Bài tiểu luận môn văn học so sánh
CÁI ĐẸP VÀ NỖI BUỒN TRONG “HỒI ỨC VỀ NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM
BUỒN CỦA TÔI” (MARQUEZ) VÀ “NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ” (KAWABATA)
Nếu như văn hóa Ấn Độ thiên về tư duy và thần bí, văn hóa Trung Quốc thiên về
hành động và thực tiễn thì văn hóa Nhật Bản lại thiên về tình cảm và cái đẹp. Yasunari
Kawabata – nhà văn hiện đại Nhật Bản – được coi là đại điện cho tâm hồn xứ Phù Tang,
“người lữ khách mn đời đi tìm cái đẹp”.
Marquez là nhà văn Mĩ La tinh, được coi là “ơng vua của chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo”. Nói đến Marquez là nói đến phong cách hiện thực huyền ảo và nó đã trở thành
đặc trưng phong cách của ông. Hai nhà văn sống ở hai thời đại khác nhau: Kawabata là
nhà văn hiện đại, Marquez là nhà văn hậu hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà hai nhà
văn lại có sự gặp gỡ về đề tài, cốt truyện, quan niệm thẩm mĩ về cái đẹp và nỗi buồn.
Điều này được thể hiện rất rõ qua hai tác phẩm “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của
tôi”(Marquez), “Người đẹp say ngủ” (Kawabata).
Hai tác phẩm có nhiều điểm giống nhau: cũng là những ông già cô đơn, những cô
gái nhỏ bị đánh thuốc mê, những suy tư bắt nguồn từ sự chiêm nghiệm thân thể nữ…
Marquez thừa nhận sự ảnh hưởng cốt truyện từ Kawabata. Ông đã lấy đoạn mở đầu của
tác phẩm “Người đẹp say ngủ” của Kawabata để tại ngay đầu tác phẩm của mình.
Thế nhưng, đọc kĩ toàn bộ hai tác phẩm, người đọc vẫn nhận ra được những điểm
khác nhau trong sắc thái về cái đẹp và nỗi buồn, cách thể hiện những sắc thái ấy cũng
như bản sắc riêng của mỗi dân tộc, phong cách riêng của mỗi nhà văn.
Văn học so sánh là một bộ mơn khoa học, có tính cân bằng cao, nó đề cập trọn vẹn
đến cặp phạm trù triết học cái chung và cái riêng với hai mục tiêu cơ bản là xác định
tínhkhái quát và chứng minh tính đặc thù. Như vậy, “Hồi ức về những cô gái điếm buồn
của tơi” (Marquez) “Người đẹp say ngủ” (Kawabata) vẫn có thể là đối tượng để khảo sát
trên những cơ sở này. Người viết khơng có ý định đi sâu phân tích mà chỉ đưa ra một vài
đối chiếu nho nhỏ, góp thêm góc nhìn mới về hai tác phẩm nói trên.
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng những phương pháp sau:
Page 1
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
Phương pháp thực chứng
Phương pháp tiểu sử
Phương pháp loại hình
Phương pháp hệ thống
Phương pháp xã hội học
Với phương pháp thực chứng
Đây là phương pháp vào loại lâu đời nhất của văn học so sánh. Phương pháp này
tìm ra những điểm giống nhau giữa các hiện tượng văn học quốc tế để từ đó rút ra được
mức độ ảnh hưởng và vay mượn trong văn học. Nghiên cứu sự ảnh hưởng qua tiếp xúc
trực tiếp, không né tránh, phủ nhận sự chịu ảnh hưởng nghĩa là có sự tiếp biến trong q
trình tiếp nhận. Với phương pháp này, người viết muốn chỉ ra những điểm giống nhau về
đề tài, cốt truyện, quan niệm về cái đẹp và nỗi buồn qua hai tác phẩm đã đề cập ở trên. Và
chỉ ra: Marquez chịu ảnh hưởng của Kawabata nhưng đó là một sự tiếp nhận có tiếp biến.
Cảm thức cô đơn: những ông già trong hai tác phẩm đều cơ đơn.
Tính nữ vĩnh cửu: vẻ đẹp của những người nữ. Cả hai tác phẩm đều đề cập đến vẻ
đẹp nguyên sơ, trinh trắng của những cô gái nhỏ.
“Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi” là câu chuyện của một nhà báo già.
Sinh ra trong một gia đình trung lưu, ơng sớm mồ cơi cha mẹ. Trong căn nhà cũ kỹ, ông
đã sống một cuộc sống hồn tồn cơ độc, khơng vợ con, khơng bạn bè. Ông từng dạy ngữ
pháp tiếng La tinh và Tây Ban Nha. Sau đó, ơng biên tập tin tức và viết bình luận âm
nhạc cho một tờ báo địa phương đến năm 90 tuổi. Và chính trong buổi sáng kỷ niệm sinh
nhật lần thứ 90 của mình, ơng bỗng ao ước có một đêm tình ái nồng say với một thiếu nữ
còn trinh nguyên. Cái ý muốn kỳ lạ đó thơi thúc tâm trí ơng đến độ ơng phải tìm cách
liên hệ với một người đàn bà mối lái mà ơng quen từ ngày cịn trẻ, nhờ bà ta giúp đỡ bất
chấp nỗi xấu hổ. Ông đã đến nơi hẹn với một cô bé đang ngủ say. Khi ra về, ông đặt lên
trán cô bé nụ hôn vĩnh biệt và lời cầu Chúa giữ hộ trinh tiết cho cô. Thế nhưng, chính sự
cơ đơn của tuổi già đã khiến ông nhiều lần nữa đến gặp cô bé. Mỗi lần, ông lại thêm yêu
thương cô. Ông đem những bức tranh, những bó hoa, những cuốn sách… bày trong căn
phịng để sớm mai, khi thức dậy, cô bé cảm thấy ấm cúng. Ơng hát ru cơ bé về Delgadina
– cơ cơng chúa út được vua cha u q. Ơng gọi cơ là Delgadina. Ông nhận thấy sự hiện
Page 2
Bài tiểu luận mơn văn học so sánh
diện vơ hình của cơ trong căn nhà vắng lặng của mình. Cuộc sống nhàn tẻ của ơng như có
một ý nghĩa, đó là niềm yêu thương, lo lắng cho tương lai của cơ bé. Lần đầu tiên, ơng
nhận ra: “Niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà
không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng”.
