Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử chống xâm lăng. Trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta đã trải qua bao cuộc chiến đấu lâu dài và
đã để lại nhiều chiến công hiển hách “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Ngược
dòng thời gian trở về với những trang sử của dân tộc, chúng ta không thể không nhắc
đến cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc ta là cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ.
Trải qua bao gian nan thử thách, bằng tinh thần đoàn kết, bằng ý chí quyết chiến quyết
thắng, bằng niềm tự tơn dân tộc… Việt Nam đã chiến thắng đế quốc Mĩ khơng chỉ làm
nức lịng nhân dân Việt Nam và nhân dân u chuộng hịa bình trên thế giới. Đó là
biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người.
Tuy nhiên, cho đến nay khi chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng trong
kí ức của mỗi người dân đất Việt, chiến tranh vẫn còn để lại những dấu ấn không thể
nào quên. Để làm được những chiến thắng lừng lẫy đó, dân tộc ta đã phải hy sinh biết
bao xương máu, của cải. Chiến thắng đã giành được, nền hịa bình được lập lại. Đó
chính là khát vọng và niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Song hậu quả của chiến
tranh, những mất mát về vật chất và tinh thần, sự hy sinh to lớn của nhân dân và di
chứng của chiến tranh để lại là vô cùng nặng nề. Tất cả những vấn đề đó được nhà văn
Bảo Ninh thể hiện rất chân thực và sinh động qua tác phẩm “Nổi buồn chiến tranh”.
Nếu như trước đây do hoàn cảnh chiến đấu, các nhà văn đã sáng tác nên những
tác phẩm văn chương mang tính chất cổ vũ động viên tinh thần chiến đấu của quân và
dân ta,cho nên chưa có điều kiện đi sâu, đi sát vào mọi mặt của thức tế đấu tranh của
dân tộc ta với đầy đủ những khía cạnh của nó. Đến nhà văn Bảo Ninh bằng tài năng
của mình cùng với quá trình chiêm nghiệm về thực tế đấu tranh của dân tộc, ông đã tái
hiện thực tế chiến đấu của dân tộc ta với đầy đủ khía cạnh của nó. Chính vì vậy, với
niềm yêu thích tác phẩm, Với mong muốn được hiểu thêm về cuộc chiến tranh hào
hùng của dân tộc và thông qua tác phẩm này để cùng nhìn lại những đau thương và
mất mát mà chúng ta phải gánh chịu trong chiến tranh… Bởi vậy, chúng tôi đã chọn
“Nổi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh làm đề tài tìm hiểu của mình.
2.Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
1
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Đề tài “Tiếp nhận về Nổi buồn chiến tranh của Bảo Ninh” có phạm vi nghin
cứu là trong tác phẩm “Nổi buồn chiến tranh”.
Về đối tượng nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tập trung vào phần nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm.
Trong phần nội dung chúng tôi tập trung vào hậu quả của cuộc chiến tranh,
trong đó tìm hiểu hai vấn đề nổi bật là nổi buồn của những người lính trong chiến
tranh và những hậu quả mà chiến tranh để lại cho người lính và những thân nhân của
họ.
3.Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp:
Phương pháp đọc tài liệu
Phương pháp tiền giả
Phương pháp đối chiếu, so sánh
Phương pháp phân tích tổng hợp
4. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tơi muốn tìm hiểu thêm về cuộc chiến tranh chống đế
quốc Mĩ của dân tộc ta, thơng qua đó thấy được rằng bên cạnh những chiên thắng,
những gì đã làm được trong cuộc chiến tranh thì nhân dân ta đã phải gánh chịu những
hậu quả hết sức nặng nề của cuộc chiến đấu đó. Hay nói cách khác đó là những mặt
trái, những cái giá của bất cứ cuộc chiến nào. Qua đó, ta thấy bức tranh tồn cảnh của
cuộc chiến tranh ấy.
5.Ý nghĩa của đề tài
Qua đề tài này, người đọc sẽ có một tư liệu tương đối hồn chỉnh về hậu quả,
những nổi buồn của chiến tranh. Trước đây ta mới chỉ tiếp xúc, tìm hiểu những áng thơ
văn đề cập đến những thành công, những chiến thắng, tinh thần chiến đấu hăng say
làm nên chiến thắng của dân tộc dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng với tác phẩm
này ta có thể thấy được những mặt trái, những hậu quả nặng nề của cuộc chiến đấu để
có cái nhìn khách quan, đầy đủ và thấy được cái giá phải trả cho những thắng lợi của
dân tộc Việt Nam là như thế nào. Song nhìn lại quá khứ để biết thêm, hiểu thêm chứ
không phải để buồn phiền hơn. Hiểu, trân trọng quá khư, quý hơn hiện tại và vững
bước trên con đường đi tới tương lai.
