Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận môn sinh lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.83 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI: SINH LÝ CÁC CƠ QUAN PHÂN TÍCH Ở TRẺ LỨA TUỔI
MẦM NON VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHÚNG.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Con người chúng ta nhận biết thế giới đều bắt đầu từ các giác quan. Nhờ
các cơ quan cảm giác kích thích não bộ, trẻ có thể nhận biết hình dáng người
mẹ, thưởng thức hương vị của sữa mẹ… những thơng tin giác quan này được
tích lũy trong bộ não của trẻ sau này trở thành ký ức và hệ thống tri thức, từ đó
giúp trẻ nhận biết thế giới xung quanh.
Giác quan đóng vai trị quan trọng khơng thể thiếu trong cuộc sống. Nó là
cầu nối gắn kết chúng ta với mơi trường. Đó là những kênh duy nhất tiếp nhận
những thơng tin bên ngồi truyền đến bộ não.
B. NỘI DUNG
I – Đại cương về cơ quan phân tích
1. Khái niệm
Trong q trình phát triển trên cơ thể hình thành những tập hợp đặc biệt
của các tổ chức nhạy cảm được gọi là cơ quan nhận cảm, chúng nối liền với các
dây thần kinh hướng tâm dẫn truyền các xung động thần kinh về trung ương, ở
đó xẩy ra q trình phân tích các kích thích nhận được để cuối cùng cơ thể có
phản ứng thích nghi với kích thích đó. Tập hợp đó được gọi và cơ quan phân
tích.
2. Cấu tạo:
Theo Paplop, cơ quan phân tích gồm có:
- Cơp quan nhận cảm: là tổ chức nhạy cảm đã được chun mơn hóa, có
khả năng nhạy cảm với một loại kích thích nhất định.
- Bộ phận dẫn truyền: là các dây thần kinh hướng tâm làm nhiệm vụ vận
chuyển hưng phấn từ các cơ quan nhận cảm tới trung ương thần kinh
- Bộ phận trung ương: Là phần vỏ não tương ứng của mỗi cơ quan phân
tích.

1



3. Vai trị của cơ quan phân tích:
Nhờ có cơ quan phân tích mà con người nhận thức được thế giới xung
quanh.
II. Các cơ quan phân tích
1. Cơ quan phân tích thị giác
Cơ quan phân tích thị giác là cơ quan rất nhạy và rất quan trọng. Nó có khả
năng thu nhận tới 80 - 90% các thông tin từ bên ngồi vào não. Nhờ cơ quan
phân tích thị giác mà ta có thể thu nhận được những biểu hiện về sự phát sáng
của mọi vật, về màu sắc, hình dạng, độ lớn, khoảng cách và sự di chuyển của vật
đó.
1.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích thi giác
- Bộ phận nhận cảm, cơ quan thị giác (cầu mắt).
- Bộ phận dẫn truyền: dây thần kinh thị giác.
- Bộ phận trung uơng: vùng phân tích thị giác trên vỏ não.

Mắt nằm trong hóc mắt có dạng hình cầu. Mắt gồm 3 lớp màng: Màng sợi,
màng mạch, màng thần kinh
Các phần phụ của mắt bao gồm:
+ Lông mi và mi măt: có tác dụng bảo vệ măt
+ Lơng mày: Ngăn chặn mồ hôi không xuống măt.
+ Tuyến lệ: Tiết nước mắt, nước mắt có tác dụng làm ướt giác mạc, rửa
sạch bụi bẩn.
1.2. Sự phát triển của mắt ở trẻ
- Ngay từ khi sinh ra (kể cả trẻ đẻ thiêu tháng), mắt đã có thể thực hiện đầy

đủ chức năng của cơ quan thị giác.
- Ở trẻ sơ sinh, đuờng kính của cầu mắt thuờng nhỏ hơn ở nguời lớn từ 25 30%. Thủy tinh thể có khả năng đàn hổi lớn, nhung mức độ hội tụ thì lại kém. Vì
vậy, ở khoảng cách từ vật đêh mắt, bình thuờng ảnh của vật rơi sau võng mạc.
Do đó, trẻ thuờng nhìn xa (viễn thị tự nhiên).

