HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Lịch sử các học thuyết kinh tế
ĐỀ TÀI 5: Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện đại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý thuyết này đối với Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên
:
: CDDH19-NHA
:
Hà nội, ngày tháng năm 2020
1
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Mục đích, mục tiêu của đề tài:
Tìm hiểu các nội dung, đặc điểm của học thuyết nền kinh tế hỗn hợp - Paul A.
Samuelson, từ đó rút ra ý nghĩa về mặt phương pháp luận và thực tiễn khi vận dụng các
luận điểm của học thuyết vào các nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng.
2. Tính cấp thiết của đề tài:
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra năm 2008-2009, hậu quả của nó làm tê liệt
nhiều nền kinh tế, nhiều quốc gia vẫn chưa thoát khỏi thảm trạng phát triển âm trong năm
2010. Kéo theo sự khủng hoảng kinh tế là sự khủng hoảng của kinh tế học, các trường đại
học danh tiếng và những nhà kinh tế học khắp toàn cầu cũng đã đặt vấn đề phải xem lại
vai trò của kinh tế học đối với khả năng ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trong tương lai.
Các học thuyết kinh tế, với nhiều trường phái khác nhau được đem ra mổ xẻ. P.A.
Samuelson – nhà kinh tế học đạt giải Nobel kinh tế năm 1970 từng nói trước khi mất
tháng 12 năm 2009 như sau trong một buổi phỏng vấn: “Khủng hoảng đã được báo trước,
chỉ cần đọc lại lịch sử các học thuyết kinh tế…”. Thậm chí nhiều nơi, các trang sách về
học thuyết kinh tế của Marx cũng được tìm đọc và nghiên cứu trở lại.
Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ, mức độ giao thương với thế giới
chưa cao, nhưng cũng không tránh khỏi tác động của cuộc khủng hoảng. Năm 2009, tăng
trưởng GDP chỉ đạt 5,3% thấp hơn mức 6,7% năm 2008. Tiếp tục phát triển kinh tế trong
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam với mơ hình kinh tế thị trường
2
định hướng XHCN, chắc chắn rằng sẽ còn bị ảnh hưởng khơng ít trong năm 2010. Vì vậy,
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế học như hiện nay thì việc nghiên cứu, tham khảo các
học thuyết kinh tế, đặc biệt là học thuyết nền kinh tế hổn hợp là rất cần thiết để góp phần
củng cố, điều chỉnh và vận dụng sáng tạo vào mơ hình kinh tế tổng qt Việt Nam đã lựa
chọn.
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
Để nghiên cứu một cách sâu sắc học thuyết nền kinh tế hỗn hợp, các tác giả đã sử
dụng một hệ thống tổng hợp các phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu phân tích – tổng hợp; phương pháp lịch sử và
đối chiếu; phương pháp luận duy vật biện chứng; phương pháp khoa học và tổng hợp các
quan điểm kinh tế, các xu hướng, các trường phái kinh tế học khác nhau.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm hầu hết các nội dung của học thuyết: về cơ chế thị
trường, vai trị chính phủ trong nền kinh tế thị trường, về giới hạn khả năng sản xuất và sự
lựa chọn, về thất nghiệp và lạm phát. Và nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là sự
vận dụng của học thuyết tại hầu hết các quốc gia TBCN những năm 50-60.
Nội dung
I. Nội dung lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp
1.1 Bối cảnh ra đời
Sau thế chiến thứ II, do nhu cầu cần phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, khắc
phục hậu quả của cuộc chiến tranh, nên tại hầu hết các quốc gia đều có sự tham gia trực
tiếp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế đồng thời phải đảm bảo tính thị trường và tôn
trọng các quy luật kinh tế khách quan nhằm khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư. Do đó,
cần phải có một trường phái kinh tế học làm kim chỉ nam và cơ sở lý luận cho các chính
sách và quyết định của nhà nước trong quá trình điều hành nền kinh tế.
Trong quá trình phê phán học thuyết Keynes, những nhà kinh tế học “ Tân cổ điển”
không thể phủ nhận vai trò ngày càng tăng của nhà nước tư bản trong điều chỉnh kinh tế,
mặc dù họ chỉ thừa nhận sự can thiệp đó trong phạm vi hạn chế. Đồng thời những người
“Keynes mới”, “Keynes chính thống” cũng nhận thấy những khuyết điểm trong học
thuyết Keynes về vai trò của cơ chế tự điều chỉnh trong phát triển kinh tế. Vì vậy, trong
những năm 60 – 70 của thế kỷ 20, diễn ra sự xích lại giũa hai trường phái “ Keynes chính
thống ” và “ tân cổ điển” hình thành “ kinh tế học của trường phái chính hiện đại”
Đặc điểm cơ bản về phương pháp luận của trường phái chính hiện đại là: trên cơ sở
kết hợp các lý thuyết của trường phái Keynes mới và trường phái tân cổ điển. Họ sử dụng
một cách tổng hợp các quan điểm kinh tế của các xu hướng, trường phái kinh tế học khác
để đưa ra các lý thuyết kinh tế của mình, nhằm làm cơ sở lý thuyết cho hoạt động của các
doanh nghiệp và chính sách kinh tế của nhà nước tư sản.
