MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.Phạm vi nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
6.Ý nghĩa của đề tài
7.Bố cục của đề tài
B.Phần nội dung
Chương1: Vai trò trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phụ nữ thành
phố (Hà Tĩnh)
1.1.Vai trò của phụ nữ trong dời sống xã hội nói chung
1.2.Vai trị của phụ nữ trong tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
Chương2: Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy vai trị của phụ nữ
trong xây dựng đời sống văn hố ở thành phố (Hà Tĩnh)
2.1.Thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở thành phố (Hà Tĩnh)
2.2.Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong xây dựng
đời sống văn hoá ở cơ sở
2.2.1.Giải pháp về nhận thức
2.2.2.Giải pháp về tổ chức
2.2.3.Thực hiện tốt chính sách xã hội đối với phụ nữ
2.2.4.Một số giải pháp trong lĩnh vực văn hoá
C.Phần kết luận
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới đã đặt con người ở một vị trí cực kỳ quan trọng, vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Song song với sự
đổi mới về kinh tế về chính trị thì hoạt động văn hố mặc nhiên trở thành hoạt
động thiết yếu là đối tượng không thể thiếu của cơng cuộc đổi mới, hay nói cách
khác nếu hoạt động kinh tế đáp ứng những nhu cầu vật chất cho sự tồn tại và
phát triển của con người. Thì hoạt động văn hoá đáp ứng những nhu cầu tinh
thần, tạo điều kiện cho con người thực sự trở thành “con người”. Sự thiếu thốn
về vật chất dễ làm tha hoá con người nhưng sự thấp kém về chí tuệ, sự trống
rỗng của tâm hồn, sự “ơ nhiễm” bầu khơng khí tinh thần của xã hội dễ tạo nên
sự hồi hố của xã hội ở mọi con người. Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở lành mạnh, tiến bộ là tiêu chí quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiệm vụ đó đang địi hỏi sức
mạnh của tồn Đảng, tồn dân, trong đó khơng thể khơng kể đến vai trò của hơn
phần nửa xã hội – vai trò của người phụ nữ. Trong tổ chức, xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở, phụ nữ là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nhân tố quan
trọng góp phần làm nên thắng lợi trong phong trào “tồn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hố”. Dù ở giai đoạn lịch sử nào, vai trò của phụ nữ ln được
khẳng định, ngày nay vai trị của người phụ nữ khơng chỉ bó hẹp trong khn
khổ gia đình mà nó ngày càng được vươn xa hơn ngồi xã hội.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước thì vai trị, vị trí của người phụ nữ Việt
Nam ngày càng được khẳng định và phát huy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đối với thành phố Hã Tĩnh, việc huy động sức mạnh của tồn dân, trong đó
có lực lượng đông đảo là phụ nữ, là việc làm có ý nghĩa quan trọng và hết sức
cần thiết trong giai đạon hiện nay.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc nhìn nhận và tạo điều kiện cho phụ
nữ phát huy vai trò của mình trong lĩnh vực xây dựng đời sống văn hố cơ sở ở
thành phố Hã Tĩnh cịn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao...Vấn đề này
đang đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành nhằm chung sức thực
hiện nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của hội LHPNVN lầ thứ X vừa mới
diễn ra vào những ngày đầu của tháng ba năm 2007 để góp phần khắc phục
những hạn chế nên tơi mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò trong xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở phụ nữ thành phố Hà Tĩnh”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về chân dung người
phụ nữ, họ khám phá, nghiên cứu về người phụ nữ ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh
vực khác nhau. Chẳng hạn như về vai trị của phụ nữ trong gia đình có đề tài
“Gia đình Việt Nam và vai trị của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay” của Thạc sỹ
Dương Thị Minh. Đề tài “Vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng gia đình mới ở
cơ sở phụ nữ thành phố Hà Tĩnh”. Ngồi ra phụ nữ cịn là trung tâm của hàng
loạt các tạp chí các báo: PNVN, thơng tin phụ nữ, Tạp chí cộng sản cả trong (1)
về phụ nữ trên mạng internet đề cập đến nhiều lĩnh vực xung quanh về người
phụ nữ.
Song, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò
của người phụ nữ trong xây dựng đời sống văn hố cơ sở ở Hà Tĩnh. Vì thế, tơi
quyết tâm thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và từ kết quả của việc khảo sát, vai trò của phụ nữ
thành phố Hà Tĩnh trong xây dựng đời sống văn hố cơ sở. Từ đó, đề xuất giải
pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng đời sống văn hoá ở sở ở
thành phố trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng, khố luận này khơng
có ý định đi vào các vấn đề chi tiết về vai trò của phụ nữ mà tập trung vào
những vấn đề sau:
- Tìm hiểu về vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội
- Khảo sát thực trạng vai trò của phụ nữ trong xây dựng đời sống văn hoá
cơ sở ở thành phố Hã Tĩnh hiện nay.
- Kiến nghị một số giải pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hơn nữa
vai trò của phụ nữ thành phố Hà Tĩnh trong xây dựng đời sống văn hoá lành
mạnh, tiến bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài này, trong q trình nghiên cứu tơi đã sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng và nhà nước về
vai trò của phụ nữ và về đời sống văn hoá xã hội. Đề tài còn sử dụng các phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp thống kê số liệu.
- Phương pháp tiếp cận, phỏng vấn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đại hội đại biểu hội LHPNVN lần thứ X diễn ra vào đầu tháng ba năm
2007 vừa qua là dịp để đánh giá nhìn nhận lại vai trò của phụ nữ Việt Nam trên
mọi phương diện của đời sống xã hội mà trong những năm qua, hội LHPNVN
đạt được sự kiện này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội nói
chung và đối với những ngành, những lĩnh vực đang quan tâm đến phụ nữ nói
riêng. Đối với đề tài khố luận này, tơi đã cụ thể hố hơn vai trị của phụ nữ
trong lĩnh vực văn hoá ở thành phố Hà Tĩnh. Nhằm khẳng định lại và phát huy
hơn nữa vai trị của phụ nữ trong mơi trường xây dựng văn hố lành mạnh, tiến
bộ ở từng địa phương, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược, xây dựng nền
văn hoá “tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc”. Bên cạnh đó đối với dung
lượng không lớn nhưng đề tài đã phản ánh được thực trạng về việc phát huy vai
trò của phụ nữ thành phố Hà Tĩnh từ đó, cung cấp cho Hội CHPN TPHT những
giải pháp để nhằm phát huy hơn nữa vai trị của chị em trong lĩnh vực văn hố ở
từng địa phương.