2
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử khi tác phẩm ra đời
Như chúng ta đã biết, “Nổi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh ra đời sau
khi cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta đã kết thúc được mười lăm năm. Sau khi
cuộc kháng chiến kết thúc, đất nước ta bước vào quá trình kiến thiết và xây dựng lại tổ
quốc. Tuy nhiên, do hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng với những sai lầm khuyết
điểm trong việc duy trì quá lâu cơ chế quan liêu bao cấp đã lỗi thời và trở kìm hãm sự
phát triển của đất nước… Tất cả đã làm cho nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế
xã hội kéo dài vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Vì vậy, yêu cầu đặt ra lúc này là
phải đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tiếp tục tiến lên. Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được của công cuộc Đổi mới chúng ta đa mắc phải một số sai
lầm khuyết điểm cùng những mặt chế của nền kinh tế thị trường. Trước thực tế thực tế
đó của dân tộc, những người lính trở về với thực tế cuộc sống. Họ mang trong mình
nhiều nổi hồi vọng về q khứ cũng như cảm thấy lạc lõng giữa cuộc sống hiện đại
đất nước. Nhà văn Bao Ninh cũng vậy, trải qua cuộc chiến đấu của dân tộc, được
chứng kiến tận mắt những đau thương mất mát của dân tộc ta trong chiến tranh cũng
như độ chín về tài năng… Trong bối cảnh đó nhà văn đã cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Như vậy, là nhà văn đã có một độ lùi về mặt thời gian
khi sáng tác một tác phẩm với chủ đề là chiến tranh.
Từ khi tác phẩm ra đời đến nay đã có tiếng vang lớn và có rất nhiều ý kiến
nhận xét đánh giá về nội dung tư tưởng của nó. Song, hầu hết đây là một cuốn sách
được đánh giá cao và được cơng chúng đón nhận theo những hướng khác nhau. Điều
đó tùy thuộc vào tầm đón nhận của bạn đọc. Có những người thưởng với nội dung tư
tưởng của tác phẩm nhưng cũng có những ý kiến nhận có phần cịn khắt khe… Đó
cũng là vấn đề bình thường trong tiếp nhận văn học thời kì hiện đại. Nhưng theo thời
gian thì nhưng giá trị làm nên thành công cho áng văn này ngày càng được khẳng định.
Theo thống kê của Nhà xuất bản văn học nhận xét của bạn đọc là:
Khơng hay: 0%
Bình thường 0%
Hay 14%
3
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Rất hay 86%
Có một nhà văn đã nhận xét rất hay về tác phẩm này như sau: “Tôi đà thấy cả
một Hà Nội cổ xưa trầm lắng vùi mình trong chiến tranh và cả những thư tệ hại nhất
thời hậu chiến, thấy hiện lên rõ mồn một cả chiến trường Việt Nam cả quân ta và quân
chúng nó. Một vạt Trường Sơn khói lửa, một Sài Gịn thê lương 30-4, thấy cả miền
Đông Nam Bộ và nam Tây Nguyên và hơn hết là thấy người, nhiều lắm và cả người
sống và người chết Hà Nội, Hà Nam, Nam Định…đủ cả. Thấy đầy máu và nước mắt,
xác người, rịi bọ, hồn ma, khơng thiếu thứ gì. Thấy hết cả những vẻ đẹp bi hùng của
những người lính và thấy cả những góc tối tăm và xấu xa, man rợ nhất trong chính họ
nữa, ơi thấy… Để rồi thèm, thèm mình có được một nhân cách tốt đẹp hơn, một cuộc
sống xứng đáng hơn. Đọc khơng phải để bới móc q khứ, khơi lại hận thù, cũng
khơng phải để gợi lịng trắc ẩn, mà để nhắc nhau, để biết quên, biết sống”.
Như vậy “Nổi buồn chiến tranh” là một tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh
nhưng được ra đời trong hịa bình lúc mà cả dân tộc đang có sự chuyển biến quan
trong trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và Bảo Ninh đã có một độ lùi về thời
gian cũng như sự trưởng thành về mặt nghề nghiêp. Bởi vậy, những tư tưởng mà nhà
văn khái quát trong tác phẩm của mình chứa đựng nhiều dấu ấn của thời đại và mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
2. Tiếp nhận về “Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh về mặt nội dung
2.1 Khái niệm về tiếp nhận văn học
Hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt
đầu từ sự cảm thụ văn bản ngơn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng
trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể,…
Qua tiếp nhân văn học, nhờ được tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa, tưởng tượng
của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh; ngược lại, người
đọc nhờ tác phẩm mà được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng
và tình cảm cũng như năng lực cảm thụ, tư duy.
Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa
người đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó địi hỏi người đọc tham gia với tất cả trái tim,
khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo. Trong tiếp nhận văn học
4
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
người đọc ở vào một tâm trạng đặc biệt, vừa quên mình, nhập thân vừa sống và thể
nghiệm nội dung của tác phẩm, vừa phân thân, duy trì khoảng cách thẩm mĩ để nhìn
nhận tác phẩm từ bên ngồi, để thưởng thức tài nghệ hoặc nhân ra điều bất cập, hoặc
cắt nghĩa khác với tác giả. Tiếp nhận văn học là một hoạt động sáng tạo, nó thúc đẩy
ảnh hưởng văn học, làm cho tác phẩm văn học không đứng yên mà ln ln lớn lên,
phong phú thêm trong trường kì lịch sử. Tiếp nhận văn học tạo thành đời sống lịch sử
của tác phẩm văn học.
Tiếp nhận văn học là một hoạt động có quy luật. Lí luận văn học, truyền thống
ghi nhận tiếp nhận văn học ở cấp độ cá thể, do các đặc điểm của cá tính, do các đặc
điểm của cá tính, sự tu dưỡng của người đọc quy định. Tri âm là sự tiếp nhận tác phẩm
đúng như ý định của tác giả, kí thác là sự tiếp nhận mà người đọc mượn tác phẩm để
bộc lộ nổi lịng của mình đối với đời. Người đọc cũng có thể phát hiện những giá trị tư
tưởng thẩm mĩ của tác phẩm ngồi tầm kiểm sốt của tư tưởng tác giả, dựa trên các ấn
tượng chủ quan về tác phẩm hoặc khám phá những ý tưởng ngược hẳn với tác giá.
Lí luận văn học hiện đại cịn xem tiếp nhận văn học là một hiện tượng có quy
luật xã hội. Sự đọc khơng phải là một hoạt động hồn toàn tự do. Người đọc trước hết
bị quy định bởi văn bản tác phẩm với các mà ngôn ngữ, mã nghệ thuật, mà văn hóa kết
tinh ở trong đó. Chẳng hạn, người đọc phải hiểu được nghĩa của ngôn từ, điển tích của
các đối tượng thẩm mĩ,… Thứ đến người đọc bị quy định bởi kinh nghiệm tiếp nhận
do truyền thống văn học và sự tiếp nhận các tác phẩm đã có trước đó quy định. Cuối
cùng người đọc bị quy định bởi nhu cầu đời sống, họ chờ đợi ở tác phẩm những vấn
đề, những hiện tượng hiện thực làm họ quan tâm. Dựa vào những quy luật này, người
ta có thể dựng lên bức tranh xã hội về sự tiếp nhận, với các xu hướng tiếp nhận khác
nhau. Theo quan niệm này, người ta ghi nhận sự hiểu nhầm hay cố tình hiểu chệch hay
hiểu ngược lại tác giả, như là các sự thật của tiếp nhận, cho thấy các trạng thái tinh
thần, đạo đức, trình độ văn hóa, nhu cầu tình cảm của đời sống xã hội. Mặt khác,
người ta cũng xây dựng lên lịch sử tiếp nhận tác phẩm lớn với vai trò phát hiện các giá
trị lớn của chúng do các nhà phê bình, nhà văn tầm cỡ thực hiện. Từ đó nổi lên sự thay
thế, biến đổi của các hệ quy chiếu chấp nhận, các loại hình tiếp nhận và các kiểu người
đọc đã tác động lên số phận tác phẩm.
5
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Hiện tượng tiếp nhận văn học xác nhận vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể
người đọc trong việc chiếm lĩnh giá trị văn học, cho thấy vai trò của việc nghiên cứu
phê bình văn học trong việc phát hiện giá trị văn học và nâng cao văn hóa tiếp nhận
cho công chúng.
Xưa nay chúng ta quan niệm, hoạt động văn học được quy định theo bốn khâu
có liên quan chặt chẽ với nhau đó là:
Hiện thực
Nhà văn
Tác phẩm
Bạn đọc
Nhìn vào sơ đồ ta thấy các mối quan hệ (ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp,
toàn diện hay chỉ vài khía cạnh…). Giữa tác phẩm với hiện thưc, giữa tác phẩm với
nhà văn và giữa tác phẩm với bạn đọc.
Có các loại hình tiếp nhận văn học như: lí luận tiếp nhận văn học truyến thống.
Lí luận tiếp nhận trong truyền thống chủ yếu quan tâm đến sự gặp gỡ của hai chủ thể
cá nhân (tác giả và người đọc), của hai thế giới nội tâm (ý thức và vô thức), tác giả với
ý thức và vô thức người đọc nhưng chưa quan tâm tới quy định văn hóa lịch sử đối với
sự gặp gỡ kia. Vì vậy, tất yếu phải bổ sung lý luận khác.