3
Sự thể hiện rõ ràng nhất của đặc điểm này được trình bày trong cuốn Kinh tế học
của Paul A. Samuelson. Ông là người sáng lập ra Khoa Kinh tế học của Trường Đại học
kỹ thuật Massachusetts dành cho những người đã tốt nghiệp Đại học Chicago và
Harvrand. Ông là cố vấn lý thuyết cho Ngân hàng dự trữ liên bang, ngân khố Hoa Kỳ và
nhiều tổ chức tư nhân. Năm 1970, ông được nhận giải thuởng Nobel về kinh tế. Ông là tác
giả của cuốn Kinh tế học xuất bản lần đầu tiên năm 1984 tại New York (đến năm1985
được tái bản lần thứ 12, năm 1989 được dịch ra tiếng Việt).
Đặc điểm nổi bật trong Kinh tế học là đã vận dụng một cách tổng hợp phương
pháp và nội dung của các trường phái trong lịch sử. Cụ thể là sự kết hợp hết sức hài hòa
giữa trường phái kinh tế tự do “bàn tay vơ hình” của Adam Smith và trường phái “bàn tay
hữu hình” của J.M. Keynes.
Trường phái đạt đến thời kỳ hoàng kim trong thập niên 1960. Nó là phái chủ lưu
trong tư tưởng kinh tế học vĩ mơ lúc đó. Chính quyền Kennedy ở Mỹ và chính quyền
nhiều nước phương Tây khác đã tích cực áp dụng học thuyết của trường phái này.
Sang thập niên 1970, liên tiếp những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nổ ra, thất
nghiệp và lạm phát cùng gia tăng (đình lạm). Ngồi ra, thâm hụt ngân sách và thâm hụt
thương mại xảy ra đồng thời (thâm hụt kép). Các lý luận của kinh tế học vĩ mô tổng hợp
không giải thích nổi những hiện tượng kinh tế nói trên, nên bắt đầu thoái trào.
1.2 Nội dung Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp
Đây là tư tưởng trung tâm của kinh tế học trường phái chính hiện đại. Nó được
trình bày rất rõ trong Kinh tế học của P.A. Samuelson. Mầm mống của quan điểm “Kinh
tế hỗn hợp” có từ những năm cuối của thế kỷ XIX. Sau thời kỳ chiến tranh, nó được các
nhà kinh tế học Mỹ, như A. Haxen, tiếp tục nghiên cứu. Tư tưởng này được phát triển
trong Kinh tế học của P.A. Samuelson.
Trường phái này hình thành trước tiên ở Mỹ vào thập niên 1950, với các đại biểu
như Paul Anthony Samuelson, James Tobin và Franco Modigliani. Song, chính Hicks là
người sử dụng phân tích IS-LM để diễn giải lý luận của Keynes dưới hình thức cân bằng
tổng thể đã mở đầu trường phái này. Tuy nhiên, phân tích IS-LM mới đầu của Hicks
khơng làm được một việc theo ý Keynes là gắn khu vực kinh tế thực với khu vực tiền tệ.
Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp đã giải quyết được thiếu sót này của Hicks bằng
đường cong Phillips. Đường này cho thấy khi việc làm tăng lên (nghĩa là thất nghiệp
giảm) thì lạm phát cũng gia tăng.
Nếu các nhà kinh tế học phái cổ điển và cổ điển mới say sưa với “ban tay vơ hình”
và “cân bằng tổng qt”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa với “bàn tay nhà
nước”, thì quan điểm của trường phái nền kinh tế hỗn hợp là cơ chế thị trường để phát
triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay” đó là cơ chế thị trường và nhà nước. Ông cho
rằng “điều hành một nền kinh tế khơng có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như
định vỗ tay chỉ bằng một bàn tay” để phân tích những vấn đề của kinh tế hàng hoá phát
triển. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng “giới hạn”, ông cho rằng, việc tổ chức nền kinh tế
4
phải tuân theo các qui luật khan hiếm, phải lựa chọn các khả năng sản xuất, phải tính tới
qui luật năng suất giảm dần và chi phí tương đối ngày càng tăng. Ơng sử dụng cả phương
pháp phân tích vĩ mơ và phân tích vi mơ để trình bày các vấn đề kinh tế học.
1.2.1 Cơ chế thị trường
Theo P.A.Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó,
cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau thị trường để xác định
ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Cái gì? Như thế nào? Cho ai? Cơ chế thị
trường “Không phải là sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. “Một nền kinh tế thị trường là
một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông
qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện liên thơng để tập hợp trí thức và
hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, khơng có bộ não trung tâm nó vẫn giải được
bài tồn mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó, nó tự
nhiên xuất hiện, và cũng như xã hội lồi người, nó đang thay đổi”.
Thị trường là một q trình mà trong đó, người mua và người bán một thứ hàng
hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hố. Như vậy, nói đến
thị trưịng và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hố, người bán và người mua, giá cả
và sản lượng hàng hoá. Hàng hoá bao gồm hàng tiêu dùng, dịch vụ và yếu tố sản xuất như
lao động, đất đai, tư bản. Từ đó, hình thành nên thị trường hàng tiêu dùng và thị trường
các yếu tố sản xuất.
Trong hệ thống thị trường, mỗi hàng hố, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó.