Ngồi ra, khố luận này có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành giáo dục chính trị. Cho cán bộ phụ nữ ở cơ sở trong việc tìm hiểu
nghiên cứu trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo, khố luận gồm có hai
chương:
Chương1: Vai trị trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phụ nữ thành
phố Hà Tĩnh
Chương2: Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ
trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở thành phố Hà Tĩnh.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG1:
VAI TRÒ TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ PHỤ
NỮ THÀNH PHỐ HÀ TĨNH
1.1. Vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội nói chung
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc, người phụ nữ Việt
Nam đã để lại nhiều trang sử hào hùng.
Bóng dáng phụ nữ Việt Nam thời kỳ nào của đất nước cũng mang những
dáng vẻ rất riêng. Thời kỳ trước mở đường cho thời kỳ sau, tạo thành một chuỗi
những viên ngọc sáng, những làn hương thơm những giọt nắng lung linh. PNVN
vượt qua giai đoạn lịch sử của dân tộc luôn luôn biết lựa chọn thế đứng, lựa
chọn những hành vi trí tuệ và lựa chọn nơi đặt trái tim mình. Quan niệm và vai
trị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dưới chế độ phong kiến người
phụ nữ phải chịu đựng bao thiệt thòi bất hạnh, bị ràng buộc bởi những thuộc lệ
hà khắc, những quan điểm khắt khe cay nghiệt. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”.
Thể hiện rõ nhất trong chế độ phong kiến. Tính chất gia trưởng của người đàn
ơng đề nặng lên người phụ nữ khơng có quyền hành nào cả. Bởi vậy mà phụ nữ
ở thời kỳ này khơng được coi trọng, thậm chí bị vùi dập bởi những hủ tục lạc
hậu.
Người con gái khi đến tuổi lấy chồng, khơng có quyền lựa chọn người
mình thương u, phải theo sự sắp đặt của cha mẹ “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”. Lễ giáo phong kiến quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” nên người phụ
nữ khơng có quyền giao kết với đàn ơng nếu đó chưa phải là chồng mình. Người
đàn ơng trong xã hội này có thể “trai anh hùng năm thê bảy thiếp” nhưng người
con gái chỉ có “chính chun một chồng”. Như thế mới thấy được sự bất công
của xã hội này. Hơn nữa xã hội phong kiến cịn có những hình phạt nặng nề cho
người phụ nữ “lỡ” có vi phạm những lễ giáo trên như: cạo trọc đầu, bôi vôi thả
trôi sông, bị coi khinh và bị bỏ rơi...
Những người phụ nữ khi có gia đình thì bị gánh nặng bởi thuyết tam tòng
“tại gia tòng phụ, xuất giá thành phu, phu tử thành tử”. Nghĩa là khi cịn nhỏ thì
theo cha, khi lấy chồng theo chồng, khi chồng chết theo con.
Người phụ nữ với thân phận tầm gửi, số phận và cuộc đời họ phụ thuộc
vào người chồng, người phụ nữ chỉ bó mình trong gia đình, cơng việc đồng áng
ni chồng, chăm con, khơng có vai vế nào trong xã hội. Vai trò của người phụ
nữ trong thời kỳ này có chăng chỉ bó hẹp trong gia đình, khơng được đánh giá
đúng như những gì mà người phụ nữ có thậm chí cịn cho rằng “nhất nam vơ
hữu, thập nữ viết vô”
Ách thống trị giai cấp các thế lực phong kiến kéo dài hàng nghìn năm đã
đè nặng lên đời sống mọi mặt của nhân dân nói chung và người phụ nữ nói
riêng. Đặc biệt từ khi các thế lực của bọn phong kiến phương Bắc tràn vào nước
ta thì người phụ nữ càng chịu nhiều cực hình hơn “ở thế kỷ XIII khi giặc
Nguyên – Mông tràn vào Thăng Long, biết bao phụ nữ, trẻ em là nạn nhân của
sự hung hãn đó, khi mà giặc Minh kéo quân vào chúng đã cướp bắt đàn bà, con
gái, mổ bụng đàn bà có thai, giết chết cả mẹ lẫn con... Chúng cịn bắt phụ nữ của
ta về làm tơi tớ, tỳ thiếp. Chưa dừng lại ở đó, đến thế kỷ thứ XVIII giặc Mãn
Thanh và bè lũ tay sai đã trói phụ nữ vào cột ở giữa chợ, giết cả mẹ lẫn con, nếu
như họ đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Máu, nước mắt, thân phận thấp hèn thấm
trong từng nẻo đường lịch sử”...