Tiếp đến lý luận tiếp nhận văn học hiện đại cho rằng tiếp nhận văn học cịn là
sự tiếp nhận truyền thống văn hóa này với truyền thống văn hóa khác, của một xã hội
này với một tác phẩm của xã hội khác, của công chúng xác định với một tác phẩm.
Quyết định số phận sáng tác của mỗi thời là tầm đón nhận của người đọc, của thế hệ
người đọc quy định.
Phản tiếp nhận là một hiện tượng văn hóa, biểu hiện yêu cầu đổi mới, đi ngược
với truyền thống của thế hệ mới so với người đi trước, thường xảy ra trong các thời đại
có bước ngoặt lịch sử hoặc tiếp xúc với nền văn hóa khác. Phản tiếp nhận là một cách
tiếp nhận tác phẩm dưới dạng một hệ hình mới, một hiện tượng quy luật của những
thời đại đang biến đổi.
Quá trình tiếp nhận trải qua các khâu: Tái hiện để tái tạo, lí giải và ngộ nhận,
đến trạng thái thơng thường nhưng tốt đẹp trong mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp
nhận và hiệu quả của tiếp nhận văn học là đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh, …
6
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Trên cơ sở tiếp nhận ấy chúng tôi đi vao tiếp nhận tác phẩm “Nổi buồn chiến
tranh” của nhà văn Bảo Ninh. Trong đó chúng tơi tập trung chủ yếu vào phần nội dung
của tác phẩm đó là nhưng nổi buồn đau trong chiến tranh và hậu quả mà nó để lại.
2.2.Những nỗi buồn đau mà những người trực tiếp tham gia phải chịu trong chiến
tranh
Như chúng ta đã biết, Bảo Ninh là thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông là người đã trực tiếp tham gia chiến đấu và góp
cơng sức của mình vào thắng lợi to lớn của dân tộc. Là người có vốn sống phong phú,
có tài năng nghệ thuật và bằng chính sự quan sát trải nghiệm thực tế của đấu tranh dân
tộc, đặc biệt nhà văn có độ lùi về mặt thời gian nên có điều kiện đi vào một số vấn đề
mới mà từ trước tới nay các nhà văn khác ít có điều kiện biểu hiện. Đó là hậu quả của
cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ. “Nỗi buồn chiến tranh” ra đời năm 1990 cùng
với tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường. Những tác
phẩm này ra đời lúc mà cả dân tộc ta đang kiến thiết xây dựng đất nước, đang trong
quá trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa để thực hiện những bước đầu tiên của thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
được ra đời đây là một tác phẩm mang nhiều ý nghĩa nhân sinh và xã hội sâu sắc.
Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là Kiên – một người lính trở về sau chiến
tranh và theo dòng hồi tưởng của nhân vật này quá khứ của cuộc chiến tranh và hiện
tại thời hậu chiến hiện lên rất sinh động tự nhiên. Trước hết, ta thấy Kiên là một người
lính có tinh thần trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc. Là người có nhiều ước
mơ, lý tưởng cao đẹp về tình yêu về cuộc sống. Anh đem tất cả vào cuộc chiến đấu.
Kiên là một học sinh xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản vào Nam chiến đấu. Kiên cùng
với đồng đội chiến đấu và trực tiếp chứng kiến những cảnh tang thương chết chóc của
chiến tranh: “Máu tung xối, chảy tóc, ồng ộc, nhoe nht, trên cái trảng hình thoi ở
giữa trng, cái trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên
nổi, thân thể dập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng”, những người lính chiến đấu
hăng say với tinh thần “Thà chết, khơng hàng”
Ngồi ra trong cuộc chiến tranh, mặc dù phải chiến đấu gian khổ và trong hồn
cảnh ác liệt, người lính cịn phải chịu đựng thêm những thiếu thốn: “Khẩu phần lương
thực đang sụt xuống nhanh như thể nước trong cái bình đập vỡ đáy, khổ sở vì đói, vì
7
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
sốt rét triền miên, thối hết cả máu, vì áo quần bục nát tả tơi và vì lở loét cùng người
như phong hủi, cả trung đội chẳng cịn ai trơng ra hồn thằng trinh sát nữa.”
Sống và chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn đó, để lại những chấn
động tâm lí cho người lính. Can nói với Kiên rằng: “Tơi khơng sợ chết nhưng cứ bắn
giết mãi thế này thì chết hoại tình người. Dạo này đêm nào tơi cũng mộng thấy mình
chết và tơi bơi ra khỏi xác và xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người”.