Trong “Người đẹp say ngủ”, ông già Eguchi cũng luôn sống trong trạng thái cô
đơn, ln hồi niệm về q khứ. Mặc dù bản thân ông tự nhận thấy mình chưa “rơi vào
tình trạng suy nhược cùng cực như lão” nhưng ông đến với ngôi nhà có những cơ gái ngủ
mê, khơng phải vì những ham muốn nhục dục mà vì muốn “tìm đến mức điểm tận cùng
của nỗi ghê sợ tuổi già”
Với phương pháp loại hình
Tư duy, quan niệm của nhà nghệ sĩ về cái đẹp cũng là một loại hình. Marquez và
Kawabata sống ở hai nền văn hóa khác nhau, hai thời đại khác nhau nhưng đều gặp nhau
ở một điểm chung. Đó là quan niệm về cái đẹp: cái đẹp có khả năng cứu vớt tâm hồn
con người, giúp họ nhận ra chính mình, mở đường cho con người.Cái đẹp là cái vĩnh
hằng và con người ln mơ ước chạm đến nó, nắm bắt nó.Cái đẹp nảy sinh từ cái chết,
từ sự điêu tàn.Marquez và Kawabata đều là những nhà duy mĩ.
Theo mỹ học mác-xít: Cái đẹp là một phạm trù thẩm mỹ dùng để chỉ một phẩm
chất thẩm mỹ của sự vật khi nó phù hợp với quan niệm của con người về sự hồn thiện và
tính lý tưởng, có khả năng gợi cho con người thái độ thẩm mỹ tích cực do sự tác động
qua lại giữa đối tượng và chủ thể. Cái đẹp có trong tự nhiên, trong xã hội nhưng nghệ
thuật là lĩnh vực chuyên môn cao nhất trong việc “sản xuất” cái đẹp. Cái đẹp trong văn
chương nghệ thuật là cái đẹp mới, lý tưởng, hoàn thiện. Văn chương nghệ thuật không
chỉ miêu tả cái đẹp mà cịn là tình cảm, cảm xúc của chủ thể thẩm mỹ đối với cái đẹp. Cái
đẹp trong văn chương nghệ thuật là biểu hiện tập trung của cái đẹp trong tự nhiên và xã
hội, đó là sự mở rộng nâng cao vẻ đẹp trong đời sống, gắn với sự sáng tạo của người
nghệ sĩ, in dấu tâm tư, tình cảm, phong cách, kết tinh tư tưởng quan niệm thẩm mỹ của
họ.
Tình yêu cái đẹp, cảm xúc về cái đẹp là một nét nổi bật của văn hóa Nhật Bản.
Trước sự xâm thực của lối sống mới và văn hóa phương Tây, Kawabata đã miệt mài trên
Page 3
Bài tiểu luận mơn văn học so sánh
lộ trình tìm về cái đẹp của bản sắc dân tộc. Kawabata là nhà văn được người dân của xứ
sở mặt trời mọc cho là “Nhật Bản nhất”!. Kawabata say mê và am hiểu văn học phương
Tây nhưng sâu thẳm tự cội nguồn ông vẫn là nhà văn phương Đông. Tác phẩm của
Kawabata mang đậm dấu ấn của mỹ học truyền thống Nhật Bản.
Bên cạnh những quan niệm thẩm mỹ mang tính phổ quát, mỗi dân tộc thường có
những quan niệm riêng gắn với truyền thống văn hóa, tình cảm, tâm lý dân tộc. Nhật Bản
là xứ sở của hoa anh đào, kịch Nô, sân khấu Kabuki, trà đạo… Chắt lọc tinh hoa văn hoá
dân tộc, người Nhật đã làm nên bản sắc thẩm mỹ của mình bằng những tiêu chuẩn riêng
gắn với tôn giáo.
TheoJakonova: “Trong mỹ học truyền thống Nhật Bản, nỗi buồn, nỗi u sầu, nỗi
buồn cô đơn không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp, bởi vìvẻ đẹp sẽ khơng đầy đủ nếu thiếu
nỗi buồn”, “cái đẹp với tư cách là cái bé bỏng, mong manh, yếu đuối”. Nghiên cứu về
thơ Haiku, Nhật Chiêu đã nêu rõ những cảm thức thẩm mỹ của văn chương Nhật Bản.
Theo ông, trước hết là cảm thức Sabi, “là cảm thức về sự sâu thẳm, u uẩn và huyền diệu
của vạn vật”.Wabi là nguyên lí cho rằng cái đẹp cao nhất nằm trong vẻ đơn sơ và sự
thanh tịnh. Aware, bi cảm, “một cảm thức xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự
vật”. Từ ảnh hưởng của Phật giáo, có tiêu chuẩn về cái đẹp mang tên là Yugen và các
biến thể của nó là yuge, yojo. Yugen là yêu kiều, nét đẹp mê hồn, tuyệt vời của vạn vật.
Yuge là u huyền, điều quý giá ẩn dấu trong vạn vật, hiện tượng mà nghệ thuật cận phát
hiện. Cịn yojo là dư tình, cái ngụ ý khơng nói rõ, khơng có trong lời.Tất cả được gói gọn
trong khái niệm “Mononoaware”- cái đẹp u buồn, cái đẹp trong q trình hồn thiện, hiện
tượng mà người nghệ sĩ phải thể hiện được trong tác phẩm. Mặt khác, người Nhật Bản có
lối tư duy hướng nội, đậm màu Thiền, ln tìm kiếm vẻ đẹp trong thế giới tĩnh lặng, suy
tưởng, chiêm nghiệm, thế giới của những tố phác tinh thần thuần khiết. Ngoài ra, thiên
nhiên đặc biệt của nước Nhật với những thay đổi thất thường cũng có ảnh hưởng tư duy
nghệ thuật. Người Nhật hay ngợi ca sự phù du, thi vị hóa cái hay thay đổi, sự ngắn ngủi,
không bền, không cân đối, cái bỏ lửng. Từ hội họa, sân khấu, thơ ca, đặc biệt là thơ
Haiku đều thể hiện rõ điều này. Trong các tác phẩm của mình, Kawabata đều thể hiện
nhất quán quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp và nỗi buồn, tình yêu và thiên nhiên, sắc đẹp và
Page 4
Bài tiểu luận mơn văn học so sánh
nữ tính trở thành cảm tính chủ đạo trong tác phẩm của ơng.