Vào thế kỷ XIX khi thực dân Pháp xâm lược nước ta triều đình nhà
Nguyễn đốn hèn đã trao nước ta cho Pháp. Từ đó dân tộc ta chìm đắm trong bùn
đen nơ lệ thân phận phụ nữ cũng bi đát hơn. Ngay từ những ngày đầu xâm lược
giặc Pháp đã đốt phá, giết chết và hãm hiếp, gây biết bao tai hoạ cho nhân dân
và phụ nữ. Sự cấu kết của thực dân Pháp với bọn tay sai, địa chủ phản động,
chúng đã thi hành những chính sách hết sức tàn bạo. Chúng mở cửa nhà tù, nhà
chứa, tiệm nhảy nhiều hơn bệnh viện, nhà hộ sinh, chúng mở quầy rượu, thuốc
phiện nhiều hơn trường học, trong suốt thời gian thống trị đất nước, thực dân
Pháp đã dìm dân tộc ta vào cuộc sống nơ lệ, đói nghèo, dốt nát, lạc hậu, thân
phận người phụ nữ chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
Trước bối cảnh như vậy nhân dân ta lớp lớp các thế hệ đã vùng dậy đấu
tranh đòi lại độc lập,tự do cho dân tộc phong trào cách mạng diễn ra rầm rộ, đặc
biệt những cuộc khởi nghĩa yêu nước nổ ra vào thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của
các vị tiền bối như Hàm Nghi, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, nhưng cuối cùng đều bị thất bại do chưa có đường lối cách mạng đúng
đắn, chưa có phương pháp cách mạng khoa học. Trong lúc nước sôi lửa bỏng đó
của dân tộc Nguyễn ái Quốc xuất hiện, người đã tìm ra con đường cách mạng
đáp ứng nhu cầu trong nước và phù hợp với xu thế thời đại, đồng thời do sự lựa
chọn đúng đắn của Người và của dân tộc. Từ đó, Người tích cực học tập nghiên
cứu, hoạt động để làm cho cách mạng vô sản trở thành hiện thực ở Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Kể
từ đó cách mạng Việt Nam có tổ chức lãnh đạo đã đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đất nước được hoàn toàn độc lập, tự do và cũng từ đó số phận của
người phụ nữ bước sang trang mới.
- Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, nhà nước về phụ nữ.
Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh là người anh hùng giải phóng dân tộc. Người đã
hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
nhằm đem lại độc lập tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Trong suốt
cuộc đời hoạt động của mình chủ tịch Hồ Chí Minh là người ln quan tâm đến
sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Người sớm nhận thấy vai trò và đã phát huy hiệu
quả, khả năng to lớn của phụ nữ, khẳng định sự tham gia của phụ nữ là nhân tố
quyết định thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Người viết: “Đầu thế
kỷ thứ nhất, hai bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nhân dân cho đến
ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên,
góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”[8; 148].
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, lúc ở nước ngồi cũng như
khi trực tiếp về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra sức mạnh to lớn của phụ nữ Việt Nam “An Nam cách mệnh thì cũng
có nữ giới tham gia mới thành cơng” [9; 289].
Từ việc nhận thức được vai trò của chị em phụ nữ, Hồ Chí Minh đã kêu
gọi chị em phụ nữ tham gia vào phong trào cách mạng, tham gia vào hội phụ nữ
ở các cơ sở. Tập hợp họ vào mặt trận Việt Minh cùng với các giai cấp, tầng lớp
khác, không phâb biệt già, trẻ, gái trai, giàu nghèo tơn giáo…Đều chung sức,
đồng lịng đứng lên giải phóng khỏi ách gơng xiềng, giành tự do độc lập. Sức
mạnh của khối đại đồn kết tồn dân đó đã làm nên thắng lợi vẻ vang của cách
mạng Tháng Tám – 1945 – khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ. Từ
đây, địa vị phụ nữ có sự thay đổi: người phụ nữ có quyền bầu cử, ứng cử vào cơ
quan quyền lực cao nhất. Và người phụ nữ thoát khỏi ách thống trị của chế độ
phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta, người phụ nữ dần dần được
cởi trói và bước đầu thể hiện được vai trị của mình trong tiến trình cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
của dân tộc ta, phụ nữ có mặt trên khắp các mặt trận, tham gia phong trào “Ba
đảm đang”, vừa diệt giặc nơi tuyền tuyến, vừa bảo vệ hậu phương tích cực tham
gia sản xuất đảm bảo cho quân đội ăn no đánh thắng, phục vụ chiến đấu và trực
tiếp chiến đấu.
Có thể nói, phụ nữ đã có những đóng góp rất lớn trong giai đoạn này,
nhiều bà mẹ với tình yêu thương nước cao cả đã động viên chồng con tịng qn
diệt giặc khơng sợ gian khổ hy sinh, nhiều phụ nữ tham gia vào đội dân quân tự
vệ bắn rơi máy bay địch, ở tiền tuyến “đội quân tóc dài” nổi tiếng kiên cường,
dũng cảm, mưu trí và sáng tạo. Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, theo
dõi những hoạt động cách mạng của chị em. Người rất cảm động trước những
việc làm tình cảm cao đẹp của các bà mẹ, người vợ, người chị đối với các chiến
sỹ cách mạng. Người nói “Các bà mẹ chiến sỹ và các chị em giúp thương binh
đã hoà lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sỹ thành một mối yêu thương
không bờ bến mà giúp đỡ và săn sóc thương binh như con em ruột của mình”
Hồ Chí Minh đã nhìn nhận đánh giá phụ nữ Việt Nam không chỉ anh hùng trong
chiến đấu, phục vụ chiến đấu mà họ cịn đóng vai trị rất quan trọng trong cơng
cuộc xây dựng đất nước, xã hội và gia đình. Người đã đặt phụ nữ vào vị trí mới
trong gia đình và ngồi xã hội, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy mọi tài năng,
sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước và sự tiến bộ của xã hội. Người
viết: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân, để xây dựng CNXH thì phải thật
sự giải phóng phụ nữ và tơn trọng quyền lợi của phụ nữ. Hiến pháp và pháp luật
của nước ta quy định điều đó” [7; 225].
Hồ Chí Minh ln dành sự quan tâm ưu ái đặc biệt cho phụ nữ, Người
còn khẳng định mục tiêu: “Chúng ta phải làm cách mạng để giành lấy tự do, độc
lập, dân chủ, bình đẳng trai gái đều ngang quyền nhau”.
Đảng và nhà nước luôn coi trọng vấn đề giải phóng phụ nữ, coi đó là
nhiệm vụ, bổn phận của sự nghiệp cách mạng, thấm nhuần tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đã nổ lực không nhằm xây dựng một nền kinh
tế, chính trị văn hố, pháp luật mới, tạo những tiền đề cơ bản để khơng ngừng
giải phóng phụ nữ để xây dựng CNXH, đều đó chứng tỏ rằng cách mạng XHCN
do giai cấp công nhân lãnh đạo là cuộc cách mạng triệt để. Bảo đảm cho mọi
giai cấp tầng lớp, trong đó có người phụ nữ được giải phóng thực sự và tạo mọi
điều kiện để người phụ nữ được tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội. Xoá
bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Hồ Chí Minh nhắc nhở “giải phóng
người đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong
người đàn ông”. Chỉ khi đưa phụ nữ tham gia vào các hoạt động, chính trị, kinh
tế, xã hội mới đảm bảo được quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Trước lúc đi xa Người đã căn dặn trong di chúc “Đảng và chính phủ cần
phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng cân nhắc và giúp đỡ để ngày thêm
nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”.