Rõ ràng, chiến tranh luôn gắn với hy sinh, chết chóc. Những người tham gia
vào cuộc chiến tranh mới thực sự thấm thía cái cảnh chết chóc đáng sợ ấy: “Theo dần
năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh. Trở thành tiềm
thức, trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trơi qua trong hồi ức của Kiên vô
vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn
của chiến tranh”.
Có thể nói rằng, đến Bảo Ninh tất cả những nỗi buồn của chiến tranh, những
nỗi buồn lo lắng về cuộc chiến, những phút yếu đuối và cả nạn đào ngũ của người lính
được tái hiện một cáhc chân thực. Nhà văn đã khái quát lên: “Chao ôi! Chiến tranh là
cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn
ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng
giống con người”. Bởi vậy, trong những phút giây yếu đuối của bản thân, những người
lính trong trung đội của Kiên đã buộc Kiên “phải im lặng, buộc anh phải hết lịng cảm
thơng. Chứ cịn biết làm thế nào khác được trước tiếng gọi man rợ, hoang dã của tuổi
thanh xuân”. Đó cũng là thực tế của cuộc chiến đấu.
Chiến tranh là phải chịu nhiều hi sinh và nền hòa bình dù có được lặp lại
“chẳng qua chỉ là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao nhiêu anh em mình, để chừa lại chút
xương. Và những người được phân công nằm lại gác rừng sẽ là những người đáng
sống nhất”.
Những người hi sinh cho tổ quốc là vậy, còn những người đang sống và chiến
đấu cho cuộc chiến đấu thì sao? Bảo Ninh khái quát “trong cuộc chiến tranh, cuộc
sống của anh, của bao người khác thật kinh khủng thậm chí khó có thể bảo đó là cuộc
sống nói gì đến việc tìm kiếm những sắc thái nghệ thuật trong đó. Và trong lời người
bố dượng nói với Kiên trước lúc đi chiến đấu là : “Nghĩa vụ của một con người trước
8
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
cuộc sống là sống chứ khơng phải là hi sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngọn
ngành chứ không phải là chối bỏ”.
Trong cuộc chiến đấu trường kì của dân tộc nghĩa vụ của mỗi một công dân là
phải góp cơng sức của mình vào đó để làm nên chiến thắng. Những hi sinh của họ là
vô cùng lớn lao: “Họ bị cái chết dồn dập săn đuổi, xô dồn vào thế mất còn chỉ trong
nháy mắt hoặc trong tấc gang. Họ bị giết từng người một hoặc là hàng loạt, bị bắn gục
tại chỗ hoặc bị thương mất máu chết dần,…Chưa kể những cơn ác mộng hủy diệt tâm
hồn và lột trần nhân tính”. Vì vậy, bên cạnh tinh thần chiến đấu hăng say thì những
người lính như Kiên, như Sơn, như Hịa khơng tránh khỏi những “nỗi buồn chiến
tranh” : “Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa nỗi buồn của tình
u, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều bng trên bến sơng bát
ngát”. Cho nên bằng dịng hồi tưởng tác giả đã khái quát rằng: “Không được quên,
không được quên tất cả đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, số phận chung của chúng
ta cả người sống lẫn người chết”.
Thực hiện nghĩa vụ đối với tổ quốc, người lính phải từ biệt q hương, gia đình
và cả người yêu dấu để bước vào cuộc chiến tranh. Vì vậy, bên cạnh những lúc chiến
đấu khó khăn gian khổ người lính như Kiên đã phải hi sinh mối tình đầu rất đẹp, rất
lãng mạn với Phương- người con gái hà thành xinh đẹp. Song trong lòng anh vẫn đau
đáu, da diết nhớ nhung và ước mơ ngày đoàn tụ.
Trong bất kì cuộc chiến nào, việc chết chóc là bình thường, nhưng trong cuộc
đấu tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc ta thì sự hi sinh của người lính thật sự cao cả.
Kiên đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết
nhất. Họ đã hi sinh tính mạng của mình vì nền hịa bình của dân tộc: “Một người ngã
xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế! Nhưng khi anh và
tơi thì sống cịn những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai
hết quyền sống trên cõi dương này đều gục ngã, bị nghiền nát, bị cổ máy đẫm máu của
chiến trận trà đạp, đầy đọa, bị bạo lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi chết, bị chôn vùi,
bị quét sạch, bị tiêu diệt thì sự bình yên này, cuộc sống này, cảnh trời êm biển lặng này
là cả một nghịch lí quái gỡ.