- Khối luợng mắt của trẻ nhỏ chỉ nặng từ 2 - 4g (ở nguời lớn 6 - 8g). Sau
khi sinh, khối luợng của mắt chỉ tăng lên 2 - 3 lần và tăng nhanh nhất trong năm
đầu. Khi trẻ đuợc từ 3 - 4 tuổi, khối luợng mắt gần bằng khối luợng mắt nguời
lớn.
- Ở trẻ sơ sinh, đuờng kính giác mạc của mắt gần bằng của nguời lớn. Khe

mắt của trẻ mặc dù ngắn hơn 2 lần nhung mở rất rộng. Mắt nhô ra phía truớc hơi
2


nhiều (vì hố mắt nơi chứa cầu mắt cịn chua sâu).
- Đối với trẻ mới đẻ (kể cả trẻ đẻ thiêu tháng) các tuyên lệ làm uớt mắt đã
hoạt động. Khi trẻ đuợc từ 3 - 5 tháng, duới tác động của các dây thần kinh phó
giao cảm có phản xạ tăng tiêt nuớc mắt. Vì vậy trẻ trong những tháng đầu khơng
có biểu hiện của khóc mà chỉ là kêu la khơng có nuớc mắt.
Ở Trẻ 6 tháng phân biệt đuợc sự khác nhau giữa nguời lạ và nguời quen.
Trẻ 12 tháng đã nhận dạng đuợc đổ vật. Trẻ 30 tháng có thể nhận biêt đuợc một
số màu cơ bản (đỏ, xanh, vàng, đen, trắng).
- Trẻ càng lớn đường kính cầu mắt càng tăng lớn. Khi 3 tuổi, đường kính

cầu mắt của nó đã đạt được 94% so với người lớn. Mặt khác, độ đàn hổi của
thủy tinh thể giảm dần, độ hội tụ tăng lên. Do đó, sự viễn thị tự nhiên cũng giảm
dần.
- Trẻ 5 tuổi đã có khả năng phân biệt được một số màu trung gian. Trẻ càng

lớn thì khả năng thu nhận và phân biệt những kích thích (hình dạng, màu sắc...)
càng phong phú. Nhưng mức độ phong phú đó lại phụ thuộc vào sự luyện tập
của từng trẻ.
1.3. Chức năng của cơ quan phân tích thị giác
a. Sự điều tiết của mắt

Người ta không thể cùng một lúc trông thấy các vật rõ như nhau, nếu
khoảng cách của chúng khác nhau. Sự thay đổi khúc xạ của mắt để nhận rõ ảnh
của các vật ở những khoảng cách khác nhau gọi là sự điều tiết của mắt. Mắt có
thể điều tiết bằng cách thay đổi độ cong của thủy tinh thể.
Khả năng điều tiết của mắt có giới hạn và mắt chỉ có thể nhìn thấy rõ các
vật ở giữa 2 điểm gọi là điểm xa nhất và điểm gần nhất.
Nếu mắt luôn ln phải điều tiết sẽ bị mệt mỏi và tình trạng này kéo dài dễ
dẫn đến cận thị hoặc viễn thị.
Lực điều tiết của mắt thay đổi tùy thuộc vào trạng thái chức năng của cơ
thể. Khi cơ thể mệt mỏi lực điều tiết sẽ giảm xuống.
b. Sự thu nhận hình ảnh
Kích thích tự nhiên với mắt là ánh sáng có bước sóng từ 0,1 đến 0,8pm.
Giác mạc, thủy tinh thể, thủy dịch, thể pha lê đều có khả năng chiết quang.
Do vậy mắt là một hệ thống quang học có khả năng hội tụ và khúc xạ ánh sáng.
Nó khúc xạ các tia sáng đi qua nó và lại hội tụ các tia đó vào một điểm.
3