Sự tiến bộ của xã hội là điều kiện cho người phụ nữ được giải phóng,
khắc phục những tư tưởng trọng nam khinh nữ, những tập quán lỗi thời đã và
đang ăn sâu vào trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình và mọi tầng lớp xã
hội.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ khơng chỉ dựa vào chính sách của xã hội,
của Đảng và nhà nước mà ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp giải phóng phụ
nữ là sự phấn đấu nổ lực, sự khẳng định của chính bản thân phụ nữ. “Mỗi một
người và tất cả phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của một người làm chủ đất
nước tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây
dựng nước nhà, xây dựng CNXH. Muốn làm trịn nghĩa vụ vẻ vang đó phụ nữ ta
phải xố bỏ tâm lý tự ty, ỉ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập, nâng cao lên mãi
trình độ chính trị, văn hố, kỹ thuật” [7; 294 - 295]. Do đó quyền và nghĩa vụ
của phụ nữ Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Tiếp thu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ, Đảng ta kể từ khi
ra đời cho đến nay đã luôn quan tâm dõi theo từng bước đi của chị em phụ nữ
thông qua nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ta dành cho phụ nữ.
Ngay trong ngày thành lập Đảng cộng sản Đông Dương (3/2/1930), trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ
phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải
giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải
phóng phụ nữ. Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia vào các đoàn thể cách mạng
và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp chị em phụ nữ
tham gia cách mạng. Chính vì vậy, mà vào ngày 20/10/1930, hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này nói lên quan điểm
của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ,
đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. “Lịch sử dân tộc đã cho thấy phụ nữ Việt
Nam chúng ta có một truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, cho sự tiến
bộ của giới hàng ngàn năm nay. Ở đây có lẽ khơng cần nhắc phụ nữ chúng ta đã
đóng góp tích cực và to lớn như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Pháp và
đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đội quân tóc dài đã trỏ
thành huyền thoại không chỉ trong nhân dân ta mà cả thế giới biết đến. Với
truyền thống dân tộc hun đức hàng nghìn năm, với đức tính hy sinh cao cả và
tình cảm dạt dào của người phụ nữ hết lòng yêu chồng, yêu con, yêu quê hương,
đất nước, các tầng lớp phụ nữ từ nông thôn đến thành thị, từ trẻ đến già đã cống
hiến hết mình cho thắng lợi vĩ đại của đất nước ”. (Đó là bài phát biểu của
Nguyễn Thị Bình ngun phó chủ tịch nước, chủ tịch quỹ hồ bình và phát triển
Việt Nam tại buổi gặp mặt lãnh đạo trung ương hội LHPNVN tại thời kỳ).
Đặc biệt sự quan tâm của Đảng và nhà nước được thể hiện rõ trong Nghị
quyết của bộ chính trị về cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất
nước (27/4/2007 đồng chí Trương Tấn Sang thay mặt bộ chính trị ban hành Nghị
quyết).
Sau khi đánh giá tình hình cơng tác phụ nữ thời gian qua và chỉ ra những
nguyên nhân của nó, đồng chí đã nhấn mạnh: “Để đẩy mạnh tồn diện trong
cơng cuộc đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh. Đảng ta đặc biệt coi trọng việc phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên sự nỗ lực vượt bậc của tồn dân, trong đó
có phụ nữ. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn
cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng đất nước và thực hiện bình đẳng giới
”.
Nghị quyết đưa ra một số quan điểm như sau:
+ Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH –
HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đảng
giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là một trong những
nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
+ Công tác phụ nữ sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy đựoc
tinh thần làm chủ tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của
các tầng lớp phụ nữ góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để phát
triển đất nước. Đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt quan tâm
đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực
hiện tốt vai trị người cơng dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người.
+ Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai
trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng chiến lược
công tác cán bộ của Đảng.
+ Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã
hội và từng gia đình, trong đó hạt nhân lãnh đạo là các cấp uỷ Đảng, trách nhiệm
trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ
nữ mà nịng cốt là các cấp hơi LHPNVN.
Sau hơn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước ta đã thu được nhiều thành
tựu quan trọng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, thành cơng này có được nhờ đường
lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và cơng sức của tồn dân trong đó hơn phần nửa
dân số là phụ nữ. Chị em đã tích cực tham gia vào phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH – HĐH, trong đội ngũ những nhà doanh
nghiệp trẻ năng động, sáng tạo có khơng ít gương mặt tài giỏi của chị em phụ nữ
và trên các lĩnh vực khác chị em thể hiện được tài năng, đức độ của mình để
xứng đáng với lòng mong mỏi của Bác Hồ, Người đã chăm lo cho sự nghiệp giải
phóng phụ nữ: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra
sức dệt thêm tốt đẹp rực rỡ” [6; 431 - 432].
Vai trò của phụ nữ trong đời sống nước ta hiện nay:
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một
chặng đường đầy gian nan, thử thách nhưng cũng đầy oanh liệt với những chiến
công chói ngời ở đó con người Việt Nam phần nửa là phụ nữ được tôi luyện và
trưởng thành ngày càng khẳng định những phẩm chất, tinh hoa tốt đẹp, lòng yêu
nước chống giặc ngoại xâm trong chiến tranh và sự cần cù sáng tạo trong xây
dựng đất nước, lại vừa làm tròn nhiệm vụ của người nhạc trưởng trong dàn nhạc
gia đình, vun vén xây dựng gia đình “ấm no tự do, bình đẳng, hạnh phúc”.
Ngồi ra, người phụ nữ hiện đại cịn tham gia vào cơng tác xã hội, nghiên cứu
khoa học…, trên những lĩnh vực đó ln ghi dấu những chiến cơng của chị em
phụ nữ.