Nhân vật chính của “Người đẹp say ngủ” là ơng già Eguchi. Mặc dù bản thân ơng
tự nhận thấy mình chưa “rơi vào tình trạng suy nhược cùng cực như lão” nhưng ơng đến
với ngơi nhà có những cơ gái ngủ mê, khơng phải vì những ham muốn nhục dục mà vì
muốn “tìm đến mức điểm tận cùng của nỗi ghê sợ tuổi già”. Các cô gái đều ở trạng thái
say ngủ và loã thể. Trong ý nghĩa bản thể, khoả thân phát triển theo hai hướng: một
hướng tiến tới sự thanh khiết về thể chất, tinh thần và trí tuệ; hướng khác dẫn tới tính
kiêu căng dâm đãng, khêu gợi, giải giáp tinh thần để phụng sự vật chất và nhục dục. Theo
cách nhìn truyền thống, lỗ thể là một kiểu trở lại trạng thái nguyên sơ, trở lại điểm trung
tâm: đây là trường hợp các giáo sĩ Thần đạo ở trần ngồi trời, trong khơng khí trong trẻo
và giá lạnh mùa đơng để tẩy uế thân mình. Nó gắn chặt với quan niệm thẩm mỹ của
người Nhật Bản về cái đẹp thuần khiết trong sự giao hoà tuyệt đối với thế giới xung
quanh.
Tuy nhiên biểu tượng cịn mang tính chất dân tộc độc đáo. Văn hoá bản địa trở
thành màng lọc, kiểm duyệt mức độ phù hợp của các biểu tượng. Trong nền văn hoá Nhật
Bản, người phụ nữ có một vị trí đặc biệt quan trọng. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những
bức tượng người phụ nữ từ lịng đất và khẳng định họ đã có một vị trí cao trong xã hội
mẫu hệ. Tuy nhiên, khi trên thế giới diễn ra “sự thất bại có tính tồn nhân loại” của nữ
giới thì ở Nhật Bản nhờ một số tục lệ mà người phụ nữ vẫn không mất hẳn địa vị. Còn về
mặt văn học, đặc biệt là thời kì Heian đã xuất hiện cả một dịng văn học nữ lưu. Chúng ta
phải chờ đến thế kỉ 20 với trào lưu nữ quyền phát triển mạnh mẽ thì ở hịn đảo Phù Tang
này các nhà văn nữ được trọng vọng ngưỡng mộ ngay từ thế kỉ thứ VIII. Nó đã hồi thai
được đỉnh cao - huyền thoại của văn học Nhật Bản là “Genji Monogatari”. Tác phẩm này
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến truyền thống văn học Nhật với phạm trù thẩm mỹ aware
(niềm bi cảm nhân sinh) tơn thờ cái Đẹp mong manh chóng phai tàn. Cịn nền văn học đơ
thị Edo đã qui phạm hoá một số điển phạm, mỹ cảm cơ bản cho văn học Nhật. Đó là khái
niệm ukiyo (phù thế) - lối sống tự do phóng túng trong luyến ái sắc dục và tích cực
hưởng lạc. Câu chuyện về các mối tình của chàng Genji đẹp trai hào hoa thực chất để nói
về hành trình đi tìm bản ngun, ý nghĩa cuộc sống và nỗi đau đớn khi phải chứng kiến
Page 5
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
những người con gái đẹp đẽ tựa như bông hoa anh đào sớm nở chóng tàn. Người phụ nữ
đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng, mong manh, hi hữu trong cuộc đời. Cịn
về vấn đề tình dục hay nói cách khác là cơ thể nữ cũng là nét văn hoá đặc thù. Trong
quyển đầu của Cổ sự ký, tự thuật về chuyện giao cấu của hai thần Izanagi và Izanami,
cùng với chuyện Ame no uzumeđã để lộ âm hộ ra nhảy múa trước nhà đá trên trời, cho ta
thấy những cảm giác liên quan đến tình dục của người thời cổ. Họ cịn có tục sùng bái cơ
quan tình dục. Như vậy qua đó ta có thể thấy, biểu tượng cơ thể nữ ở trạng thái loã thể
trong nền văn hoá Nhật Bản thiên về ý nghĩa tinh thần, giá trị nhân văn hướng tới sự
thanh tẩy tâm hồn. Ngay cả nó có nói đến việc hưởng thụ cuộc sống thể xác thì cũng là
đạt được trạng thái cân bằng và thăng hoa thế giới tâm linh. Nói cách khác người Nhật
không đối lập các phạm trù mà ở Tây phương khó có thể dung hồ. Tín ngưỡng đa thần
đã giúp người Nhật chiết trung các giá trị mâu thuẫn nhau.
Cơ thể nữ trong tác phẩm của Kawabata thể hiện dấu ấn của xã hội Nhật hiện đại
với nhiều luồng ảnh hưởng khác nhau đặc biệt là làn sóng phương Tây. Nó khơng khỏi
gây ra những rạn vỡ đối với một đất nước bế quan toả càng hàng thế kỉ. Ở Kawabata, cơ
thể nữ có mang màu sắc nhục dục nổi bật bằng nghệ thuật “Tân cảm giác”. Nó cho thấy
sự khủng hoảng trầm trọng giá trị sống, sự bế tắc, hư vơ dù đắm chìm trong hoan lạc thể
xác. Bi kịch của con người hiện đại là dù được thoả mãn nhiều phương diện vật chất
nhưng vẫn có cảm giác trống trải và bị đẩy đến trạng thái tê liệt tâm hồn. Song, điều mà
nhà văn muốn hướng tới đó là sự vững bền của văn hố Nhật Bản, con người cần giữ
được cái gốc ấy để không bị rơi vào thân phận tha hố, lưu vong trên chính q hương
mình. Các tác phẩm của ơng đặc biệt trong “Người đẹp say ngủ”, cơ thể nữ trở thành “cái
Đẹp cứu rỗi” con người.