Giá cả mang lại thu nhập cho hàng hố mang đi bán. Và mỗi người lại dùng thu nhập đó
mua cái mình cần. Nếu một loại hàng hố nào đó có nhiều người mua, thì người bán sẽ
tăng giá lên để phân phối một lượng cung hạn chế. Giá lên cao sẽ tăng giá lên để phân
phối một lượng cung hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng
hố hơn. Khi có nhiều hàng hoá, người bán muốn mua nhanh để giải quyết hàng của mình
nên hạ giá xuống. Khi giá hạ, số người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán lại giá
lên. Như vậy, trong cơ chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và
sản xuất. “Giá cả là phương tiện phát tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ cho người sản xuất biết
sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào và cũng thơng qua đó nó thực hiện phân phối cho
ai.
Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung - cầu hàng hố, đó là khái qt của
hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến động của giá đã làm cho
trạng thái cân bằng cung - cầu thường xuyên biến đổi và đó cũng chính là nội dung luật
cung - cầu hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường chịu điều khiển của hai ông vua: người tiêu dùng và kỹ
thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền để mua hàng hoá do các
doanh nghiệp sản xuất ra. Hay như ơng nói, người tiêu dùng bỏ phiếu bằng đôla. Họ chọn
điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất. Song, kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng dù
nền sản xuất không vượt giới hạn khả năng sản xuất . Do vậy, lá phiếu bằng đôla của
người mua, không thể quyết định vấn đề phài sản xuất hàng gì. Như vậy, nhu cầu phải
5
chịu theo cung ứng của người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng hóa của
mình theo chi phí sản xuất. Nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi nhuận hơn,
bỏ các khu vực khơng có lợi. Như vậy, sản xuất cái gì là phải do cả chi phí kinh doanh,
lẫn các quyết định cung và cầu của người tiêu dùng quy định. Ở đây, thị trường đóng vai
mơi giới trung gian hồ giải sở thích người tiêu dùng và sự hạn chế kỹ thuật.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phí phối hoạt động của
người kinh doanh. Lợi nhuận đưa nhà doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá
mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa
nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất quả nhất. Như vậy, hệ thống thị
trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn đề: cái gì, thế nào và cho ai.
Kinh tế thị trường phải được hoạt động trong môi trường cạch tranh do các qui luật
kinh tế khách quan chi phối. Trong kinh tế học, Samuelson vận dụng ngun lý “bàn tay
vơ hình”, “khơng can thiệp”của A. Smith và nguyên lý “thăng bằng tổng quát” của Leon
Walras để phân tích mơi trường hoạt động của kinh tế thị trường. Để phân tích cạnh tranh
thị trường, ông đã vận dụng lý thuyết chi phí bất biến, khả biến của John Maurice Clark,
lý thuyết ba nhân tố sản xuất của J. B. Say. J. S Mill, lý thuyết cạnh tranh khơng hồn hảo
của Jean Robinson, lý thuyết hiệu quả của Pareto. Nhằm đề ra các chiến lược thị trường,
bảo đảm cho các tổ chức độc quyền thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Tổng hợp sự phân tích cơ chế thị trường được thể hiện trong hình vẽ hệ thống giá
cả cạnh tranh sử dụng thị trường cung - cầu để giải quyết ba vấn đề kinh tế: cái gì, thế nào
và cho ai.
Trong sơ đồ này, các nhà kinh tế học trường phái chính đã phân phối chia thị
trường thành hai loại thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ hay thị trường đầu ra và thị
trường yêu tố sản xuất hay thị trường đầu vào. Hai thị trường này tách biệt với nhau, song
có quan hệ với nhau qua hoạt động của doanh nghiệp và hộ gia đình. Doanh nghiệp là nơi
sản xuất hàng hố để bán trên thị trường hàng hố và dịch vụ, vì vậy, trên thị trường này
doanh nghiệp là sức cung, cung hàng hoá của doanh nghiệp hoạt động tuân theo nguyên
lý chi phí sản xuất, điều này có nghĩa, khi giá cả hàng hố trên thị trường càng cao thì
doanh nghiệp càng bán ra một khối lượng hàng hoá lớn hơn. Để có thể tiến hnàh sản xuất,
doanh nghiệp phải mua yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, vốn) trên thị trường yếu tố sản
xuất. Do vậy, trên thị trường này, doanh nghiệp là sức cầu. Cầu của doanh nghiệp về các
yếu tố sản xuất được tuân theo nguyên tắc ích lợi giới hạn. Điều này có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ mua khối lượng yếu tố sản xuất lớn hơn khi giá cả của các yếu tố sản xuất giảm
xuống.
Hộ gia đình là những người triêu dùng hàng hố và dịch vụ. Vì vậy, trên thị trường
“đầu ra”, hộ gia đình là sức cầu. Cầu về hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ của hộ gia đình
cũng tuân theo nguyên tắc ích lợi giới hạn. Để có tiền mua hàng hố tiêu dùng, dịch vụ,
hộ tiêu dùng phải xuất hiện trên thị trường “đầu vào” để bán yêu tố sản xuất nào đó hoặc
là lao động nếu anh ta cơng nhân, hoặc là đất đai nều anh ta là địa chủ, hoặc là tư bản nếu
là người có vốn, có tư bản. Vì vậy, trên thị trường “đầu vào” hộ gia đình là sức cung, sức
6
cung của hộ gia đình được xác định theo nguyên tắc thích nghỉ ngơi hay thích làm việc,
thích tiêu dùng hiện tại hay thích tiêu dùng tương lai hoặc là sở hữu đất đai. Chẳng hạn,
nếu hộ gia đình thích nghỉ ngơi thì họ chỉ bán lao động khi có tiền lương cao và ngược lại.