Khi ta nhìn một vật, các tia sáng từ vật đến mắt qua môi trường chiết quang
sẽ khúc xạ và hội tụ trên võng lưới tạo nên trên màng lưới một ảnh của vật nhỏ
hơn và ngược chiều với vật. Sau đó, nhờ hoạt động phân tích trên vỏ não kết hợp
với các giác quan khác (sờ) và sự tích luỹ kinh nghiệm sống mà chúng ta nhận
được một hình ảnh vật xi chiều, có khoảng cách và chuyển động.
c. Cơ chế thu nhận ánh sáng và màu sắc
Đây là hiện tượng quang hố học. Ở trên màng lưới có các thụ thể của hệ
phân tích thị giác. Đó là các tế bào đặc biệt có khả năng cảm thụ với ánh sáng,
gọi là các tế bào que và các tế bào nón. .
Tế bào que và tế bào nón đều là những tế bào nhận cảm ánh sáng của mắt.
Khi các tế bào này bị hưng phấn thì gây ra cảm giác thị giác, nhưng tế bào nón
thì phụ trách việc nhìn ban ngày và nhìn các màu sắc, cịn tế bào que phụ trách

việc nhìn lúc tối và ban đêm.
d. Cơ chế nhìn màu
Mắt người có khả năng cảm thụ được 7 màu trong quang phổ mặt trời và
rất nhiều màu trung gian giữa chúng.
Giải thích về khả năng thu nhận màu sắc của mắt có nhiều thuyết, song phổ
biến nhất là thuyết 3 thành phần của Hemhôn. Theo thuyết này trên võng mạc có
3 loại tế' bào nón có khả năng thu nhận màu sắc khác nhau. Trong tế bào nón có
chứa một chất hố học đặc biệt, chất này sẽ tan ra dưới ảnh hưởng của các màu
sắc khác nhau.
Khi các chất này tan ra sẽ tác động lên đầu mút của dây thần kinh thị giác
và gây hưng phấn. Hưng phấn sẽ được truyền về vỏ não và sẽ gây cảm giác về
màu sắc tương ứng
Nếu ta mất một phần hay toàn bộ khả năng thu nhận màu sắc thì đó là bệnh
mù màu (ít gặp).
e. Thị lực (độ tinh) của mắt
Độ tinh của mắt là khả năng của mắt có thể phân biệt được những chi tiết
nhỏ nhất của vật mà ta quan sát. Độ tinh của mắt chủ yếu là do tế bào nón quyết
định. Ngồi ra độ tinh của mắt cịn bị
thay đổi theo: độ chiếu sáng, tác động của sự rèn luyện, trạng thái cơ thể...
1.4.Những phương thức cải thiện thị giác ở trẻ
- Thường xuyên khuyên, nhăc nhở trẻ nhìn xa khơng được nhìn q gần
- Đọc, viết đúng khoảng cách
- Phòng học đủ ánh sáng cho trẻ
4


- Thường xuyên bổ sung dưỡng chất tốt cho mắt hoặc ăn những thực phẩm
tốt cho mắt
- Tuyên truyền phụ huynh khám mắt cho trẻ thường xuyên
2. Cơ quan phân tích thính giác

2.1. Cấu tạo cơ quan phân tích thính giác
-

Bộ phận nhận cảm: cơ quan thụ cảm thính giác (ốc tai).
Bộ phận dẫn truyền: dây thần kinh thính giác.
Bộ phận trung ương: vùng phân tích thính giác trên vỏ não.Sự phát triển