Trong “Người đẹp say ngủ”, cơ thể nữ thường gắn với người con gái trẻ và trinh
tiết: “Eguchi nín thờ: nàng đẹp q, đẹp hơn ơng tưởng. Nhan sắc nàng không phải sự
ngạc nhiên duy nhất. Nàng trẻ nữa”. Nó mang ý nghĩa của sự hứa hẹn vào tương lai, vẻ
đẹp trong trẻo tuyệt đối, nguyên vẹn “là trạng thái chưa hề mắc tội lỗi, tức là trạng thái
thiên đàng theo nghĩa vườn địa đàng Eđen”, tiềm năng của khả năng sinh sản sự sống
mới. Nó được đặt trong mối quan hệ sóng đơi, chiêm ngưỡng của ông già Eguchi - biểu
Page 6
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
tượng cho sự bước tới ranh giới cuối cùng cuộc đời, sự cạn kiệt sức sống. Kawabata
thường xuyên trở đi trở lại kiểu nhân vật song trùng này. Các cô gái trong “Người đẹp
say ngủ” được đưa vào những giấc ngủ triền miên thăm thẳm “Nàng nằm đấy hiến dâng
tất cả cho ông nhưng hồn tồn vơ thức, thân xác duỗi dài như trong một giấc đông
miên, hơi thở đều và nhẹ, khuôn mặt ngây thơ nghiêng qua một bên”. Nó làm cho những
người như Eguchi không rơi vào mặc cảm bất lực, vô vọng của tuổi già: “Nàng không
phải là búp bê sống, vì khơng thể có búp bê sống trên thế gian này ; nàng được biến
thành đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ ”.
Có lẽ để nhận ra giới hạn của mình khơng phải là khó khăn mà cái khó khăn đau đớn hơn
chính là chấp nhận và thành thực. Khi khơng thể làm được điều đó họ trốn chạy cái nhìn
của người khác nhưng thực tế họ vẫn cần con người và vì vậy họ tìm đến ngơi nhà có
những cơ gái ngủ mê để giải quyết mâu thuẫn, xung đột.
Nhân vật song trùng thường được Kawabata xây dựng trong thủ pháp gương soi.
Các cô gái thực chất là một thứ gương soi trong suốt để Eguchi nhìn vào đáy sâu tâm hồn
mình: “Trước tấm thân trần của người con gái ngủ, những tội lỗi một đời được rửa đi
như đức Phật từ bi cứu khổ cứu nạn, cho những cuộc đời ông lão gần đất xa trời” (Thuỵ
Khê). Thế giới gương soi hiện lên trong những giấc mơ huyền ảo kì lạ. Nó giúp Eguchi
ngắm lại mình ở mọi chặng đường cuộc đời đã qua. Bước vào giấc mơ - gương soi những
trật tự lôgic thường ngày mất đi thay vào đó là những khoảnh khắc vụt hiện bất chợt
không lường trước, những xáo trộn cắt dán chồng xếp như một bức tranh lập thể. Cô gái
đầu tiên hiện lên với sự trinh trắng tuyệt đối. Gương mặt nàng chưa bị phủ lên lớp son
phấn giả tạo: “Cặp lông mày chưa bị phấn sáp đụng đến và hàng lơng mi đang nhắm lại
trơng đều đặn. Ơng ngửi mùi hương từ mái tóc trinh trắng của nàng” và đặc biệt người
nàng đưa lại mùi sữa trẻ thơ - thức ăn đầu tiên mát lành mà con người có được từ mẹ. Nó
kích động trí não làm Eguchi nhớ lại kỉ niệm vốn đã bị vùi sâu vào nấm mồ kí ức. Đó là
hình ảnh cơ gái ơng yêu trước khi lấy vợ. Ông chiêm ngưỡng và suy nghĩ về hai bộ phận
trên cơ thể nữ giới, đó là “Một ý lạ đến với ông: tại sao bộ ngực của giống cái loài
người, duy nhất trong các loài vật khác, sau một cuộc tiến hoá lâu dài, lại mang hình
dạng đẹp đẽ? Cái đẹp tuyệt vời mà bộ ngực nữ đã đạt tới phải chăng là một vinh quang
Page 7
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
của nhân loại?” và “Từ đó cho đến suốt mấy mấy chục năm sau ơng khơng cịn bao giờ
nhìn thấy sự trong sạch như thế nơi người đàn bà khác; và ông nghĩ rằng ông thấu hiểu
mọi sự trong sạch, rằng sự trong sạch ở chỗ kín chỉ riêng cơ gái này có mà thôi ”. Bộ
ngực trước hết là biểu tượng của tình mẫu tử, sự dịu dàng, sự an bình, nơi trông cậy. Gắn
với khả năng sinh sản và với sữa, thức ăn đầu tiên, bộ ngực hoà hợp với những hình ảnh
về sự thân thiết, món q, tặng phẩm và nơi ẩn náu. Một cái cốc dựng ngược, từ đó cũng
như trời chảy ra sự sống. Nhưng bộ ngực cũng là chỗ thu nhận, như tất cả các biểu tượng
về người mẹ, và hứa hẹn sự tái sinh. Sự trở về trong lòng đất đánh dấu, như mọi cái chết,
khúc dạo đầu cho một lần tái sinh.Bộ ngực bị vết máu thể hiện nỗi đau đớn nữ tính sản
sinh hạnh phúc: “hoạ chăng đầu vú là những cái sẹo của tình mẫu tử” (Trần Dần). Đó là
sự biến dạng cao cả thiêng liêng.
Cô gái - chiếc gương soi - thứ hai được mụ chủ nhà giới thiệu “rất có kinh nghiệm”.