Trong tiến hình lịch sử phat triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam ln là
một nguồn nhân lực quan trọng, có trí tuệ dồi dào và có nhiều đóng góp to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc với 51% lục lượng lao động xã
hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, phụ nữ nước ta đã phát huy
được khả năng của mình tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, phụ nữ
là những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và tinh thần
cho xã hội.
Thế kỷ XXI là thế kỷ có nhiều biến đổi sâu xắc đó là thế kỷ mà khoa học
cơng nghệ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy, kinh tế tri thức sẽ chiếm vị
trí ngày càng lớn trong q trình phát triển. Tồn cầu hố là một xu thế khách
quan ngày càng có nhiều nước tham gia là những ngưịi vinh dự đựơc sống trong
thế kỷ XXI, mỗi người, mỗi phụ nữ Việt Nam cần có những suy nghĩ và hành
động để đáp ứng yêu cầu của đất nước và tiến kịp xu thế của thời đại.
Cũng như phụ nữ trên thế giới, phụ nữ Việt Nam hứa hẹn nhiều tiềm năng
phát triển trong tương lai vì chị em vẫn chiếm số đơng trong lực lượng xã hội.
Với đức tính cần cù thông minh, sáng tạo và với ý thức phấn đấu vươn lên dám
nghĩ, dám làm, chị em có thể tham gia vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế,
văn hoá xã hội. Nếu như ngày xưa phụ nữ chỉ biết đến những công việc bếp núc
gia đình, vai trị của phụ nữ chưa được đánh giá đúng mức thì ngày nay người
phụ nữ được biết đến không chỉ với tư cách là người mẹ sinh đẻ ni con và làm
cơng việc nội trợ gia đình mà cịn tham gia tích cực vào sản xuất và các hoạt
động xã hội khác.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay phụ nữ chiếm hơn 50% trong tổng số
hơn 73 triệu lực lượng lao động xã hơi, vai trị của phụ nữ trong xã hội hơn lúc
nào hết, đã được phát huy cao dộ. Khi vai trò của người phụ nữ trong gia đình
được đề cao được bình đẳng, hạnh phúc họ sẽ có điều kiện thuận lợi để tham gia
tích cực những cơng việc xã hội, ngược lại xã hội ngày càng phát triển tạo điều
kiện mọi mặt cho người phụ nữ có cơ hội thể hiện mình trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, cũng từ đó nâng cao được trình độ nhận thức và họ sẽ có khả năng
chủ động xây dựng đời sống xã hội lành mạnh.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường đang từng ngày len lỏi vào
các ngõ ngách của đời sống nhân dân, nó huy động tối đa nguồn lực trong nước,
phát huy hết vai trò của các thành phần kinh tế, các tổ chưc kinh tế và của mỗi
người lao động, trong đó lao động nữ chiếm hơn 50% lao động cả nước, lao
động nữ tham gia vào các doanh nghiệp, các tổ chức doanh nghiệp, áp dụng
những tiến bộ nhiều khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp cũng như
sự ra đời của một số ngành, nghề thủ công, hàng mỹ nghệ đã tạo nhiều cơ hội
việc làm cho lao động nữ ở nông thôn. Phụ nữ thực sự là lực lượng lao động
quan trọng hoạt động kinh tế xã hội. Hưởng ứng phong trào “Phụ nữ giúp nhau
phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước” của hội LHPNVN đã
khơi dậy được tiềm năng to lớn, sức sáng tạo và truyền thống nhân ái tốt đẹp của
người phụ nữ vào sự phát triển kinh tế.
Trong thời kỳ 1990 – 1995 tỷ lệ nữ là chủ doanh nhiệp chiếm từ 15 –
17%. Đến năm 2002 lên tới 24,74% các nữ doanh nghiệp tham gia vào những
lĩnh vực như: thương nghiệp may mặc, giáo dục đào tạo…
Hơn 20 năm đổi mới đất nước với quan điểm đặt cách mạng trung tâm
của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mọi tiềm năng trong mỗi cá nhân và cả
cộng đồng trong đó có cả tồn bộ chị em phụ nữ đã được khơi dậy. Trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội phụ nữ đã phát huy cao độ khả năng của mình với xu
hướng ngày càng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Nhiều phụ nữ tham gia vào nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
nhân văn, hội LHPNVN đã tơn vinh những nữ khoa học có cơng trình nghiên
cứu trong khoa học tự nhiên và khoa học giáo dục, bằng việc hàng năm, hội trao
giải thưởng Kôvalepskaia…, hơn 20 năm từ khi thành lập (1985) cho đến nay
giải thưởng này đã trao cho 28 nhà khoa học nữ và 12 tập thể khoa học nữ xuất
sắc của Việt Nam. Năm 2005, uỷ ban giải thưởng Kôvalepskaia tổ chức trao giải
thưởng 2 tập thể và 2 cá nhân có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học tự nhiên. Hai cá nhân đó là: PGS – TS, nhà giáo ưu tú Trần Thị Luyến
phó hiệu trưởng trường Đại học Thuỷ Sản. Đại tá, PGS – TS Nguyễn Thị Hà chủ
nhiệm khoa bệnh viện trung ương quân đội 108.
Trong hoạt động y tế, với tinh thần “thầy thuốc như mẹ hiền”, phụ nữ
ngành y tế đã đóng góp nhiều cơng sức cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của
nhân dân và phòng chống các tệ nạn xã hội. Đặc biệt trong các chương trình
quốc gia như tiêm chủng vacxin phòng 6 bệnh cho trẻ em: Bạch hầu, uốn ván,
ho gà, lao, sỏi bại liệt và các chương trình chăm sóc bà mẹ và trẻ em, phịng
chống tệ nạn ma tuý, mại dâm… Đem niềm hạnh phúc, niềm vui cho nhiều gia
đình trong xã hội.
