởi: Từ
Biên bản thu mẫu ngày 11/11/2017 BL42 tại vị trí số 03(phía sau nhà 17B3) có
chỉ số là 61,4 +79,7dBA thấp hơn so với vị trí 04 (trước cơ sở khi vẫn hành máy
phát điện) là 70,2+88,7dBA. Nhưng kết quả phân tích ngày 15/11/2017 lại ra
kết luận Vị trí 03 và vị trí 04 có kết quả đo bằng nhau là 70-88dBA. Như vậy
thể hiện kết quả phân tích ngày 15/11/2017 chưa khách quan và chính xác.
3. Tại biên bản kiểm tra ngày 11/01/2018 BL 49-50 đoàn kiểm tra kiểm tra ra
kết quả ngay thời điểm kiểm tra không phát hiện sai phạm. Cùng với báo
cáo kết quả phân tích 20/5/2018 chỉ số tiếng ồn, bụi đều đạt so với tiêu
chuẩn.
=>Như vậy có thể kết luận: Thứ nhất công tác nhân sự chuyên môn thực hiện việc
kiểm tra và lấy mẫu không tuân thủ quyết định của UBND, vì vậy việc lấy mẫu khơng
đảm bảo tính chun mơn để việc lấy mẫu được chính xác. Thứ hai,, kết quả phân tích
ngày 15/11/2017 của sở tài ngun mơi trường tỉnh B chưa chính xác và đảm bảo
khách quan. Thứ ba, kết quả đo ngày 11/01/2018 không phát hiện vi phạm.====> như
vậy có thể kết luận căn cứ để phòng TNMT TP A ra báo cáo ngày 26/11/2017 chưa
chính xác và khơng đảm bảo tính khách quan. Vì vậy báo cáo ngày 26/11/2017
khơng chính xác và đảm bảo tính khách quan.
Biên bản ngày 15/01/2017 được lập có những điểm trái quy định của pháp
luật: Biên bản căn cứ từ báo cáo ngày 26/11/2017 nhưng tới ngày 15/01/2018 mới
lập thời gian sau 45 ngày là trái quy định của pháp luật thời điểm lập biên bản căn
cứ tại khoản 1 Điều 58 luật xử lý vi phạm hành chính thì biên bản phải lập ngay
sau khi phát hiện hành vi vi phạm và xác định được tổ chức cá nhân vi phạm. Như
vậy, biên bản được lập ra không đúng quy định của pháp luật về mặt thời điểm.
Cùng với đó biên bản khơng có: thơng tin của người chứng kiến, không ghi ý kiến
của người vi phạm, khơng có ý kiến của người chứng kiến, khơng ghi địa điểm để
người vi phạm lên làm việc, không đưa biên bản cho người vi phạm theo trình bày
của đương sự .Những vi phạm trên đã vi phạm khoản 2, 3 Điều 58 luật XLVPHC
đồng thời có thể chứng minh khả năng khơng có 02 người chứng kiến theo lời
trình bày của nguyên đơn.