Nếu vốn được dùng cho mục đích tiêu dùng tương lai thì lãi suất thấp, người có vốn vẫn
cho vay vốn…
Đồng tiền được vận động theo qui trình vịng trịn, khép kín. Nó đi từ hộ tiêu dùng
ra thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ để mua hàng hố. Thơng qua giá cả quan hệ
cung cầu, tiền trở về tay các doanh nghiệp. Doanh nghiệp lại dùng tiền đó mua các yếu tố
sản xuất. Thông qua quan hệ cung cầu và giá trị cả, nó lại trở về với hộ gia đình.
Với cớ chế vận động như vậy của thị trường, khi diễn ra sự thay đổi giá cả trên thị
trường đầu vào sẽ làm cho giá cả ở đây thay đổi. Vì vậy, nền kinh tế sẽ đạt được một cân
đối chung. Sự phát triển diễn ra nhịp nhàng trôi chảy.
Bàn tay vô hình đơi khi cũng đưa nên kinh tế tới những sai lầm. Đó chính là những
khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường. Những khuyết tật này có thể là do tác động bên
ngồi gây nên, như ơ nhiễm môi trường mà doanh nghiệp không phải trả cho sự huỷ hoại
đó; hoặc là những thất bại thị trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự do cạnh
tranh; hoặc là các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp. Và cuối cùng là sự phân phối thu
nhập bất bình đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Để đối phó với những khuyết tật của
cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại phối hợp giữa “bàn tay vơ hình” với “bàn tay
hữu hình” như thuế khố, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
1.2.2 Vai trị chính phủ trong kinh tế thị trường
Chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường.
Chức năng thứ nhất là thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này thực tế vượt
ra ngồi khn khổ của lĩnh vực kinh tế học. Ở đây, chính phủ đề ra các qui tắc trò chơi
kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ cũng tuân thủ.
Điều này bao gồm qui định về tài sản (tài sản tư nhân là như thế nào?), các qui tắc về hợp
đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban
quản lý và nhiều các luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối
quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những
giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự cơng bằng hơn là qua một sự phân tích
kinh tế được mài dũa cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Nhưng khn khổ pháp luật có thể tác
động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người.
Chức năng thứ hai là sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt
động có hiệu quả.
Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó khơng
hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu thế của mình, các tổ
chức độc quyền có thể quy định giá cả thu lợi nhuận và do vậy, phá vỡ ưu thế của cạnh
tranh hồn hảo. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc
7
quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Như đã biết, cạnh tranh hồn hảo
là tình trạng thị trường có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh mà
khơng có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả hàng hố đó. Điều đó đảm
bảo được ganh đua của những người sản xuất, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Song, cạnh tranh khơng hồn hảo hay độc quyền thì một người cạch tranh khơng
hồn hảo có thể làm thay đổi giá trị cả của mặt hàng nào đó. Vì người độc quyền trên thực
tế là người duy nhất cấp một mặt hàng cụ thể đó, vì vậy, có khả năng qui định giá cả cao
để thu siêu lợi nhuận. Tình trạng đó làm cho giá cả cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng
về cầu và sản xuất, xuất hiện siêu lợi nhuận. Những lợi nhuận này có thể được sử dụng
những hoạt động vơ ích như quảng cáo lừa dối, mua ảnh hưởng và bảo hộ của ngành lập
pháp.
Vì vậy, chính phủ khơng thể coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Chính
phủ cần đưa ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để làm tăng hiệu quả của hệ
thống thị truờng cạnh tranh khơng hồn hảo.
Thứ hai, những tác động bên ngồi cũng dẫn đến tính khơng hiệu quả của hoạt
động của thị trường và đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. “Tác động bên ngoài xảy ra khi
doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí - lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc người
khác mà các doanh nghiệp hoặc con người đó khơng được nhận đúng những lợi ích mà họ
cần được nhận hoặc khơng phải trả đúng số chi phí mà họ phải trả”.
Ví dụ, doanh nghiệp A sử dụng tài ngun hiếm như khơng khí hay nước sạch mà
khơng phải trả tiền cho những người sống trong bầu không khí ơ nhiễm hay nước bẩn.
Hoặc doanh nghiệp B đóng ở khu dân cư thuê người bảo vệ mặt mũi dữ tợn để cach gác
nhà máy của mình, vì vậy, làm cho bạn lưu manh sợ, phải tránh hành nghề ở những nhà
dân lân cận mà các hộ gia đình này không phải trả tiền về việc được sống yên ổn cho
doanh nghiệp.
Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt động kinh tế khơng hiệu quả. Vì
vậy, chính phủ phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như là một phương pháp để
ngăn chặn những tác động bên ngồi như ơ nhiễm nước và khơng khí, khai thác đến cạn
kiệt khống sản, chất thải gây nguy hiểm cho thức ăn, đồ uống, thiếu an toàn vì các chất
phóng xạ…
Thứ ba, chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hố cơng cộng. Theo
các nhà kinh tế, hàng hoá tư nhân là một loại hàng hố mà nếu như một người đã dùng thì
người khác khơng thể dùng được nữa. Cịn hàng cơng cộng là một loại hàng hố mà khi
một người đã dùng thì người khác vẫn có thể dùng được. Ví dụ, khơng khí trong sạch và
quốc phịng là hàng hố cơng cộng. Đặc trưng của hàng hố cơng cộng là:
• Về mặt kỹ thuật, một người tiêu dùng mà không làm giảm số lượng sẵn có đối
với người khác.