Như vậy những hi sinh, đau thương mất mát trong chiến tranh mà những người
trực tiếp tham gia chiến đấu điển hình như người lính là vơ cùng to lớn. Đó cũng chính
9
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
là những mặt trái của cuộc chiến tranh. Bảo Ninh đã tái hiện lại một cáh chân thật tự
nhiên và gieo vào lòng người đọc bao liên tưởng bao suy nghĩ. Nhà văn muốn khẳng
định rằng: mọi thắng lợi đều phải trả giá và cái giá mà chúng ta phải trả là không nhỏ.
2.3 Nỗi buồn hậu quả sau khi chiến tranh kết thúc
Trong đấu tranh chúng ta phải hi sinh xương máu, của cải rất nhiều nhưng sau
khi hịa bình lặp lại thì những hậu quả mà chiến tranh để lại là vô cùng to lớn. Điều
này thể hiện qua những phương diện như: những chấn động , ám ảnh về tinh thần của
những người trực tiếp tham gia chiến đấu, những bà mẹ mất con những người vợ mất
chồng, những người lính cịn sống khi trở lại với cuộc sống thì ln bị ám ảnh và khó
hịa nhập được… Họ cảm thấy hoài nghi trước hiện thực. Tất cả những vấn đề đó đã
được ngịi bút của Bảo Ninh tái hiện rất đậm nét. Kiên là một trường hợp điển hình.
Sau khi chiến tranh kết thúc anh trở về với thủ đô- nơi anh ra đã ra đi nhưng khi
trở về thì mọi thứ đã đổi thay: Phương người yêu cũ khơng cịn như xưa, bạn bè một
phần hi sinh trong chiến đấu, một phần khi trở về với cuộc sống đã khơng giữ được
bản lĩnh và ý chí nên đã xa ngã… Tất cả quá khứ, hiện tại cứ đan xen vào nhau làm
cho Kiên luôn trăn trở day dứt, có khi hồi nghi bi quan thực tại. Đó là hậu quả của
chiến tranh là những di chứng của nó là khơng phải một sớm một chiều có thể ngi
ngoai được vì “bao nhiêu xương máu đã đổ ra”.
Bảo Ninh đã khái quát tâm trạng của Kiên khi trở về : “Biết bao kỉ niệm bi
thảm, bao nhiêu nỗi đau mà từ lâu lòng đã nhủ lòng là phải gắng cho qua đi, rốt cuộc
đều rõ ràng bị lay thức bởi những mối liên tưởng tưởng như là không đâu, nảy sinh
một chác khôn lường từ muôn vàn những chi tiết tầm thường, rời rạc vô vị nhất”. Cho
đến bây gời tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày
khác, đêm thâu này đến đêm thâu kia. Thử hỏi đã bao năm dòng? Tất cả những hồi ức
ấy len lõi cả trong những giấc ngủ của Kiên khiến anh luôn bị day dứt và ám ảnh.
Rõ ràng, cuộc sống thời hậu chiến khơng dễ dàng gì với những người đã từng
chiến đấu như Kiên. Hết cuộc chiến với quân thù thì anh lao vào cuộc chiến đời
thường, cuộc chiến của riêng anh, cuộc chiến ấy diễn ra một cách đơn độc phi hiện
thực, một cách cay đắng và đầy rẫy va vấp và lầm lạc.
Khi trở về thăm lại chiến trường xưa, anh khơng khỏi chạnh lịng trước số phận
của những bà mẹ đã phải chịu đựng những nỗi đau quá lớn tiêu biểu là mẹ Lan : hai
10
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
người con trai đã chết cịn một người con gái thì trở thành góa phụ vì chồng Lan hi
sinh trong chiến tranh… Đó là hậu quả của chiến tranh- một hậu quả nặng nề mà với
Kiên “Bao nhiêu quảng đời yêu dấu với bao người thân yêu nay đã biệt tăm tích mà
anh chẳng lưu giữ được gì, đã để phí hồi tất cả”.
Sau khi ở chiến trường trở về Kiên dự định ấp ủ những áng văn chương để ghi
lại một thời oanh liệt, hào hùng nhưng đau thương của dân tộc. Anh mong muốn :
“Viết sao cho xao xuyến nỗi lòng dạ, xúc động mỗi trái tim con người như thể viết về
tình u, về nỗi buồn sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện
chỉ có thể diễn đạt bằng quá khứ, của quá khứ, Kiên nghĩ”. Song dự định là vậy nhưng
để đi đến và thực hiện được mong muốn đó là điều khơng dễ dàng vì sao chiến tranh: “
Tâm hồn mội ngày lại một thêm hoang phế, tranh tối, tranh sáng, vật vờ tồn những
hồn ma bóng quỷ. Vào những đêm xn giá rét ấy, những cơ hồn quen thuộc liên tiếng
thì thầm trò chuyện với anh, lên tiếng rên rĩ và thở dài.