của cơ quan thính giác ở trẻ
2.2. Sự phát triển của cơ quan thính giác
a. Sự phát triển của cơ quan thỉnh giác sau khi sinh
Sau khi sinh, tai trong và tai giữa hầu nhu hồn tồn khơng lớn thêm ra,
cịn tai ngồi có nhiều biến đổi. Vành tai của trẻ mới đẻ rất lớn: chiều dài của
vành tai chỉ kém 2 lần, chiều rộng gần nhu bằng vành tai của nguời lớn. Vành tai
tiếp tục lớn lên trong 2 - 3 năm đầu, sau đó lớn chậm hẳn lại. Tiếp với vành tai là
ống tai ngoài. Trẻ mới đẻ ống tai ngoài chứa đầy một khối chất nhầy giống nhu
bã đậu. Chiều dài vách trên của ống tai ngồi vào khoảng 15mm, cịn vách duới
là 8mm. Phần giữa của ống tai hẹp, dạng khe hở. Da ống tai đuợc phủ lông tơ và
chứa tuyến tiết ra ráy tai. Ơng tai ngồi lớn lên về chiều dài cũng nhu về chiều
rộng rất nhanh trong năm đầu, sau chậm lại và đến 6 tuổi thì đạt tới kích thuớc
nhu ở nguời lớn.
Ở trẻ sơ sinh màng nhĩ đuợc phủ từ phía trong và nhất là từ phía ngồi một
lớp biểu mơ dày hơn nguời lớn. Lớp này có tác dụng làm giảm cuờng độ các dao
động âm thanh của màng nhĩ.
Trong giai đoạn bào thai, khoang tai giữa chứa đầy một chất dịch. Sau khi
sinh, chất dịch đuợc thay bằng khơng khí, đi vào vịi nhĩ (ống nhĩ hầu).
Vịi nhĩ của trẻ mới đẻ gần nhu nằm ngang, không uốn cong. vòi nhĩ ngắn
hơn (khoảng 19mm) và rộng hơn nhiều (đuờng kính gần 3mm) làm cho khơng
khí tràn vào khoang tai giữa dễ dàng hơn. Trong những năm đầu, bên trong của
vòi dần dần hẹp lại và đến lúc 6 tuổi thì nhỏ bằng của nguời lớn. Sau đó tai tiếp
tục lớn lên về chiều dài cho đến 15 - 18 tuổi.

b. Sự phát triển của phản ứng đối với các kích thích âm thanh
Thai nhi 6 - 7 tháng đã có khả năng phản ứng với kích thích âm thanh bằng
cách tích cực vận động tồn thân.
5


Ngay từ khi lọt lịng mẹ ở trẻ đã có những phản ứng đáp lại kích thích âm
thanh nhu chớp mắt, nhắm mắt (và mở mắt khi đang nhắm mắt), ngừng khóc, cử
động nét mặt, thay đổi nhịp thở...
Trong ngày đầu trẻ sơ sinh thuờng khơng nghe thấy vì ở khoang tai giữa có
chứa một chất dịch. Những ngày tiếp theo tai trẻ có thể tiếp thu tần số dao động
âm thanh không những ở giới hạn giống nhu ở nguời lớn, mà còn ở phạm vi cao
hơn.
Trẻ càng lớn khả năng thu nhận và phân biệt âm thanh ngày càng tăng
Trẻ 3 - 4 tháng có thể phân biệt đuợc âm thanh có độ cao khác nhau, phân
biệt nguời lạ nguời quen qua âm thanh. Trẻ 8 - 9 tháng có thể hiểu đuợc những
từ riêng biệt. Trẻ từ 12 tháng có thể phân biệt đuợc âm sắc, có khả năng tập
trung thính giác. Trẻ 18 tháng thích nghe hát và âm nhạc. Trẻ 30 tháng thích
nghe và hiểu được những câu chuyện đơn giản. Trẻ 36 tháng có thể phân biệt
được giai điệu của bài hát. Trẻ 12 tuổi độ thính của tai được tăng lên rõ rệt và
đạt tối đa lúc 14 - 19 tuổi.
Nhìn chung khả năng nghe và phân biệt âm thanh của trẻ phụ thuộc rất
nhiều vào sự luyện tập của chúng, và sự tác động của nhiều yêu tố của môi
trường xung quanh, vào trạng thái cơ thể...
2.3. Chức năng của cơ quan phân tích thính giác
-

Thu nhận những kích thích âm thanh truyền về vùng thính giác trên vỏ

não, rồi phân tích những kích thích đó.