• Khơng thể loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này, trừ khi phải trả giá quá
đắt.
8
Ích lợi giới hạn của hàng hố cơng cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau.
Nhìn chung, ích lợi giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hố cơng cộng là rất nhỏ, vì
vậy, tư nhân thường khơng muốn sản xuất hàng hố cơng cộng. Mặt khác, có nhiều hàng
hóa cơng cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như quốc phòng, luật pháp trật tự trong
nước nên không thể giao cho tư hân được, vì vậy, chính phủ phải nhảy vào sản xuất hàng
hố cơng cộng.
Thứ tư, trên thực tế, phần chi phí của chính phủ phải được trả bằng tiền thuế thu
được, Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là tồn bộ cơng dân tư mình
lại đặt gánh nặng thuế lên vai mình, và mỗi cơng dân cũng được hưởng phần hàng cơng
cộng do chính phủ cung cấp.
Như vậy, chính phủ phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị
trường. Chính phủ đề ra luật lệ đi đường và mua hnàg công cộng như đường sá, do đó, tạo
điều kiện dễ dàng cho tư doanh hoạt động trôi chảy, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh
nghiệp, khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và kiềm chế hoạt
động của các doanh nghiệp khác.
Chức năng thứ ba là đảm bảo sự cơng bằng. trong điều kiện hoạt động hồn hảo
nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, thì vẫn phải thấy rằng sự phân hố, bất bình
đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có
thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy, chính phủ cần thiết phải thơng qua những chính
sách để phân phối thu nhập. Cơng cụ qua trọng nhất của chính phủ này là thuế luỹ tiến,
đánh thuế người giàu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường, thuế luỹ
tiến áp dụng cho thuế thu nhập và thế thừa kế. Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu
nhập để giúp người cho người già, người mù, người tàn tật, người phải nuôi con và bảo
hiểm thất nghiệp cho nhười khơng có cơng việc làm. Hệ thống thanh tốn chuyển nhượng
này tạo ra mạng lưới an toàn bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.
Cuối cùng, chính phủ đơi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập
thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà rẻ…
Chức năng thư tư là ổn định kinh tế vĩ mô. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng
gặp những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất
cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong
những năm 20, thời dại suy thoái ở Mỹ trong những năm 30.
Nhờ có sự đóng góp trí tuệ của John Maynard Keynes và những người theo ông,
mà chúng ta hiểu rõ nhiều cách làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ
kinh doanh. Giờ đây ta hiểu rằng, việc sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ
và tài chính của chính phủ có thể ảnh hưởng đến sản lượng, việc làm và lạm phát. Quyền
lực về tài chính của chính phủ là quyền đánh thuế và chi tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao
hàm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều
kiện tín dụng. Bằng hai cơng cụ trung tâm này của chính sách kinh tế vĩ mơ, chính phủ có
thể tác động đến sản lượng, công ăn việc làm và giá cả một nền kinh tế và phần nào do
9
các chính sách như vậy, đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường trên thế giới mở mang chưa
từng có kể từ chiến tranh thế giới lần thứ II đến đầu những năm 70.
Nhưng, trong thành cơng lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời
kỳ nhiều công ăn, việc làm và tăng trưởng nhanh, nhiều nước đã vơ tình ni dưỡng một
nền kinh tế, trong đó, con người bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đương nhiên. Nhiều
nước đảm bảo cho công nhân và người hưởng thu nhập định kỳ mức sống trong điều kiện
thời tiết xấu cũng như thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá cả, tiền lương và hỗ trợ thu
nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối loạn của những năm 70 xảy ra như hai lần
tăng giá dầu, mất mùa, trục trặc trong hệ thơng tài chính quốc tế, chính phủ đã khơng giữ
được lời hứa. Trong cuộc đấu tranh về thu nhập, lạm phát tăng vọt và thất nghiệp lên tới
mức chưa từng thấy kể từ thời kỳ đại suy thối.
Ngày nay, những người đề ra chính sách nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại
đứng trước một vấn đề nan giải cơ bản của kinh tế vĩ mơ đó là: khơng nước nào trong một
thời gian dài có thể có được kinh doanh tự do, lạm phát thấp và việc làm đầy đủ. Cũng
như nền kinh tế thị trường ngày nay khơng thể có một lượng tối đa vừa thép vừa bơ, một
nền kinh tế vĩ mô không thể nào vừa đủ công ăn việc làm vừa khơng có lạm phát.
Chính phủ thực hiện các chức năng trên đây thông qua ba công cụ là các loại thuế,
các khoản chi tiêu, lãi suất, thanh toán chuyển nhượng, khối lượng tiền tệ và những qui
định hay kiểm sốt. Thơng qua thuế, chính phủ điều tiết tiêu dùng, đầu tư của tư nhân
khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của
chính phủ sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp hay cơng nhân sản xuất ra một số hàng hố hay
dịch vụ, và cả những việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, phụ cấp thất
nghiệp…) Những qui định hay kiểm sốt của chính phủ cũng là nhằm hướng nhân dân đi
vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.