Ngày ghi trên biên bản không đúng với ngày lập thực tế: Ngày lập biên bản
theo nguyên đơn thừa nhận cũng như UBND là vào ngày 14/01/2018
Biên bản khơng ghi nhận rõ hành vi, tính chất mức độ sai phạm ra sao mà chỉ
ghi nhận phần kết luận mà khơng hề có các chỉ số để đánh giá sai phạm
Vì vậy từ căn cứ lập biên bản, thời điểm lập biên bản, nội dung biên bản đều trái
quy định pháp luật nên biên bản VPHC ngày 15/01/2018 này được lập trái quy
định của pháp luật chưa đảm bảo tính chính xác và khách quan
III. Quan điểm bảo vệ người bị kiện CT UBND TP A:
Căn cứ để ra quyết đinh 44/QĐ-XPHC là biên bản VPHC ngày 14/01/2018:
1. Biên bản VPHC ngày 14/01/2018 có căn cứ và đúng trình tự quy định của
pháp luật bởi lẽ:
Căn cứ để ra biên bản VPHC này là: Hành vi vi phạm đã xảy ra thường xuyên
trong một thời gian dài. Cụ thể: Sai phạm về chưa thực hiện chương trình giám sát
như đã cam kết trong bản đề án bảo vệ môi trường từ ngày 01/08/2017 theo biên
bản kiểm tra số 52/BB.UBND BL 27-28 đến ngày 11/11/2017 theo biên bản kiểm
tra BL 40-41 nguyên đơn không chịu khắc phục lỗi dù đã cam kết trong một thời
gian dài. Sai phạm về tiếng ồn và bụi vượt ngưỡng cho phép trong một thời gian
dài thể hiện tại biên bản ngày 28/02/2017 BL 16, biên bản ngày 15/03/2017 BL 30,
báo cáo 63/BC.TNMT BL 21, biên bản làm việc của cơ quan chức năng ngày
09/05/2017 BL 24. Những vi phạm này đã ảnh hưởng đến cuộc sống của người
dân xung quanh, hậu quả là người dân đã làm đơn thưa ngày 08/04/2017 BL17-18,
03/05/2017 BL 19, 02/07/2017 BL 30, 20/11/2017 BL 20 gửi đến các cơ quan
chức năng. Để đảm bảo cho cuộc sống của người dân, UBND TP A đã ra quyết
định 16/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 BL 37-38 phân cơng thành lập đồn kiểm tra
để xác minh sự việc và ra văn bản chỉ đạo số 176/UBND-KT ngày 09/11/2017 BL
39 chỉ đạo phối hợp giữa các đơn vị thực hiện. Đúng như chỉ đạo thì thì ngày
11/11/2017 đồn cơng tác đã tiến hành kiểm tra cơ sở của bà Nhân và lập biên bản
tại BL 40-41. Trong biên bản này đã xác định rõ hành vi vi phạm của cơ sở bà
Nhân rõ tại BL40 là không thực hiện đầy đủ nội dung trong cam kết bảo vệ môi
trường, tại BL41 đã xác định rõ đoàn kiểm tra sẽ tiến hành trưng cầu giám định
mẫu thu được tại cơ sở sau đó sẽ có ý kiến cơ quan có thẩm quyền xử lý vi
phạm( nếu có) và có ý kiến của bà Nhân là thống nhất theo nội dung kiểm tra và
có xác nhận của bà Nhân. Đồng thời biên bản thu mẫu tại BL 42 có xác nhận của
bà nhân thể hiện các chỉ số đo để đi giám định. Từ đó sở TNMT tỉnh B đã ra kết
quả phân tích BL43. Trên kết quả phân tích thì ngày 26/11/2017 phịng TNMT TP
A đã ra báo cáo số 23/BC-TNMT kết luận hành vi vi phạm. Như vậy căn cứ đã
lập biên bản VPHC ngày 15/01/2018 theo báo cáo số 23/BC-TNMT là đúng
căn cứ pháp luật đảm bảo được tính chính xác và khách quan
Thẩm quyền lập biên bản VPHC là đúng thẩm quyền: Căn cứ thông báo chỉ
đạo số 38/TB-UBND BL47 và thơng báo số 24/TB-QLTTĐT BL 48 thì ơng Tuất
là người có thẩm quyền lập biên bản.
Biên bản thể hiện đúng hành vi vi phạm theo báo cáo số 23/BC-TNMT nên
hành vi vi phạm là đúng.
Biên bản đã được bà Nhân đã đọc kỹ thể hiện tại biên bản lấy lời khai của
Tòa tại BL 56
Việc bà Nhân khơng ký tên tuy khơng có xác nhận của chính quyền địa
phương nhưng đã được 02 người chứng kiến ký tên tuân thủ khoản 02 Điều
58 Luật XLVPHC. Ngoài ra bà Nhân không ký tên là đã không tuân thủ cam
kết với đoàn kiểm tra tại biên bản làm việc 11/11/2017 BL 40-41
=> Biên bản được ban hành đúng trình tự và quy định của pháp luật. Vì vậy căn
cứ để ban hành Quyết định 44/QĐ-XPHC đúng quy định pháp luật.