- Tiếp thu những kiên thức, những kinh nghiệm của thế hệ trước qua ngôn
ngữ.
Thưởng thức dạng nghệ thuật được xây dựng bằng âm thanh.
a. Cơ chế thu nhận âm thanh
Cơ quan thính giác thu nhận âm thanh dưới dạng sóng âm.
Cảm giác thính giác được phát sinh là do kết quả tác động của làn sóng
-

khơng khí lên màng nhĩ. Chấn động của màng nhĩ được các xương tai chuyển tới
màng cửa sổ bầu dục, làm cho màng này bị chấn động theo. Màng cửa sổ bầu
dục chấn động lại làm cho nội, ngoại dịch chấn động theo (đặc biệt là nội dịch).
Chấn động của nội dịch lại gây nên chấn động của các tiêm mao nằm trong cơ
quan Coócti và từ đó gây hưng phấn ở đầu tận cùng của dây thần kinh thính
giác. Hưng phấn được truyền tới vùng thính giác trên vỏ não, làm cho ta có cảm
6


giác về âm thanh.
b. Giới hạn thỉnh giác
Tai người chỉ thu nhận được âm thanh trong một giới hạn nhất định từ
16.000 đến 20.000 chấn động/giây. Giới hạn này thay đổi theo tuổi. Người càng
nhiều tuổi khả năng thu nhận của tai càng nặng nề với những âm thanh có tần số
thấp. Chẳng hạn, người 35 tuổi có khả năng thu nhận âm thanh với tần số tối đa
là 15.000, cịn người 50 tuổi thì chỉ thu nhận được âm thanh đến 13.000 dao
động/giây.
2.3. Cách bảo vệ thính giác ở trẻ
- Khơng nên cho trẻ nghe âm thanh có tần số lớn
- Thường xuyên vệ sinh tai cho trẻ
- Thường xuyên kiểm tra tai cho trẻ
- Tránh để nước vào tai khi trẻ tắm hoặc bơi

- Không dùng vật sắc nhọn để lấy ráy tai cho trẻ
3. Cơ quan phân tích khứu giác
Đối với con người, cơ quan khứu giác có tầm quan trọng, chủ u là phân
biệt tính chất của thức ăn và khơng khí xung quanh.
3.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích khứu giác
-

Bộ phận nhận cảm: Cơ quan thụ cảm khứu giác. Đó là những tế bào khứu

giác nằm trong màng nhầy của khoang mũi, chúng có khả năng thu nhận những
kích thích bằng hơi.
- Bộ phận dẫn truyền: Dây thần kinh khứu giác.
- Bộ phận trung ương: Vùng phân tích khứu giác trên vỏ não.
3.2. Tính cảm thụ của hệ phân tích khứu giác
Tính cảm thụ của hệ phân tích khứu giác càng cao, nêu khơng khí càng
trong sạch. Ngồi ra, tính cảm thụ này còn phụ thuộc vào trạng thái của niêm
mạc mũi, của lứa tuổi và sự luyện tập của trẻ. Chẳng hạn, khi trẻ bị sổ mũi thì
cảm giác khứu giác sẽ bị giảm đi hoặc đơi khi bị mất hẳn.
Sự thích nghi của hệ phân tích khứu giác sẽ xảy ra nêu tác động kéo dài của
kích thích mũi. Sự thay đổi tính cảm thụ và các hiện tượng thích nghi không
những xảy ra ở phần ngoại vi mà chủ yêu ở phần vỏ não của hệ phân tích khứu
giác. Do đó, khi tác động thường xun các kích thích về mùi nào đó thì trên vỏ
não xuất hiện hiện tượng tăng hưng phấn, làm cho cảm giác về mùi đó tăng lên.
Ngồi ra, cảm giác về mùi có thể bị ám ảnh và xuất hiện ngay cả khi không bị
7


kích thích mùi nào cả.
3.3. Đặc điểm của cơ quan khứu giác ở trẻ
Ở trẻ khoang mũi nhỏ và hẹp, được phủ bởi một lớp niêm mạc mịn, mỏng