Trong quá trình đổi mới, nhà nước ta đã và đang từng bước hồn thiện
chính sách nhằm thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, việc đấu tranh cho sự bình
đẳng nam nữ trong suốt thời gian qua đã mở rộng sự tham gia của phụ nữ vào
đời sống xã hội. Phụ nữ Việt Nam đã đạt nhiều vị trí cao trong bộ máy của Đảng
và nhà nước. Không ai không biết đến người phụ nữ tài ba lỗi lạc bà Nguyễn Thị
Bình đã từng đại diện cho chính phủ cộng hồ miền nam Việt Nam trong lễ ký
Hiệp định Paris, là phó chủ tịch nước CHXHCNVN trong nhiều năm, hiện bà là
chủ tịch uỷ ban giải thưởng Kơvalepskaia. Hiện nay ở bộ máy nhà nước có các
đồng chí nữ nắm giữ những chức vụ quan trọng như: Đồng chí Trương Mỹ Hoa
uỷ viên trung ương Đảng, phó chủ tịch nước CHXHCNVN; đồng chí Tịng Thị
Phóng uỷ viên trung ương Đảng, trưởng ban dân vận trung ương; đồng chí Hà
Thị Khiết chủ tịch hội LHPNVN…
Vượt qua những khó khăn dũng cảm, đối mặt với những thách thức của
thời kỳ mới, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Một lần nữa, bản lĩnh, phẩm chất và khả năng to lớn
của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc lại được khẳng định.
Trình độ mọi mặt của phụ nữ và phong trào của hội liên hiệp phụ nữ có những
bước phát triển mới về chất. Đến nay, trong số cán bộ có trình độ đại học và trên
đại học, phụ nữ chiếm tỷ lệ 26%. Trong các ngành nghề chuyên môn, các cơ
quan nghiên cứu khoa học số đông phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao, có 65% chun
gia trong lĩnh vực văn hố, nghệ thuật, ngoại ngữ, lịch sử và quan hệ quốc tế;
57% chuyên gia trong ngành y tế,dược phẩm; 58% các nhà khoa học xã hội;
44% chuyên gia kinh tế; 48% giáo viên bậc đại học và cao đẳng có hàng trăm
phụ nữ được công nhận “Bng lao động sáng tạo” của Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam. Nhiều phụ nữ tiêu biểu tham gia các cơ quan lãnh đạo của Đảng,
chính quyền, đồn thể, các ngành, các cấp: Phó chủ tịch nước, phó chủ tịch quốc
hội, uỷ viên bộ chính trị, uỷ viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh uỷ, bộ trưởng chủ
tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, chủ tịch, phó chủ tịch các đồn thể chính trị xã hội.
Nữ đại biểu quốc hội đạt tỷ lệ 27,3% nữ đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và
huyện đạt tỷ lệ trên 20%.
Nhìn chung trong hoạt động quản lý xã hội, phụ nữ tham gia vào các cấp
uỷ Đảng, chính quyền đoàn thể từ trung ương đến cơ sở ngày càng tăng. Với
những cương vị trọng trách đó, phụ nữ đang cống hiến ngày càng nhiều cho sự
phát triển đất nước.
Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi sướng và lãnh
đạo, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang của thời kỳ
kháng chiến cứu nước. Phụ nữ Việt Nam ngày càng thể hiện rõ ý thức tự giải
phóng mình vượt lên khó khăn nhiều mặt về gia đình, giới tính, tham gia làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội, đóng góp tích cực vào mọi lĩnh vực của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Trên khắp các cổng trường, ngư trường, đồng
ruộng cũng như trường học, viện nghiên cứu đã có hàng ngàn nữ doanh nhân
quyết đốn, sáng tạo. Hàng trăm chị em có cơng trình nghiên cứu xuất sắc trong
giáo dục đào tạo văn hoá, văn nghệ, y tế, thể dục thể thao. Hàng triệu chị em vừa
nêu gương sáng trong lao động, vừa nêu kinh nghiệm tốt trong việc ni con tốt,
dậy con ngoan…Nhìn chung trên những lĩnh vực nào có phụ nữ tham gia đều
đạt những thành tựu đáng kể góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất
nước.
1.2. Vai trò của phụ nữ trong tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở
- Nội dung chủ yếu của cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1981)
đây là một chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây
dựng văn hoá, lối sống và con người phù hợp với đòi hỏi của đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Văn kiện Đại hội V của đảng nhấn mạnh “một nhiệm vụ
của cách mạng tư tưởng và văn hoá là đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống
hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa ở cơ sở, đảm bảo
mỗi nhà máy, công trường, nông trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an
nhân dân, mỗi cơ quan trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi hợp tác xã, phường
ấp đều có đời sống văn hố”. Thực hiện chủ trương này, nhà nước đã đề ra kế
hoạch thực hiện nhằm “Đảm bảo cho phần lớn cơ sở đều có hoạt động văn hố,
nhân dân lao động được đọc báo, nghe đài, xem ti vi, xem nghệ thuật, đặc biệt
chú ý các vùng nông thôn, vùng dân tộc ở vùng cao biên giới. Theo phương
châm nhà nước và nhân dân cùng làm, cần củng cố xây dựng các cơ sở văn hoá
cấp tỉnh và huyện, xây dựng nhà văn hố, thư viện, rạp chiếu bóng, bảo tàng,
triển lãm,…ở phường xã hay cụm kinh tế kỹ thuật, từng bước xây dựng cơ sở
văn hoá tuỳ thuộc theo thực tế ở cơ sở”.
Đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược, bởi vì xây dựng đời sống văn hố ở
cơ sở tạo ra những điều kiện cần thiết để tiến hành công cuộc xây dựng nền văn
hoá mới, lối sống mới và con người mới ngay tại cơ sở.
Xây xựng văn hoá ở cơ sở được coi như bước đi ban đầu trong q trình
xây dựng nền văn hố mới, đó là cơng việc xây dựng kết cấu văn hố hạ tầng cơ
sở để tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục mở mang dân trí,bồi dưỡng đạo
đức, thẩm mỹ và tổ chúc hoạt động văn hoá trong thời gian rỗi theo nhu cầu của
người dân lao động.