Nàng đã khuấy động lên mong muốn phá vỡ luật lệ kì lạ của ngơi nhà này: khơng được
đánh thức họ. Ơng cào cấu, giằng giật thơ bạo tìm mọi cách để làm cơ thể nàng đau nhói
mà tỉnh giấc. Ông không thể chịu đựng được cảm giác phải cúi đầu trước tuổi già và bị
giam cầm mãi trong sự im lặng cô độc. Hành động của Eguchi tựa như người ta đập vào
chiếc gương soi để giải thoát con người trong gương vậy. Nhưng ơng vội ngừng tay vì
bàng hồng nhận ra nàng cịn trinh. Khả năng sinh sản của nàng mãi mãi ở dạng tiềm ẩn.
Nó là minh chứng thê thảm, chua xót cho giới hạn khơng thể vượt qua của tuổi già: “Sự
trinh trắng của cô gái làm nổi bật sự xấu xí của tuổi già”. Kawabata đã soi một cái nhìn
lạnh lùng nghiệt ngã vào góc khuất sâu thẳm của con người. Tất cả những thể nghiệm
nhân sinh đau đớn đều được phơi bày đến chân tơ kẽ tóc. Có lẽ ơng già Eguchi đến đây
khơng phải theo thói quen hay cám dỗ thể xác mà vì một khát vọng đánh thức những cơ
gái say ngủ, đánh thức sự sống bị ngưng đọng và đón lấy ân hưởng của tuổi trẻ: “Hơi ấm
chuyển từ cánh tay cơ gái vào sâu sau mi mắt ơng là dịng chảy của cuộc sống, là giai
điệu của cuộc sống, là vẻ quyến rũ của cuộc sống, và cho một người già, là sự phục hồi
trong cuộc sống”. Ơng muốn trị chuyện, giao cảm với họ, ngay cả một câu nói ngủ mê
không đầu không đuôi của các cô cũng khiến trái tim ơng đập nhanh. Đó là khát vọng
mn thuở cháy bỏng, khát vọng tìm được ý nghĩa cuộc sống. Sự tồn tại của mình là ở
Page 8
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
hành động phản hồi từ người khác. Cô gái ở trạng thái ngủ mê tạo ra ức chế và phản ứng
tiêu cực với im lặng. Nó càng dấy lên mong muốn được để lại dấu ấn như khẳng định cho
sự tồn tại của cá thể. Cơ thể cơ gái khơng cịn cách bức với Eguchi mà chính nó là một
thứ ngơn ngữ u thương đằm thắm. Sự hoà hợp về thể xác để tiến đến khoái cảm tâm
hồn đã xoa dịu ngọn lửa thiêu đốt tâm can ông.
Kawabata vẫn tiếp tục để nhân vật đi đến cùng hành trình tự ý thức về mình. Nhà
văn tạo ra những cuộc gặp gỡ, va chạm để loé ra ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Lần thứ ba,
Eguchi đến với một cô gái rất trẻ, đối lập với sự dày dạn kinh nghiệm của cô gái thứ hai
nàng đầy bỡ ngỡ và toát ra cảm giác “hoang sơ, chưa chín nồng”. Nàng là vẻ đẹp khơng
thể chiếm lĩnh, xâm phạm đang ở trạng thái nguyên thuỷ chưa bị vấy đục. “Nàng là thực
thể đang tồn tại nhưng cũng lại là sự vắng mặt sâu xa”. Đến đây ta bất chợt nhớ lại câu
chuyện trong thần thoại Hi Lạp kể về một nhà điêu khắc tài hoa tạc được bức tượng
người phụ nữ tuyệt mỹ. Ông ta say đắm với bức tượng, thủ thỉ tâm tình nhưng rồi lại rơi
vào đau đớn, thất vọng khi thấy bức tượng vẫn im lìm nhìn ơng. Câu chuyện truyền tải
triết lý: con người ln hướng đến sự hồn mỹ nhưng điều đó là khơng thể. Để xố bỏ hố
ngăn khơng cùng ấy hoặc có phép màu như trong thần thoại giúp bức tượng biến thành
người nhưng đó là thế giới một đi khơng trở lại vì thế Eguchi mong muốn được gia nhập
vào thế giới vĩnh cửu bằng cơn say ngủ ngàn năm. Trong cảm nhận của nhân vật, các cô
gái ngủ say tựa như những vị bồ tát cứu rỗi tội lỗi cho kiếp người. Họ là hoá thân của đức
phật từ bi chịu tất cả những dằn vặt thể xác để chuộc những sai lầm cho loài người chúng
ta. Eguchi cũng như Kawabata có một tâm hồn nhạy cảm, trắc ẩn giàu tình thương. Ơng
khơng coi họ là đồ chơi mà trân trọng nâng niu trìu mến.
Càng về cuối câu chuyện, nhân vật càng đi sâu vào thế giới bản thể của mình và
thời gian như càng trơi tuột vào miền kí ức xa thẳm nhất. Cái chết của cô gái da ngăm là
điểm dừng của cả chuyện nhưng chính vì thế nó càng dấy lên biết bao câu hỏi, băn
khoăn. Con người lại tiếp tục truy tìm sự thật, lý giải mọi vấn đề. Đó là hành trình
khơng mệt mỏi và cuộc sống cũng chưa chắc đã đáp hồi. Kawabata hay để những cô
gái chết ở độ xn thì khi cịn trinh trắng ví như cơ đào miền Izu. Nhà văn tơn thờ
cái đẹp trinh ngun. Đó là khát vọng được thanh tẩy đồng thời là nỗi ám ảnh về “thiên
Page 9
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
đường đã mất”. Tác phẩm cuối cùng mang đậm âm hưởng của niềm bi cảm nhân sinh,
nỗi chua xót về cái đã qua đi không trở lại.
Nếu ở mỗi tác phẩm của Kawabata đều có một hoặc hai người đẹp mà sự trong
trắng luôn để lại những ấn tượng tốt đẹp nơi người đọc thì “Người đẹp say ngủ” lại có tới
6 người đẹp ngủ mê – mặc dù trong lữ điếm – nhưng họ lại là những cố gái trinh trắng.
Những người đẹp ở đây họ khơng nói. Họ bị đánh thuốc mê, thế nhưng họ lại chính là
những thực thể thẩm mĩ vơ cùng tồn vẹn. Đẹp, trinh trắng, câm lặng, họ là những mẫu
vật tự nhiên của tạo hóa, khơng có sức đề kháng nhưng lại có khả năng tơn vinh vẻ đẹp
của con người. Đó là một diện mạo mới của aware: sự dâng hiến xót xa trong niềm tự
nguyện bắt buộc.