Quá khứ cùng những mất mát hi sinh luôn ám ảnh Kiên : “ Một cuộc chiến
tranh chẳng những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh mà về thực chất nó cịn là
ngun nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời anh”. Khi trở về với đời sống,
Kiên nhận thấy mình dường như chẳng cịn ở trong một “kênh” với mọi người. Càng
ngày Kiên càng có cảm giác rằng khơng phải mình đang sống mà đang bị mắc kẹt giữa
cuộc đời này. Với anh lúc này : “Chao ơi! Như vậy đấy… Hịa bình, hạnh phúc, ánh
huy hoàng của chiến thắng, ấn tượng êm dịu của ngày trở về, niềm tin đắc thắng vào
tương lai”. Anh nhận thấy sự bế tắc bất lực của thân trước cuộc đời: Kiên nghĩ, chính
mình sau những năm trời đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác đoạn, đã ngập
chìm trong tủi nhục, ốn hờn và lũ lẫn. Nhưng là người thì khơng thể thế mãi . Phải có
được một con đường nào đấy để tự giải thốt. Nhưng là con đường nào và bao giờ
mình tìm được con đường ấy, đó là hiện trạng phổ biến của những người lính sau chiến
tranh. Trước sự đổi thay của xã hội những người lính trở vế sau chiến đấu cảm thấy bi
quan và bất lực, nên họ hoài nghi trước thực tế và không tin tưởng vào cuộc đời.
Chúng ta không quên quá khứ nhưng chúng ta phải tự đứng dậy và sống và sống cho
hiện tại và hòa nhập vào cuộc sống. Bảo Ninh cũng đã viết rằng: “Khơng được qn,
khơng được qn tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, số phận chung
của chúng ta, cả người sống lẫn người chết. Nỗi buồn thì khơn ngi, vẫn sẽ cịn lại
11
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
nỗi buồn…Nỗi buồn truyền kiếp”. Đó là một thực tế trong cuộc chiến đấu mà chúng ta
phải dũng cảm chấp nhận nó. Cũng bởi vậy nhân vật Kiên đã xác định rằng: “Phải viết
thơi! Đời anh tự bấy lâu nay cịn gì hơn là viết, mặc dù là viết khổ viết sở như đập đầu
vào đá, như là tự tay mình tước vụn trái tim mình, như là tự lộ trái tim con người mình
ra. Nhưng đấy là thực tồn duy nhất, là phần còn lại của tâm hồn đã bao lâu rồi ngợp đi
trong nỗi buồn thương tủi nhục. Kiên cảm thấy cuộc sống ngày hơm nay đang diễn ra
chỉ có tác dụng duy trì trong anh một khả năng khơng mất đi đối với quá khứ. Kiên
xác định rằng “không thể quên được gì hết, bởi vì đau buồn là một thể nguyên suốt
cuộc đời, liền một mạch từ thuở ấu thơ, qua chiến tranh đến bây giờ…Cũng vì đau khổ
mà người ta phải sống và mưu cầu hạnh phúc, phải đến với tình yêu, với nghệ thuật,
phải tận hưởng, phải chịu đựng đến cùng cuộc sống”.
Nhà văn đã tái hiện một cách sinh động, chân thật thực tế cuộc chiến đấu và hậu
quả nặng nề mà cuộc chiến tranh để lại. Đây là điểm khác biệt so với các ánh văn
chương viết về chiến tranh với các nhà văn khác, đó cũng là điều tạo nên giá trị của tác
phẩm vì chiến trang cần phải nhìn nhận một cách khách quan toàn diện và trung thực.
Bảo Ninh viết: sau khi bị sa sút vì chiến tranh, một con người có thể tạo dựng lại cơ
nghiệp, có thể hồi phục lại mức sốg hồi trước, nhưng những tài sản tinh thần, những
giá trị kinh tế của đời sống nội tâm một khi đã bị đánh sập, bị đứt khúc ra thì ai là
người có được cơ hội lần về với thuở ban đầu”. Một sự chiêm nghiệm được rút ra với
nhiều ý nghĩa to lớn.
Đối với nhân dân nỗi đau của cuộc chiến tranh có thể kéo dài tới ngàn năm. Bởi
vì chiến tranh đã làm cho bao gia đình phải tan tác, chia lìa, chiến tranh đã cướp đi biết
bao sinh mạng của con người, chiến tranh tàn phả đời sống, tình cảm của con người:
“Gia đình cố Dụ xưa kia đông vui thế mà sau chiến tranh cố là người đàn ơng duy
nhất. Như gia đình ơng Huy có ba con tử trận, như Sinh bạn Kiên thương binh cột
sống, toàn thân bất toại…” Tuy nhiên tát cả những gì bị chiến tranh nghiền nát thì dư
âm để lại bền lâu, bền lâu hơn tất cả tàn tích của chiến tranh và chinh chiến.