và nhiều mạch máu. Do đó, cảm giác khứu giác cịn kém.
Trẻ càng lớn độ nhạy bén với kích thích mũi càng tăng (đến 6 tuổi), sau đó
khả năng này bị giảm sút. Cụ thể, ở trẻ sơ sinh trong những ngày đầu đã có
những phản ứng với những mùi mạnh bằng sự co của các cơ nét mặt. Trẻ ở tuổi
bú mẹ, do khoang mũi phát triển chưa đầy đủ nên cảm giác khứu giác còn kém.
Đến tuổi mẫu giáo và tuổi học sinh, cảm giác khứu giác được tăng lên và
khả năng này nhạy hơn so với ở người lớn.
3.4. Cách bảo vệ Khứu giác ở trẻ
- Thường xuyên vệ sinh mũi cho trẻ
- Đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà
- Thường xuyên khám khi có dấu hiệu bất thường
4. Cơ quan phân tích vị giác
Ở người cũng như ở nhiều tích vị giác báo hiệu về các trong khoang miệng,
giúp ta lượng của thức ăn.
4.1. Cấu tạo cơ quan phân tích vị giác
- Bộ phận nhận cảm: Cơ giác (đó là các vi thể vị giác lưỡi, hầu, vịm
miệng...). Chúng cảm thụ với những chất có trong dung dịch
- Bộ phận dẫn truyền: Dây thần kinh vị giác
- Bộ phận trung ương: Vùng phân tích vị giác trên võ não
4.2. Tính cảm thụ của hệ phân tích vi giác
Có 4 loại cảm giác vị giác: ngọt, đắng, mặn, chua. Còn các cảm giác khác
là do sự phối hợp của 4 vị cơ bản đó tạo ra. Các chất này khi hoà tan trong chất
lỏng sẽ tác động vào các vi thể vị giác và cho ta cảm giác vị giác.
Mỗi loại vi thể vị giác có khả năng thu nhận một loại vị nhất định. Ngoài ra
các phần khác nhau của lưỡi cũng có khả năng thu nhận các vị khác nhau. Ví dụ:
phần đầu của lưỡi chỉ thu nhận vị ngọt, hai bên của lưỡi thu nhận vị chua và
mặn, còn phần cuối của lưỡi thu nhận vị đắng.
Tính cảm thụ của hệ phân tích vị giác phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu
thông thường về thức ăn của cơ thể. Tùy theo mức độ thức ăn được tiêu hoá đi
xuống dạ dày và phần trên của ruột non mà tính cảm thụ đối với vị mặn và vị

8


ngọt tăng lên rõ rệt.
Sự thích nghi với vị chua và đặc biệt với vị đắng diễn ra rất chậm, cịn sự
thích nghi với vị ngọt và mặn, xảy ra nhanh hơn cả. Sự thích nghi với vị mặn
làm tăng hưng phấn với vị ngọt, sự thích nghi với vị ngọt làm tăng hưng phấn
với vị chua và đắng.
Hoạt động của cơ quan khứu giác có ảnh hưởng đến cảm giác vị giác. Vì
vậy khi cảm giác khứu giác tạm thời mất hoặc bị giảm, thì sẽ làm cho cảm giác
vị giác bị rối loạn.
4.3. Đặc điểm của cơ quan vi giác ở trẻ
Ở trẻ các vi thể vị giác được phân bố rộng rãi hơn so với ở người lớn (còn ở
người già số lượng các vi thể vị giác giảm bớt đi).
Ngay trong thời kì sơ sinh, ở trẻ đã có tất cả 4 thể cảm giác vị giác: ngọt,
chua, mặn, đắng. Các vi thể vị giác có phản ứng rất tốt với các vị. Chẳng hạn: trả
lời kích thích của vị ngọt bằng sự bú, mút và nuốt. Trả lời với vị chua, đắng,
mặn bằng sự co của hệ cơ mặt. Mặt khác, ngưỡng kích thích vị giác của trẻ
thường cao hơn chút ít so với người lớn. Những phản xạ vận động bẩm sinh
được gây ra một cách đặc biệt tốt dưới sự tác động của các tác nhân kích thích
mà cho cảm giác ngọt và đắng.
Ở trẻ ngay từ tháng thứ nhất, phản xạ bú mút có điều kiện được thành lập
dễ dàng hơn cả với dung dịch chất ngọt.
Khi bị rối loạn tiêu hoá và bệnh tật sẽ làm giảm cảm giác vị giác của trẻ.
4.4. Cách bảo vệ cơ quan vị giác ở trẻ
- Khơng ăn đồ ăn q nóng, q cay
- Thường xuyên vệ sinh lưỡi
- Kiểm tra khi có dấu hiệu bất thường
5. Cơ quan phân tích xúc giác
Ở người, cơ quan phân tích xúc giác giữ vai trị cơ bản trong việc nhận thức