Khi thực hiện chức năng kinh tế, chính phủ phải đưa ra quyết định về phương pháp
lựa chọn. Từ đó, hình thành nên lý thuyết lựa chọn cơng cộng. Sự lựa chọn công cộng là
một sự tập hợp các ý thích cá nhân thành một sự lựa chọn tập thể. Theo qui tắc nhất trí, tất
cả các quyết định đều phải nhất trí thơng qua. Cơng cụ để phân tích sự lựa chọn cơng
cộng là đường giới hạn khả năng – giá trị sử dụng: ở đây, các nhà kinh tế học sử dụng lý
thuyết giới hạn và hiệu quả Pareto để phân tích.
Cũng như “ban tay vơ hình”, bàn tay hữu hình cũng có khuyết tật, có nhiều vấn đề
nhà nước lựa chọn khơng đúng. Ví dụ: một cơ quan lập pháp rơi vào tay những thiểu số;
cách vận động hậu trường có nhiều tiền. Chính phủ tài trợ cho các chương trình quá lớn
trong thời gian dài… Những khuyết tật đó gây ra tính khơng hiệu quả của sự can thiệp của
chính phủ. Họ đưa ra nhiều quyết định sai, không phản ảnh vận động của thị trường. Do
vậy, phải kết hợp các cơ chế thị trường và vai trị của chính phủ trong điều hành nền kinh
tế hiện đại, hình thành nên một “nền kinh tế hỗn hợp”. Trong “nền kinh tế hỗn hợp” có cả
cơ chế thị trường và chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong
nhiều lĩnh vực, trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế,
chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu.
10
1.2.3 Lý luận về giới hạn “khả năng sản xuất” và “sự lựa chọn”
Các nhà kinh tế học cho rằng, mọi nền sản xuất đều phải giải quyết ba vấn đề cơ
bản là: sản xuất cái gì, với số lượng bao nhiêu; sản xuất như thế nào, bằng những công
nghệ và tài nguyên nào; hàng hoá được sản xuất như thế nào, bằng những công nghệ và
tài nguyên nào; hàng hố được sản xuất ra cho ai.
“Do tính chất hạn chế của tồn bộ tài ngun có thể sản xuất ra hàng hoá, buộc xã
hội chỉ được lựa chọn trong số hàng hoá tương đối khan hiếm”.
Về thực chất, lý thuyết “lựa chọn” nhằm đưa ra được mơ hình số lượng cho người
tiêu dùng trong điều kiện kinh tế thị trường và trên cơ sở đó, dự đốn được sự thay đổi
của nhu cầu xã hội.
Mơ hình tiêu biểu là sản xuất ra bơ và thép. Trong mơ hình này, đường ABCDE
(xem hình 7.4) gọi là đường giới hạn khả năng sản xuất. Toàn bộ nền kinh tế, giả sử, sản
xuất ra bơ và thép. Với một số lượng lao động, tài nguyên, tư bản nhất định nếu sản xuất
15.000 tấn thép thì khơng sản xuất bơ và ngược lại, nếu sản xuất 5 triệu kg bơ thì khơng
sản xuất thép. Giữa hai thái cực này có nhiều phương án lựa chọn.
11
Bảng 7.1
Bơ
(triệu kg)
0
1
2
3
4
5
Khả năng
A
B
C
D
E
F
Thép
(1.000 tấn)
15
14
12
9
5
0
Hình 7.4
Thép
I
A
B
C
D
U
1
E
2
3
4
5
Bơ
Từ đó, các nhà kinh tế học cho rằng: mọi nền kinh tế sử dụng hết tài ngun vào
sản xuất một mặt hàng thì ln ln phải bỏ một cái gì đó của một mặt hàng khác. Giới
hạn khả năng sản xuất biểu thị sự lựa chọn mà xã hội có thể có.
Từ sự phân tích trên, các nhà kinh tế học đưa ra quan điểm về hiệu quả sử dụng tài
nguyên. Theo họ, một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
Các điểm bên trong đường giới hạn U biểu hiện tài nguyên chưa được sử dụng hết,
cơng nhân khơng có việc làm, nhà máy bỏ khơng, ruộng đất hoang hố, tiền tệ để rỗi.
Điều đó thể hiện tính thiếu hiệu quả.
Các điểm nằm ngồi đường giới hạn I là khơng thể có trong điều kiện khơng có sự
biến đổi nào về nguồn lực: tài nguyên, lao động, vốn, công nghệ.
1.2.4 Lý luận về thất nghiệp.
Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại, khi mức thất nghiệp cao,
tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của nhân dân bị giảm sút. Về mặt kinh tế, mức thất
nghiệp cao là thời kỳ GNP thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nó. Mức thất nghiệp cao
đi liền với mức cao của sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất.
Về mặt xã hội, thất nghiệp gây ra tổn thương về người, tâm lý xã hội nặng nề.
12
Các khái niệm về thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp
Những người có việc là những người đi làm. Cịn những người thất nghiệp là
những người khơng có việc nhưng đang tìm việc làm. Những người khơng có việc làm
nhưng khơng tìm được việc làm là những người ngồi lực lượng lao động. Đó là những
người đang đi học, trong coi nhà cửa, về hưu, quá ốm đau không đi làm được hoặc thơi
khơng tìm việc làm nữa.