Những ơng già, khơng hồn tồn là một lớp người bất lực trong đời sống tình dục,
muốn đi tìm lại cảm giác, câu chuyện được xây dựng trên một nền tảng triết học, mĩ học,
nhằm tôn vinh vẻ đẹp của con người. đó là niềm bi cảm của khách thể nhận thức trước sự
hữu hạn của cái đẹp (chủ thể đang hướng tới nó). Đó là mối quan hệ biện chứng giữa cái
đẹp không tự nhận thức và người chiêm nghiệm.
Cịn trong “Hồi ức về những cơ gái điếm buồn của tôi”, những cô gái hiện lên với
vẻ đẹp khỏe khoắn, mang hơi thở vùng đất Mĩ Latinh. Đó là vẻ đẹp của cơ gái Damiana
“thời ấy cơ ta như một bé gái, giống người thổ dân, khỏe mạnh và có chút gì hoang dại,
nói ít nhưng dứt khốt”. Cịn cơ bé Delgadina “Tơi bước vào phịng với trái tim vỡ tung,
và thấy bé gái đang ngủ, trần trụi trên chiếc giường rộng mênh mông như khi mới được
sinh ra. Nó nằm hơi nghiêng, mặt quay ra phía cửa, tồn than được ngọn đèn sáng chói
từ trên trần chiếu thẳng xuống lộ rõ mọi chi tiết. Tôi ngồi xuống chiếc giường chiêm
ngưỡng bằng cả năm giác quan. Nó có nước da nâu và nồng ấm… Họ đã uốn tóc và bơi
sơn tự nhiên cho móng tay và móng chân của nó. Nhưng làn da bánh mật vẫn cịn thô
rám và không hề được chăm chút. Nét xuất sắc nhất trên thân thể của nó chính là đơi
chân to với những ngón dài và thn như ngón tay…mũi cao, lơng mày chụm, đơi mơi
mọng chín”. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, trịn đầy, viên mãn.
Cái mà Kawabata khơng có, là cái hậu của câu chuyện. “Người đẹp say ngủ” kết
thúc với cái chết có lẽ vì bệnh tim của ông khách, tiếp nối bởi cái chết vì thuốc ngủ quá
Page 10
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
liều của cô gái thứ năm mà Eguchi dùng. Truyện của Kawabata gần như khơng bao giờ
có hậu, mà hình như ơng cũng khơng muốn có hậu. Ơng thường tả một cảnh đời không
chung không thủy, không phán xét, không ngợi khen. Khi đi vào cõi nhân tâm, ơng cố
gắng trung thực tìm cái đẹp, mà cái đẹp của ông thường buồn, hay rất buồn.
Cơ gái say ngủ của Kawabata chết vì ngộ độc và khơng bao giờ thức dậy.
Kawabata khơng tìm lời giải cho câu hỏi là khi cảnh hư thực của giấc ngủ khơng cịn thì
cuộc sống sẽ ra sao. Ngược lại, trong “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”, cô bé
xứNam Mỹ đã thức dậy hai lần. Lần đầu, khi ông giáo đập phá tan hoang cái tổ un
ương của hai người vì nghi nó đã trở thành gái điếm thực thụ. Lần thứ hai tuy Marquez
không viết rõ ra, Delgadina thức giấc trong viễn tượng hôn nhân với ông giáo, để huởng
một hạnh phúc lâu dài như truyện thần tiên, vì ơng đã được mụ điếm già có chồng Tàu
khun rằng khơng được đánh mất con bé dù nó đã trở thành điếm thật. Mụ cịn dặn là
lần này thì đừng đóng vai ơng nội ướt át tình cảm, mà phải dựng nó dậy và làm tình với
nó cho trời long đất lở…
Kawabata Marquez. Ơng có lập trường rõ ràng về con người, và một lòng tin vào
cái tốt của nhân tâm. Tất cả nhân vật của ơng, dù có bị xã hội xếp vào hạng vô luân, vô
luật, vẫn ấm áp hơi người, không phải hơi người chung chung mà hơi người tốt. Nếu họ
có xấu, thì cuối truyện họ phục hồi và cải thiện. Ông giáo là bằng chứng rất hùng hồn cho
sự cải thiện ấy. Khởi sự bằng ý định dùng gái trinh vị thành niên để giải buồn, ông tiến
đến chỗ coi trinh tiết phụ nữ như một thực thể thiêng liêng, và sau cùng tìm được tình u
tử tế và vơ cùng nhân bản trong sự cải thiện ấy.
Những cô điếm của nhà văn là một bằng chứng hùng hồn khác cho tình yêu mà
Marquez dành cho con người. Với văn phong hiện thực huyền ảo và cái tâm nhẹ nhàng,
Marquez đã mang lại cho các cơ chút gì đặc biệt hơn ở nơi khác. Dưới ngịi bút của ơng,
họ hiện ra với cách ăn nói thơ bạo, cãi nhau, cợt nhả nhau, sẵn sàng phô trương cái vỏ
chai sạn. Nhưng đó là chai sạn hình thức, và xun qua cái hình thức ấy, ơng cho ta thấy
cái tốt trong tất cả các cơ điếm của ơng. Chính vì thế, nỗi buồn trong tác phẩm của
Marquez có thể coi là nhẹ nhàng hơn so với tác phẩm của Kawabata.
Với phương pháp hệ thống
Page 11
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
Đặt vấn đề trong hệ thống. Cái đẹp và nỗi buồn trong văn hóa Nhật Bản, văn hóa
Mĩ La tinh, trong văn học nói chung, vấn đề tình dục trong văn học nói chung
Đề tài tình dục của người lớn với trẻ vị thành niên không phải là một đề tài mới:
Vladimir Nabokov với cuốn Lolita, hay André Gide với cuốn La symphonie pastorale
(Bản đàn thơn dã) đã chứng tỏ có giá trị văn học và nhân văn sâu sắc. Cổ tích dân gian
đời này tiếp đời khác đã không loại bỏ những truyện như Delgadina về cô công chúa út
của một ông vua loạn ln địi lấy con gái làm vợ. Chính cổ tích này cũng được Marquez
dùng tới khi dựng truyện “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”.