2. Thẩm quyền bàn hành Quyết định số 44/QĐ-XPHC là đúng quy đinh pháp
luật: K2 Đ38 Luật XPVPHC và K2 Đ48 NĐ 155/2018 thì đối với mức phạt là
14tr5 thì thẩm quyền thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện. Bên cạnh đó tại
khoản 2 Điều 54 Luật XPVPHC thì CT có thể giao quyền cho cấp phó;
3. Thời hạn ban hành Quyết định số 44/QĐ-XPHC là đúng quy đinh pháp
luật: : K1 Đ66 Luật XPVPHC 2012 thì thời hạn ra quyết xử phạt vi phạm hành
chính là thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính và có
thể kéo dài khơng q 30 ngày. Ở đây, Chủ tịch UBND TP A cần ban tham mưu
để đưa ra mức xử phạt cụ thể đảm bảo công bằng đúng quy định nên thời gian
ra quyết định vẫn đúng quy định của pháp luật.
4. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính vẫn cịn 02 năm theo điểm a K1 Đ6
Luật XPVPHC đối với lĩnh vực bảo vệ mơi trường. Theo đó thì tại Báo cáo kết
quả kiểm tra cơ sở số 23/BC/TNMT vào ngày 26/11/2017, (tại BL 44-46) thì
kết luận cơ sở của bà Nhân có vi phạm. QĐ xử phạt đưa ra vẫn trong thời hiệu
xử phạt.
5. Luật áp đụng phù hợp với báo cáo số 23/BC-TNMT: Đúng quy định của nghị
định 155/2016/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong bảo vệ mơi trường.
6. Thơng báo nộp tạm ứng án phí của Tịa án là nộp tại Chi cụ Thi hành án
Thành phố A nhưng bà Nhân lại nộp tại Cụ thi hành án tỉnh A. (BL51): là
căn cứ để tịa đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm d khoản 1 Điều 143 Luật
TTHC.
7. Người bị kiện ở đây là Chủ tịch UBND TP A thì căn cứ khoản 4 Điều 32
Luật TTHC thẩm quyền theo cấp là tòa án nhân dân tỉnh B, căn cứ khoản
3 Điều 34 Luật TTHC thì tịa phải đình chỉ việc xét xử.
IV. Đánh giá về đối tượng khởi kiện:
Nhận xét về hình thức:
1. Thẩm quyền ban hành QĐHC : Chủ tịch UBND TP A có thể giao quyền cho
cấp phó tuy nhiên phải được lập thành văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi,
nội dung, thời hạn giao quyền( căn cứ khoản 2 Điều 54 luật XLVPHC)
2. Trình tự, thủ tục ban hành QĐHC: Căn cứ khoản 2 Điều 57 luật XLVPHC “2.
Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người có thẩm
quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao gồm
biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu, giấy
tờ có liên quan và phải được đánh bút lục.” Như vậy trình thự phải có biên bản
VPHC cùng các giấy tờ có liên quan, tiếp đó mới được ban hành quyết định
XPHC. Tuy nhiên việc lập biên bản vi phạm hành chính có một số sai phạm trái
quy định pháp luật như:
Vi phạm về khoản 1 Điều 58 luật XLVPHC “Trường hợp vi phạm hành chính
được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì việc lập
biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ chức, cá
nhân vi phạm.”. Trong thực tế này nếu thực sự có hành vi vi phạm thì căn cứ báo
cáo kết quả kiểm tra số 23/BC-TNMT ngày 26/11/2017 để lập biên bản xử lý vi
phạm hành chính để lập ngay khi xác định hành vi vi phạm( căn cứ theo văn bản
trả lời khiếu nại của UBND TP A ngày 21/02/2018 BL08), nhưng ơng Tuất lại lập
biên bản ngày 15/01/2018 thì không đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Một điều cần lưu ý ở đây rất quan trọng là biên bản này ghi nhận vi phạm bụi và
tiếng ồn, khơng thực hiện cam kết tuy nhiên trước đó ngày 11/01/2018 phịng tài
ngun mơi trường thành phố A đã có biên bản kiểm tra cơng tác bảo vệ mơi
trường BL 49, 50 ra kết luận: khơng có bụi phát tác ra xung quanh, mức độ đo độ
ồn : Không vượt so với TCVN. Cùng tại báo cáo kết quả phân tích ngày
20/05/2018 của trung tâm tiến bộ khoa học công nghê thuộc sở khoa học công
nghệ kết luận tiếng ồn và bụi đều đạt so với tiêu chuẩn cho phép.