Tỷ lệ thất nghiệp: là số người thất nghiệp chia cho toàn bộ lực lượng lao động.
-
Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp khơng tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện
là tình trạng thất nghiệp mà ở đó cơng nhân khơng muốn làm việc với mức
lượng trên thị trường lúc đó.
Hình 7.5 Thất nghiệp tự nguyện
Mức lương
AE là
nhân có việc
mức lương
số cơng nhân
làm nhưng
lương
cao W
A
vậy, đó là
nghiệp
tự
Nếu mức
Mức lương
đổi
linh
W’
khơng cịn
Thất
nguyện là
lương cứng
một
quỹ
P
số
cơng
làm
với
W; EF là
muốn đi
với mức
hơn W. Do
lượng thất
F
nguyện.
lương thay
Lao động
hoạt,
sẽ
thất nghiệp nữa.
S
E
H
G
nghiệp không tự
tình trạng với mức
nhắc, khơng thay đổi,
lương nhất định chỉ
E
W
13
Lao động
th một số lượng cơng nhân nhất định, số cịn lại muốn đi làm với mức lương đó nhưng
khơng tìm được việc làm.
Hình 7.6 Thất nghiệp khơng tự nguyện
14
Ở mức lương W’, số lượng công nhân, muốn đi làm nằm ở G, song các doanh
nghiệp chỉ thuê ở H, do vậy, HG là thất nghiệp không tự nguyện.
So với giá cả hàng hóa thơng thường thì tiền lương có tính cứng nhắc, nó chỉ thay
đổi sau 1 đến 3 năm sau khi có hợp đồng lao động. Nguyên nhân là: các doanh nghiệp
trong các ngành công nghiệp không có tổ chức cơng đồn định ra thang lương rồi th
cơng nhân hạn chế theo mức lương đó. Thang lương có khuynh hướng giữ ngun trong
một năm.
Trong các ngành cơng nghiệp có tổ chức cơng đồn, các thang lương được định ra
bằng hợp đồng nhiều năm. công nhân tham gia cơng đồn khơng muốn cắt lương, thâm
chí trong trường hợp 1/3 cơng đồn viên bị thất nghiệp. Nguồn gốc cơ bản của việc giữ
nguyên mức lương là vì định ra thang lương hay thương lượng lại thang lương là rất tốn
kém.
-
Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp chu kỳ. Thất nghiệp
tạm thời phát sinh do sự di chuyển không ngừng con người giữa các vùng, các
công việc hoặc giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Do sự di chuyển mà một số
người tự nguyện thất nghiệp.
Thất nghiệp cơ cấu xảy ra do sự mất cân đối giữa cung va cầu đối với cơng
nhân. Ví dụ, mức cầu về loại lao động này tăng lên còn loại lao đơng khác thi
giảm đi. Trong trường hợp đó, thay đổi cung điều chỉnh không kịp, gây ra thất
nghiệp.
Thất nghiệp chu kỳ phát sinh ra khi mức cầu chung về lao đơng thấp, nó gắn
với giai đoạn suy thối và đóng của chu kỳ kinh doanh.
-
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Một trong những khái niệm then chốt của kinh tế vĩ mô hiên đại là tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên. Đây là mức mà ở đó các thị trường lao động khác biệt ở trạng thái cân bằng. Ở
một số thị thị trường thì cầu quá mức (hoặc nhiều việc khơng có người làm) trong khi đó
ở những thị trường khác thì cung quá mức (hay thất nghiệp). Gộp lại, tất cả các nhân tố
hoạt động để sức ép đối với tiền lương và giá cả trên tất cả các thị trường đều cân bằng.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên ln phải lớn hơn số 0. Vì trong một nước rộng lớn, mức
độ cơ động, thị hiếu và tài năng đa dạng. mức cung cầu về dố loại hàng hóa, dịch vụ
thường xuyên thai đổi, tất yếu có thất nghiệp tạm thời và cơ cấu.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên liên quan chặc chẽ với lạm phát. Đó là tỷ lệ thất nghiệp
thấp nhất mà đất nước có thể chấp nhận được ở mức trung bình mà khơng có nguy cơ gây
lạm phát tăng xoáy ốc.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân của sự gia
tăng là tăng thêm số thanh thiếu niên, người thiểu số, phụ nữ vào lực lượng lao động; tác
động của chính sách (nhu trợ cấp bảo hiểm) làm cho cơng nhân thất nghiệp khơng tích
cực tiềm việc làm; do thay đổi cơ cấu sản xuất ....
15
Để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, vần phải thiên dịch vụ thị trường lao động, mở
các lớp đào tạo, loại bỏ những trở ngại về chính sách của chính phủ; tạo ra việc làm cơng
cộng.
1.2.5 Lý luận về lạm phát
a) Các định nghĩa về lạm phát
Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì, dầu
xăng, xe ơtơ tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng. Giảm lạm phát có
nghĩa là giá cả và chi phí nói chung hạ xuống.
Ngày nay, người ta tính phát bằng “chỉ số giá cả”, mức trung bình giá cả của hàng
nghìn sản phẩm riêng biệt. Chỉ số giá cả quan trọng nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
(CPI) tỷ số này tính giá của một lơ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ so với giá của những
thứ đó trong một năm gốc.