Đặt vấn đề trong hệ thống để thấy được cái chung, cái phổ quát và cái riêng, cái
đặc thù trong sáng tác của hai nhà văn.
Lối “tư duy Nhật Bản” nằm ngay ở tác phẩm “Người đẹp say ngủ”, tác phẩm
tưởng như hiện đại nhất (do sử dụng một số kĩ thuật hiện đại như kết cấu dòng ý thức..),
thế nhưng, có thể thấy rõ tư duy Phương Đơng trong tác phẩm được thể hiện qua chính
quan niệm của tác giả về vấn đề tình dục. Tình dục trong “Người đẹp say ngủ” đã được
nâng lên bằng con mắt duy mĩ và trở thành sắc dục, một thứ tình cảm khơng dung tục
chút nào. Đó là sự rung động, thưởng thức, chiêm nghiệm cái đẹp, sự trinh trắng của con
người. Kawabata đã đem lại cho người đọc những cảm xúc thiện mĩ về con người.
Tình dục trong “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi” cũng được Marquez
nâng lên thành sắc dục bằng con mắt của một nhà duy mĩ. Nói như ơng già trong tác
phẩm “Niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà
không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng”.
Với phương pháp xã hội học
Mối quan hệ giữa tác phẩm với độc giả. Có nhiều ý kiến cho rằng Marquez “đạo
văn”, rằng trong “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi” (xuất bản năm 1994), một
ơng già tìm đến một nhà chứa, nơi tiếp ông là một trinh nữ được cho uống thuốc ngủ.
Đây là yếu tố quan trọng nhất trong tác phẩm, nhưng lại là chi tiết gượng gạo và vô lý
đến lạ lùng so với cách sống và cá tính của dân Mỹ Latinh.
Ngược lại, với “Người đẹp say ngủ” của Kawabata, người đọc theo đến tận cùng
sự buồn thảm và cô đơn của một ông già nằm cạnh thiếu nữ trong trắng ngủ mê mệt, để
Page 12
Bài tiểu luận mơn văn học so sánh
từ đó dịng ký ức trỗi dậy khiến ông nhớ lại tất cả những gì mình đã làm, đã gặp trong
quá khứ.
Kawabata đã cho độc giả một cái nhìn về cuộc đời, về nỗi cô đơn trăm năm sâu
nặng, về cái chết và sự sống vô cùng sống động; trong khi Marquez chỉ tả những sự kiện
rời rạc, mỏng tanh và tẻ nhạt...Tệ nhất, câu chuyện của Marquez giống cả chi tiết một
người khách làng chơi chết trong nhà thổ, cũng như cách giải quyết cái xác chết ấy.
Không thể cầm hai tác phẩm của hai vĩ nhân so đo từng tí một, thế nhưng qua sự kiện
này tôi cảm thấy hụt hẫng... Giá như Marquez không viết câu chuyện này, chắc rằng hình
tượng của ơng vẫn ln có một chỗ rất lớn trong lịng tơi”
Qua q trình so sánh người viết sẽ chứng minh Marquez chịu ảnh hưởng của
Kawabata nhưng có tiếp biến. Đọc hai tác phẩm, người đọc vẫn nhận ra hai phong cách,
hai nền văn hóa khác nhau.
Với phương pháp tiểu sử
Với phương pháp này, người viết muốn đưa ra những ảnh hưởng từ hồn cảnh gia
đình, tác động của thời đại đến những quan niệm thẩm mĩ của Kawabata – điều làm nên
sự khác biệt trong sáng tác của ông so với tác phẩm của Marquez.
Trong diễn văn đọc tại lễ trao giải Nobel Văn học 1968, Tiến sĩ Anders Usterling
xác nhận: “Yasunari Kawabata là người tôn vinh vẻ đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn hiện
hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người. Với tư cách nhà văn, ông
đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có thẩm mỹ và đạo đức cao, bằng một phong cách
nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đơng - Tây theo cách của
ông”...
Yasunari Kawabata sinh năm 1899, tại thành phố Osaka, trong một gia đình có
truyền thống văn hóa. Từ thuở ấu thơ, Yasunari đã mang trong lòng nỗi buồn đau của một
đứa trẻ mồ côi. Lên hai tuổi, cha của Yasunari qua đời bởi bệnh lao phổi. Tiếp đến là
người mẹ cũng bỏ ông mãi mãi. Yasunari phải đến sống cùng ông bà ngoại. Sự bơ vơ, nỗi
ưu phiền của con trẻ đã đi theo Yasunari suốt cả cuộc đời, theo cả vào những giấc mơ, len
vào những trang văn của ơng. Lớn lên một chút, Yasunari có thêm nỗi buồn từ cảm thức
hoài cổ và những suy tư trầm mặc về cuộc sống. Thêm vào đó, sự ngã gục của dân tộc
Page 13
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai, khiến nỗi buồn vốn có trong ơng thêm trĩu nặng. Kể từ
năm đó, ơng chỉ cịn viết về nỗi buồn, tìm kiếm vẻ đẹp “mơ hồ, lộng lẫy và mong manh”
của nó.
Ơng từng thừa nhận: “Khơng bao giờ tơi trút được ám ảnh rằng mình là người
lang thang ưu sầu. Là người luôn luôn mơ mộng, tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hồn
tồn trong mơ, mà vẫn luôn luôn thức giữa khi mơ... Từ sau thất bại, tơi chìm vào nỗi
buồn - một nỗi buồn ngự trị triền miên trong tâm thức người Nhật chúng tơi. Từ đó trở đi
tơi chỉ viết những khúc bi thương”.
Từ những phương pháp trên, chúng tôi rút ra những kết luận sau:
Những điểm giống nhau
-
Cả hai nhà văn đều đề cập đến cảm thức cô đơn, vẻ đẹp của cơ thể nữ để thơng
qua đó nói về cái đẹp:
+ Cái đẹp nảy sinh từ cái chết, sự điêu tàn
+ Cái đẹp cứu vớt con người, giúp họ nhận ra chính mình, mở đường cho con
-
người.