thế giới bên ngoài. Ở trẻ, những biểu tượng đầu tiên về hình dáng, về độ lớn và
về tương quan không gian của sự vật được phát triển trên cơ sở cùng hoạt động
của một số cơ quan phân tích, trong đó có cơ quan phân tích thị giác, vận động,
xúc giác...
Ngồi ra, cơ quan phân tích xúc giác cịn có ý nghĩa quan trọng là nguồn
gốc của những phản ứng, đặc biệt là phản ứng tự vệ để cơ thể tránh được những
9


tác động có hại.
5.1. Cấu tạo cơ quan phân tích xúc giác
Bộ phận nhận cảm giác xúc giác là đầu mút của các dây thần kinh nằm rải
rác trên da và niêm mạc.
Có 3 loại cảm giác: Cảm giác xúc giác, nhiệt độ (nóng, lạnh) và đau.
a. Cảm giác xúc giác
Trên tồn bộ bề mặt da có khoảng 500.000 thụ quan xúc giác. Trung bình
trên 1cm2có khoảng gần 25 thụ quan. Nhưng sự phân bố của các thụ quan này
trên bề mặt của các da không đồng đều.
Cảm giác xúc giác gồm cảm giác đụng chạm và cảm giác áp lực. Nhìn
chung, cảm giác xúc giác tăng lên đột ngột ở những vùng thân thể có phủ lơng vì
lơng là những địn bẩy có khả năng phóng đại kích thích đụng chạm. Những cảm
giác về đụng chạm và áp lực của da khá chính xác, nhưng vẫn cần có sự kiểm tra
của các cơ quan phân tích khác (nếu khơng thì có thể bị sai lầm). Nếu áp lực tác
động lên mặt da lâu thì đến một lúc nào đó sẽ mất cảm giác. Hiện tượng đó gọi
là sự thích ứng. Q trình thích ứng là đặc điểm chung của mọi cảm giác (trừ
cảm giác đau).
b. Cảm giác vê' nhiệt độ
Sự thay đổi nhiệt độ do hai loại thụ quan tiếp nhận: Một loại nhận cảm giác
nóng, một loại nhận cảm giác giác lạnh.
Ở người có khoảng 28.000 - 30.000 thụ quan nhận cảm giác nóng và

250.000 thụ quan nhận cảm giác lạnh. Như vậy, có 23 thụ quan lạnh và 3 thụ
quan nóng trên 1cm2. Nhưng sự phân bố của các thụ quan này không đồng đều
trên mặt da. Do đó khả năng cảm giác nóng và lạnh ở các vùng da khác nhau là
không đều nhau.
c. Cảm giác đau
Sở dĩ ta nhận được cảm giác đau là nhờ sự thụ quan đặc biệt phân bố trên
khắp cơ thể với một số lượng khá lớn (có khoảng 100 thụ quan này trên 1cm2).
Cảm giác đau rất quan trọng về mặt tự vệ và báo hiệu các biến cố xảy ra ở
các cơ quan này hay cơ quan kia gây phản ứng thích hợp để chống cự lại. Cảm
giác đau khơng chỉ do kích thích ở ngồi da, mà cịn ở một số nội quan nữa.
5.2. Tính cảm thụ của cơ quan xúc giác ở trẻ
Đối với trẻ, cảm giác xúc giác có vai trị quan trọng trong cuộc sống: Kích
10