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là thực hiện, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong việc sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ những giá trị văn hoá
nghệ thuật tiên tiến, tạo dựng một lối sống văn minh lịch sự, hình thành những
phong tục tập quán, lễ thức tốt đẹp vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa phù hợp với
trào lưu văn hoá tiến bộ của nhân loại.
Cuối cùng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một mạng lưới thiết chế
văn hoá bao gồm: nhà văn hoá, câu lạc bộ, thư viện, nhà truyền thống trường
học, trạm y tế, sân vận động viên tạo nên một cảnh quan văn hố mới ở nơng
thơn cảnh quan ấy mang đặc trưng kiến trúc của thời đại mới của dân tộc vừa
hiện đại.
Đơn vị cơ sở là hình thái cơ bản của cấu trúc xã hội, đó là những cộng
đồng dân cư cơ bản liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất và tinh thần,
có tình thương trong đời sống hàng ngày. Có thể nói mỗi cộng đồng dân cư có
địa bàn sinh sống ổn định và có tổ chức hành chính ổn định là một đơn vị văn
hố ở cơ sở. Chính vì vậy cần phải xây dựng văn hoá ngay trong đời sống hàng
ngày của nhân dân.
Những chỉ tiêu đời sống văn hoá ở cơ sở là những chỉ tiêu của đời sống
văn hoá cao, muốn đạt tới phải trải qua một sự phấn đấu lâu dài trong điều kiện
nền kinh tế đất nước ta hiện nay mặc dù đã có nhiều bước phát triển nhưng
chúng ta chưa thể nói đến sự thoả mãn đầy đủ mọi nhu cầu văn hoá của nhân
dân, cũng như chưa thể cùng một lúc xây dựng đủ các thiết chế văn hoá xã hội,
tuy vậy, khi hướng về các mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, toàn
Đảng, toàn dân đang phấn đấu tạo ra các hoạt động văn hoá ngày càng phong
phú, thiết thực xây dựng đời sống văn hố thích hợp với những điều kiện trú
qn của địa phương mình. Có thể nói nhu cầu văn hoá của nhân dân rất đa
dạng, các hoạt động đáp ứng nhu cầu văn hoá cũng phải phong phú mới phản
ánh tính đa dạng ấy có thể quy tụ các hoạt động ấy vào một số mặt hoạt động
như:
- Hoạt động thông tin, tuyên truyền và cổ động.
- Hoạt động câu lạc bộ.
- Hoạt động thư viện, đọc sách báo.
- Hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử và cách mạng.
- Hoạt động văn nghệ quần chúng.
- Hoạt động xây dựng nếp sống mới.
- Hoạt động thể dục – thể thao, vui chơi, giải trí.
- Các hoạt động xã hội mang tính từ thiện.
Sự phân loại trên đây căn cứ vào hình thức tổ chức của mỗi dạng hoạt
động, tuy nhiên sự phân loại nào cũng mang tính quy ước, nghĩa là tuỳ theo tình
hình thực tế của địa phương mà người ta có thể gộp lại thành một dạng chung
hơn hoặc chia một dạng ra thành nhiều dạng nhỏ để tiện cho việc quản lý.
Nhìn chung, các dạng hoạt động biểu thị bộ phận động thái của đời sống
văn hoá ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hố nói chung đặc biệt đời sống văn hố
ở khu dân cư nhằm tạo ra sức mạnh nội sinh cho tăng trưởng kinh tế xã hội đồng
thời tác động trực tiếp đến sự phát triển đồng bộ của các địa bàn cơ sở trên cả
nước.
Từ năm 1991 phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được tiếp thêm
sức mạnh nhờ cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
do Đảng và nhà nước ta phát động và chỉ đạo. Nhiều tỉnh, thành phố, huyện thị,
làng xã, thơn xóm đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm thực hiện tốt cuộc vận
động đó của mặt trận Tổ Quốc Việt Nam như việc xây dựng nếp sống văn minh,
xây dựng khu phố, làng xã văn hố, gia đình văn hố.
Cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố ở khu dân
cư ” do mặt trận Tổ Quốc Việt Nam phát động gồm có 6 nội dung lớn đó là:
+ Vận động nhân dân đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo.
+ Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân tương ái”,
thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa và từ thiện.
+ Phát huy dân chủ giữ gìn kỷ cương, đảm bảo trật tự an tồn xã hội ở cơ
sở.
+ Xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân
tộc.
+ Giữ gìn mơi trường sinh thái chăm lo sự nghiệp giáo dục y tế, dân số,
thể dục thể thao…
+ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức và động viên nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và củng cố hệ thống chính trị
vững mạnh.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển và nâng cao các phong trào, các cuộc vận
động của các tầng lớp nhân dân do Đảng lãnh đạo, từ trước đến nay cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống ở khu dân cư” đã trở thành một
phong trào rộng lớn mang tính tồn dân, thực hiện tư tưởng chủ tịch Hồ Chí
Minh “lấy sức dân mà xây dựng cuộc sống cho dân” phát huy truyền thống đoàn
kết tương thân tương ái của dân tộc, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân ở
cơ sở, giúp nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và khu
dân cư giàu mạnh, văn minh góp phần ổn định tình hình xã hội.
Nhìn lại qua strình triển khai và những kết quả mà cuộc vận động đạt
được như thông qua cuộc vận động đã tăng cường và mở rộng việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân, làm cho khối đại đồn kết dân tộc khơng ngừng được củng
cố, tăng cường góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của nhân dân, từ mỗi địa bàn
dân cư.
Đạt được những thành tích to lớn như vậy là nhờ vào kết quả mà cuộc vận
động đạt được góp phần đẩy nhanh q trình CNH – HĐH đất nước.
- Vai trò của phụ nữ trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở:
Nếu như người phụ nữ xưa chỉ là con người bổn phận và trách nhiệm để
nhằm thoả mãn những yêu cầu mà xã hội và gia đình đặt ra (chủ yếu là gia
đình), thì gia đình trong xã hội hiện đại đang cần những người mẹ, người vợ
đảm đang tinh tế, thông minh, nhân hậu. Mặt trái của cơ chế thị trường với
những áp lực rất lớn đòi hỏi người phụ nữ phải có hiểu biết, trình độ, có thời
gian để gìn giữ và bảo vệ tổ ấm của mình, để tạo dựng một gia đình hạnh phúc.