Cách thể hiện: kết cấu dịng ý thức (là hành trình con người xun thấu mình để đi
tìm cái đẹp)
Những điểm khác nhau
“Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”
(Marquez)
“Người đẹp say ngủ”
(Kawabata)
-
Khơng chủ động đi tìm cái đẹp
Cái đẹp trịn trịa, viên mãn
Con người có thể nắm bắt cái đẹp
-
-
Con người có thể hướng đến sự hồn
mĩ
-
Page 14
Chủ động đi tìm cái đẹp
Cái đẹp hư ảo, mong manh
Hành trình đi tìm cái đẹp là hành
trình mệt mỏi và vơ biên.
Con người ln hướng đến sự hồn
mĩ nhưng điều đó là không thể.
Bài tiểu luận mơn văn học so sánh
Tóm lại: tuy cùng đề tài, cốt truyện, tuy có sự tiếp xúc trực tiếp nhưng rõ ràng, hai tác
phẩm vẫn có sự khác biệt. Hai tác phẩm, hai phong cách, hai cách nhìn nhận khác nhau.
Điều đó cho thấy tính cân bằng cao trong văn học so sánh.Từ việc đề cập cái chung và
cái riêng đi đến xác định tínhkhái quát và tính đặc thù trong sáng tác văn học.
Cả hai câu chuyện đều được kể lại bằng hồi ức. Có kết cấu luân hồi: tội lỗi con người lặp
đi lặp lại. Đối với hai ông già, việc gặp các cô gái trẻ trong khi hai ơng tuổi đã xế chiều –
đó là một hình phạt.
Cả hai ơng già trong sáng tác của Kawabata và Marquez đều đã có một thời trai
trẻ, đầy sức sống chinh chiến với nhiều cô gái. Số cơ gái họ ăn nằm lên tới hàng trăm
người. Ơng giáo trong tác phẩm của Marquez cịn có sở thích ghi lại tên các cô gái đã ăn
nằm với ông “Vào những năm hai mươi tuổi, tôi bắt đầu thống kê ghi chép lại tên họ,
tuổi tác, nơi chốn và tóm tắt về hồn cảnh và phong cách của các cô ấy. Cho đến năm
năm mươi tuổi tôi đã ăn nằm với năm trăm mười bốn người phụ nữ ít nhất một lần”,
nhưng chưa có một cơ gái nào mang lại xúc cảm thẩm mĩ cho họ. Nghĩa là họ chưa đi đến
tận cùng cái đẹp, chưa khám phá hết cái đẹp. Đến cuối đời trong sự cô đơn, hai ông già
lại tìm đến với những cô gái. Và lần này, những cô gái trẻ trung, xinh đẹp, trinh nguyên
kia đã mang lại cảm xúc thẩm mĩ cho họ. Thế nhưng, ám ảnh tuổi già, ám ảnh cái chết
đang đến gần bủa vây lấy họ. Những ông già rơi vào vịng luẩn quẩn, vong thân và hóa
thân. Mỗi lần chiêm ngưỡng cơ thể các cô gái say ngủ, Eguchi như tự soi thấu tâm sự
mình. Nó gióng lên hồi chng tuổi già, cảnh báo về sự cạn kiệt của thời gian nhưng
đồng thời lại gột rửa tâm hồn họ. Các giấc mơ lưu giữ những ẩn ức ở cõi vô thức bùng nổ
dữ dội. Mọi những kiểm duyệt của luân lý, đạo đức bị cởi bỏ tựa như cơ thể trần truồng
nguyên sơ của các cô gái. Cơ thể nữ trở thành cõi hỗn mang đầy những xung đột, va
chạm để tái sinh con người.
Nếu ở mỗi tác phẩm của Kawabata đều có một hoặc hai người đẹp mà sự trong trắng luôn
để lại những ấn tượng tốt đẹp nơi người đọc thì “Người đẹp say ngủ” lại có tới 6 người
đẹp ngủ mê – mặc dù trong lữ điếm – nhưng họ lại là những cố gái trinh trắng. Những
người đẹp ở đây họ khơng nói. Họ bị đánh thuốc mê, thế nhưng họ lại chính là những
thực thể thẩm mĩ vơ cùng tồn vẹn. Đẹp, trinh trắng, câm lặng, họ là những mẫu vật tự
Page 15
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
nhiên của tạo hóa, khơng có sức đề kháng nhưng lại có khả năng tơn vinh vẻ đẹp của con
người. Đó là một diện mạo mới của aware: sự dâng hiến xót xa trong niềm tự nguyện bắt
buộc.
Những ơng già, khơng hồn tồn là một lớp người bất lực trong đời sống tình dục.
Cái quan trọng là họ muốn đi tìm lại những cảm xúc thẩm mĩ. Câu chuyện được xây
dựng trên một nền tảng triết học, mĩ học, nhằm tôn vinh vẻ đẹp của con người. Đó là
niềm bi cảm của khách thể nhận thức trước sự hữu hạn của cái đẹp (chủ thể đang hướng
tới nó). Đó là mối quan hệ biện chứng giữa cái đẹp không tự nhận thức và người chiêm
nghiệm. Đó cịn là hành trình đi tìm cái đẹp. Con người luân hồi là con người đi tìm cái
đẹp, vong thân và hóa thân. Vong thân của nghệ thuật và sự cứu rỗi của nghệ thuật. Quả
không sai khi ai đó nói rằng “Kawabata là người lữ khách mn đời đi tìm cái đẹp”.
Page 16
Bài tiểu luận môn văn học so sánh
Tài liệu tham khảo
1. Yasunari Kawabata, tuyển tập tác phẩm, Nxb lao động trung tâm văn hóa Đơng Tây
2005
2. Nguyễn Văn Dân, Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
3. Đào Thị Thu Hằng, Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, Nxb Giáo dục, 2007
4. Đào Thị Thu Hằng, Yasunari Kawabata giữa dịng chảy Đơng – Tây, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, số 7/2005
5. Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, Nxb Giáo dục, 2002
Page 17