Hình thức biên bản được quy định theo khoản 2 Điều 58 luật XLVPHC: “2. Biên
bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ,
tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm
hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi
phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc
xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm
hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc
đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền
và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của
tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình. Trường hợp người vi phạm, đại
diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì
lý do khách quan mà khơng ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại
diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.” Như
vậy biên bản này có những sai phạm về hình thức như sau:
1. Vi phạm người chứng kiến khơng có thơng tin địa chỉ lời khai của họ=> như vậy
người chứng kiến ở đây là khơng có thật=> vi phạm quy định vì lý do khách
quan mà người vi phạm khơng ký thì có xác nhận của chính quyền địa
phương(khơng có xác nhận) hoặc xác nhận của 02 người chứng kiến (02 người
này có căn cứ là khơng có thực).
2. Lời khai của người vi phạm khơng có, giờ ngày tháng năm địa điểm xảy ra vi
phạm khơng có, nếu áp dụng nếu đúng thời điểm lập biên bản thì khơng đúng vì
phân tích ở phần đỏ phía trên là thời điểm này mà xảy ra vi phạm là không
đúng.
3. Không ghi nhận quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm
hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình.=> khơng có địa chỉ,
co quan để người vi phạm giải trình đã vi phạm điều 61 luật XLVPHC “Điều 61. Giải
trình
1. Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử
phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với
hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối
với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn
bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử
phạt có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
trước khi ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp cá nhân, tổ chức khơng có u cầu
giải trình trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Đối với trường hợp giải trình bằng văn bản, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
phải gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong thời hạn khơng q 05 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền có thể gia hạn
thêm khơng q 05 ngày theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm.
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính tự mình hoặc uỷ quyền cho người đại diện hợp
pháp của mình thực hiện việc giải trình bằng văn bản.
3. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải
gửi văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm
hành chính.
Người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời
gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của người vi phạm.
Người có thẩm quyền xử phạt tổ chức phiên giải trình trực tiếp và có trách nhiệm nêu
căn cứ pháp lý và tình tiết, chứng cứ liên quan đến hành vi vi phạm hành chính, hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả dự kiến áp dụng đối với hành vi vi phạm.
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, người đại diện hợp pháp của họ có quyền tham
gia phiên giải trình và đưa ra ý kiến, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Việc giải trình trực tiếp được lập thành biên bản và phải có chữ ký của các bên liên
quan; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ thì các bên phải ký vào từng tờ biên bản.
Biên bản này phải được lưu trong hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính và giao cho cá
nhân, tổ chức vi phạm hoặc người đại diện hợp pháp của họ 01 bản.”
3.Thời hạn, thời hiệu ban hành QĐHC: Căn cứ khoản 01 Điều 66 luật XLVPHC “1.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối
với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối
với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61
của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên
bản. Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật
này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền
đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để
xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30
ngày.”=> Trường hợp khi hỏi bị đơn mà xác định vụ việc này có tính chất phức tạp thì
thỏa về thời hạn ban hành tuy nhiên người có thẩm quyền đang giải quyết phải lập văn
bản báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình. Trường hợp cịn lại thì vi phạm về thời hạn
ban hành thì áp dụng khoản 2 Điều 66 luật XLVPHC “2. Quá thời hạn quy định tại
khoản 1 Điều này hoặc khoản 3 Điều 63 của Luật này, người có thẩm quyền xử phạt
khơng ra quyết định xử phạt nhưng vẫn quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này, quyết định tịch thu sung vào ngân
sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.”