Người phụ nữ được giải phóng nếu muốn thực sự làm chủ được bản thân, gia
đình và xã hội thì phải vươn lên để thành đạt trong sự nghiệp có thu nhập cao,
có cuộc sống tinh thần phong phú và ngày càng thể hiện được vai trị của mình
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người phụ nữ hiện đại có vai trị kép vừa
là con người gia đình, vừa là con người xã hội, vừa giỏi việc nước, vừa là người
xây dựng tổ ấm. Thời đại kinh tế tri thức đòi hỏi người phụ nữ trước hết phải có
trí tuệ, tài năng rồi đến sự khéo léo, tháo vác và sức khoẻ tốt trong gia đình,
ngưịi phụ nữ cần rất nhiều thời gian và sức lực để lo cho cuộc sống chồng con,
tạo dựng tổ ấm hạnh phúc thì xã hội rất cần những phụ nữ tham gia tích cực và
có hiệu quả vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống, đồng thời họ cũng cần
được nghỉ ngơi để tự chăm lo cuộc sống cho chính mình để dung hồ được tất cả
các u cầu trên, người phụ nữ cần phải linh hoạt, sáng tạo. Bên cạnh đó người
phụ nữ cần phải làm tốt thiên chức cao đẹp của người mẹ, người vợ bởi những
phụ nữ chỉ thực sự là phụ nữ trong quan hệ với gia đình, đó là cơ sở để chị em
tham gia công tác xã hộiđạt hiệu quả. Ngược lại vị thế xã hội cũng giúp người
phụ nữ có uy tín và điều kiện để nôi dạy con cái và giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Phụ nữ Việt nam chiếm 51,48% dân số, 40% lực lượng lao đọng xã hội. Trong
tiến trình lịch sử phát triển của đất nước vào thời kỳ nào phụ nữ Việt Nam vẫn là
một nguồn nhân lực trí tuệ dồi dào, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ Quốc, phụ nữ Việt Nam đã và đang phát huy đựoc khả năng của
mình tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hoạt động VHTDTT, ngày càng ghi nhận những thành tích đóng
góp đáng kể của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” trong thời gian qua, đã có 34 nghệ sỹ nhân dân, 287 nghệ sỹ
ưu tú có 188 huy chương tại các giải thi đấu khu vực và quốc tế thuộc về các nữ
vận động viên.
Từ các phong trào thi đua yêu nước đã xuất hiện gương mặt phụ nữ tài
năng, điển hình tiêu biểu 19 nữ anh hùng, 272 nữ chiến sỹ thi đua toàn quốc.
Ngoài ra phụ nữ còn tham gia chống lại các tệ nạn xã hội như: chống ma tuý,
mại dâm, chống lại sự bóc lột tình dục ngược đãi phụ nữ, chống lại bn bán
phụ nữ và trẻ em… Có thể nói vai trò của người phụ nữ trong xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhiều hình thức khác nhau.
Nhưng tập chung lại chúng ta có thể thấy là:
+ Phụ nữ là lực lượng đi đầu, lực lượng nòng cốt trong phong trào xây
dựng gia đình văn hố.
+ Vai trị của phụ nữ trong xây dựng nếp sống văn hoá mới, tổ chức lễ
cưới lễ tang.
+ Vai trò của phụ nữ trong các hoạt động văn hoá ở cơ sở như: hoạt động
tuyên truyền cổ động, hoạt động văn nghệ quần chúng, hoạt động thư viện, đọc
sách báo.
Cùng với vai trò và thiên chức của người mẹ, người vợ xây dựng tổ ấm
gia đình hạnh phúc, người phụ nữ còn tham gia vào các hoạt động nhằm xây
dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở cơ sở.
CHƯƠNG2:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA
PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HỐ CƠ SỞ Ở THÀNH
PHỐ (HÀ TĨNH)
2.1. Thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở thành phố (Hà
Tĩnh)
+ Khái quát chung về điều kiện tự nhiên kinh tế ở thành phố
Thành phố Hà Tĩnh là một thành phố có điều kiện tự nhiên khá phong phú
và đa dạng, tạo ra nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp khơng ít khó khăn cho việc
phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Về kinh tế: Trong những năm qua thành phố Hà Tĩnh liên tục đạt mức
tăng trưởng kinh tế khá, phát triển đa dạng các loại hình kinh tế nổi bật như kinh
tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, các loại hình tiểu thủ cơng nghiệp, góp phần
đẩy nhanh q trình CNH – HĐH ở thành phố Hã Tĩnh.
Về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao: Mạng lưới trường học, trạm y tế, nhà
văn hoá được xây dựng và mở rộng trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa thành phố khơng có những khó
khăn: mà phải nói rằng vùng đất này ln phải gánh chịu trên mình một thành
phố có khí hậu khắc nghiệt, mưa cũng nhiều nắng lắm đất đai nghèo chất dinh
dưỡng còn phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hồ bình lập lại xây
dựng đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường hưởng thụ những thành tựu
lẫn những mục tiêu của nó, nổi bật hơn hết là tình trạng cờ bạc, rượu chè, các tệ
nạn xã hội khác như tình trạng thanh thiếu niên ăn chơi đua đòi, cá độ, trộm cắp,
chơi game… Đang từng ngày từng giờ đe doạ đến mạng sống của mỗi người
thành phố. Trước thực trạng như vậy đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân thành phố
những nhiệm vụ hết sức nặng nề phải tìm cách tháo gỡ dần để ngăn chặn và hạn
chế những tiêu cực của xã hội, của cơ chế thị trường hiện nay. Để làm được điều
đó địi hỏi phải có đồn kết và đồng lịng của tồn dân, tồn Đảng nổ lực hết
mình để xây dựng thành phố giàu mạnh và văn minh. Trong đó phải kể đến lực
lượng hơn phần nửa xã hội là chị em phụ nữ thành phố trong phát triển kinh tế
cũng như xây dựng đời sống văn hoá cơ sở lành mạnh.