thích sự hoạt động của hệ thần kinh và tạo cho trẻ các cảm giác an toàn.
Cảm giác xúc giác của trẻ được tăng dần theo lứa tuổi và phụ thuộc vào sự
luyện tập của trẻ.
-Trẻ sơ sinh có phản ứng khi chạm nhẹ vào chân chúng.
- Trẻ 3 - 4 tháng muốn sờ đến những đổ vật để trước mặt.
- Trẻ 5 - 6 tháng biết dùng tay để xem xét các đổ vật xung quanh.
- Trẻ 8 - 9 tháng có khả năng cầm nắm bằng tay.
- Trẻ 1 tuổi biết vỗ tay, thích được ơm ấp và dùng tay để chỉ vào đổ vật.
- Trẻ 1,5 tuổi có thể dùng tay nhiều hơn để cảm nhận sự vật xung quanh.
- Trẻ 2 tuổi đã biết sợ lửa, sợ nóng.
- Trẻ 2 tuổi có thể phân biệt được vật bằng tay mà khơng cần nhìn.
- Trẻ 3 tuổi có thể phân biệt được nóng và lạnh.
- Trẻ 4 tuổi nhận biết được đổ vật mà khơng cần nhìn.
- Trẻ 5 tuổi phân biệt được hình dạng của vật như hình trịn, hình tam
giác...

- Trẻ 6 tuổi phân biệt được tính chất của đổ vật bằng cách sờ.
6. Mối liên hệ giữa các cơ quan phân tích
Trong cơ thể, các cơ quan phân tích có sự tác động lẫn nhau: Sự kích thích
của một cơ quan này có ảnh hưởng đến hưng tính của cơ quan phân tích kia.
Theo Paplơp, cơ sở của sự tác động qua lại đó chính là hiện tượng lan toả và
cảm ứng đổng thời trên vỏ não.
Ngồi ra, giữa các cơ quan phân tích cịn có sự kiểm tra lẫn nhau. Điều này
có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục và chăm sóc trẻ.
Ví dụ: Một người bị mù thì họ có thể cảm nhận thế giới xung quanh bằng
tay, tai,… để biết được phía trước có gì hoặc nghe hiểu được người nói gì để đáp
trả lại.
Hoặc có thể thấy 1 người bị câm khơng nói được thì họ có thể viết ra giấy
cho người khác hiểu được họ muốn nói gì, cần gì…
C. KẾT LUẬN
Các cơ quan phân tích giúp cho cơ thể tiếp nhận được những thông tin từ
môi trường, từ đó có những đáp ứng kịp thời.Mỗi cơ quan phân tích giúp ta nhận
biết được các đặc tính đơn lẽ của sự vật hiện tượng. Sự phối hợp các cơ quan
phân tích tác động lên võ não cho chúng ta một thông tin đầy đủ về sự vật hiện
tượng.
Khi một giác quan bị thương tích và mất khả năng nhận kích thích, các
giác quan khác được tăng cường để thay thế một phần giác quan bị tổn thương.
Con người nhờ có hệ thống tín hiệu thứ hai là có khả năng nói và hiểu lời
11


nói, con người tiếp nhận được những thơng tin kinh nghiệm và kiến thức của
người khác và của các thế hệ trước nhờ đó mà con người có những thơng tin rất
rộng lớn. Não bộ của con người phát triển vượt bậc. Con người có khả năng tư
duy trừu tượng, đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng. Đó chính là cơ sở
giúp con người tìm hiểu những quy luật của thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên.

Buôn Ma Thuột, ngày 7 tháng 7 năm 2021
Người viết

Dương Thị Nữ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giải phẫu sinh lý trẻ em mầm non.
2. TS. Lê Thanh Vân, Giáo trình sinh lý học trẻ em, nhà xuất bản Đại học sư
phạm.

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×