Lạm phát tồn tại rất lâu, cùng với nền kinh tế thị trường, ở Anh kể từ thế kỷ XIII đă
có lạm phát. Lạm phát gồm có lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã, siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm, thường là một con số (dưới 10%),
trong, điều kiện kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối khơng khác mức bình
thường nhiều. Lạm phát phi mã xảy ra khi giá trị hàng hóa tăng 2 hoặc 3 con số trong một
năm. Siêu lạm phát là lạm phát xảy ra khi tiền giấy bung ra quá nhiều giá cả tăng lên gấp
nhiều lần mỗi tháng.
b) Tác động của lạm phát
Lạm phát tác động đến nền kinh tế bằng hai cách: Một là, phân phối lại thu nhập
và của cải; Hai là, thay đổi mức độ và hình thức sản lượng.
Lạm phát cần bằng và có dự tốn trước khơng làm cho ai bị thiệt và có lợi, vì lúc
này, giá cả và tiền lương đều biến đổi theo cùng một tỷ lệ. Còn lạm phát khơng thấy
trước, thường có lợi cho những người mắc nợ, những kẻ tìm cách lời và đầu tư liều lĩnh,
có hại cho chủ nợ, giai cấp thu nhập ổn định, những người hưởng trợ cấp và những người
đầu tư nhát gan. Lạm phát gây ra những tác động kinh tế lớn. Khi lam phát khơng cân
bằng thì giá cả tương đối, thuế suất và lãi suất thực tế bị biến dạng. Nhân dân đến ngân
hàng nhiều hơn thuế có thể tăng lên, thu nhập tính được có thể bị biến dạng. Lạm phát
khơng dự tốn trước đến những đầu tư sai lầm, phân phối lại thu nhập một cách ngẫu
nhiên.
Vì vậy, trong nền kinh tế hiện đại, hạn chế lạm phát là một trong những mục tiêu
chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô.
c) Nguồn gốc của lạm phát
Lạm phát có xu hướng dừng lại ở một mức từ năm này qua khác gọi là lạm phát đã
tính tốn trước và được đưa vào các hợp đồng lao động và những thỏa thuận trước. Tỷ lệ
16
lạm phát là một cân bằng ngắn hạn và tồn tại cho đến khi nền kinh tế bị chấn động.
Những chấn động chính là cầu kéo và chi phí đẩy.
Lạm phát do cầu kéo diễn ra khi nền kinh tế tới hoặc vượt quá mức sản xuất tiềm
năng, việc mức cầu lúc này dẫn tới lạm phát. Trong trường hợp này, việc tăng mức cầu lúc
này dẫn tới lạm phát. Trong trường hợp này, với mức cung hạn chế về sản lượng thực tế,
tăng cầu làm tăng giá, dẫn đến tăng lạm phát.
Khi chi phí đẩy giá lên ngay cả trong những thời kì tài ngun khơng được sử dụng
hết, khủng hoảng diễn ra, gọi là lạm phát do phí đẩy. Đây là hiện tượng mới của nền kinh
tế công nghiệp hiện đại. Nguyên nhân là: Tăng tiền lương, làm tăng chí phí sản xuất, địi
hỏi doanh nghiệp phải tăng giá. Tăng tiền lương, làm tăng chi phí sản xuất, đòi hỏi doanh
nghiệp phải tăng giá. Tăng giá dầu lửa và các sản phẩm sơ khai.
d) Những biện pháp kiểm soát lạm phát
Chấp nhận mức lạm phát và suy thoái kinh tế. Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối
quan hệ trao đổi. Để giảm phát phải tăng thất nghiệp và ngược lại. Dùng “chỉ số hóa” và
những kỹ thuật thích ứng. Chỉ số hóa là một cơ chế, theo đó, người ta miễn dịch một phần
hoặc hồn tồn thay đổi ở trong mức giá nói chung. Kiểm sốt giá cả và tiền lương hay
hướng dẫn tự nguyện. Dựa vào kỷ luật của thị trường cạnh tranh để hạn chế việc tăng giá
cả và tiền lương.
Sử dụng chính sách thu nhập dựa trên thuế, như trợ cấp cho những người mà tiền
lương hoặc giá cả tăng chậm, đánh thuế vào những người làm tăng lạm phát.
Kinh tế Mỹ thập niên 1960 có hiện tượng tỷ lệ lạm phát khá cao mặc dù tốc độ
tăng trưởng GDP cũng cao. Để giải thích hiện tượng đó, các nhà kinh tế của trường phái
kinh tế học vĩ mô tổng hợp đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Phillips và dựng nên
đường cong Phillips dốc xuống phía phải trên một đồ thị hai chiều với trục hoành là các
mức tỷ lệ thất nghiệp và trục tung là các mức tỷ lệ lạm phát. Trên đường này là các kết
hợp giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Dọc theo đường cong Phillips, hễ tỷ lệ thất
nghiệp giảm xuống thì tỷ lệ lạm phát sẽ tăng lên; và ngược lại.
Từ đó, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ thất
nghiệp chính phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ thất nghiệp có
quan hệ ngược chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nền tăng trưởng kinh tế cao đương
nhiên gây ra lạm phát. Lạm phát là cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
II. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
2.1 Bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi
2.1.1 Trước năm 1986
Việt Nam là một nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển cơng
nghiệp nặng. Cơng nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và
nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện cơng nghiệp hóa là Nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước, việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực
17