Tóm lại, nỗi buồn đau mà chiến tranh để lại là quá lớn và hậu quả của nó rất
nặng nề. Vì vậy, cần phải có thời gian để xoa dịu những đau thương ấy. Đó là một sự
thật cần được nhìn nhận một cách tồn diện. Bảo Ninh đã rất chân thực khi tái hiện lại
những hậu qủa của chiến tranh, qua đó nhà văn muốn khẳng định rằng những người
12
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
trực tiếp tham gia chiến đấu đã phải chịu những hy sinh và mất mát rất lớn, cho nên họ
xứng đáng được người đời thông cảm và trân trọng.
2.4 Những dự cảm và niềm hy vọng của nhà văn vào tương lai
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là bức tranh toàn cảnh cuộc chiến
đấu. Xuyên suốt tác phẩm ta thấy rằng đúng như tựa đề tác phẩm, nhà văn đã mạnh
dạn vạch ra những mặt trái của chiến tranh. Đó là: Những cái chết, nạn đào ngũ, tinh
thần dao động bi quan của người lính và hậu quả sau khi cuộc chiến tranh đã kết thúc,
gia đình tan hoang, tâm hồn bị tàn phá, sự lạc lõng bi quan trong cuộc sống thời hậu
chiến… Tất cả được Bảo Ninh tái hiện chân thật và đầy đủ. Tuy vậy, nhà văn vạch ra
những đau thương mất mát ấy để cho người đọc thấy được, có được hiện tại hịa bình
ngày hơm nay dân tộc ta đã phải đổi lấy bằng máu và nước mắt. Nhà văn viết rằng:
Những gì đã đi vẫn cịn ở lại đó. Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều
hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó. Kiên càng tin rằng
chiến tranh không tiêu diệt được cái yếu. Tất cả vẫn cịn lại trong đó, vẫn y ngun.
Cái xấu xa đã đành nhưng cái tốt đẹp vẫn cịn… Và nói chung tất cả mọi người, tất cả
những ai đã bị chiến tranh làm cho biến đổi, họ vẫn mãi mãi như họ trong quá khứ.
Cuối cùng Kiên đã nhận ra rằng: “Dĩ vãng không những tận cùng và dĩ vãng là vĩnh
viễn thủy chung, với tình bạn, tình yêu, tình anh em, tình đồng chí và nói chung bất
diệt tình người”.
Những người tham gia phục vụ cuộc chiến đấu, bị chiến tranh nghiền nát theo
một kiểu riêng, mang trong mình một cuộc chiến tranh của riêng mình và mỗi người
có một số phận hậu chiến nhưng họ đều có một nỗi buồn mênh mang, nỗi buồn cao cả,
cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ: “Chính nhờ nỗi buồn mà chúng tơi đã thốt
khỏi chiến tranh, thốt khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh
khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, những ám ảnh của bạo lực và bạo hành,
để bước trở lại con đương riêng trong mỗi cuộc đời, có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng
đầy tội lỗi nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tơi có thể hy vọng bởi đấy là
cuộc sống hịa bình.
Kết thúc tác phẩm của mình nhà văn viết “những ngày đau thương nhưng huy
hồng, những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người, những ngày mà chúng ta
biết rõ vì sao chúng ta cần phải bước vào chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất
13
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
cả và hy sinh tất cả”. Đấy cũng chính là thơng điệp mà Bảo Ninh muốn nhắn gửi đến
bạn đọc. Chiến tranh đã lùi xa nhưng khơng bao giờ chìm vào qn lãng, trái lại từ
những mất mát và đau thương đó chúng ta cần phảt trân trọng quá khứ và phát huy
những giá trị to đẹp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
“Nổi buồn chiến tranh”, đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình
yêu và chiến tranh… Chỉ có những tác phẩm như vậy mới thực sự đón nhận và chia sẻ.
3. Tiếp nhận “Nổi buồn chiến tranh” về mặt nghệ thuật
Như chúng ta đã biết làm nên thành cơng cho tác phẩm đó là tài năng nghệ
thuật của nhà văn. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm người đọc nhận thấy rằng ngay cả
việc đặt tên cho tác phẩm, đến việc sử dụng ngôn ngữ, việc sử dụng bút pháp hiện
thực xen lấn với yếu tố lãng mạn, ngôi kể, giọng kể của tác giả… Tất cả được vận
dụng một cách nhuần nhuyền, khéo léo và chúng đã góp phần khơng nhỏ vào việc
biểu hiện nội dung của tác phẩm.
Trước hết, ta tìm hiểu về tiêu đề của tác phẩm “Nổi buồn chiến tranh”. Ngay ở
tiêu đề phần nào cũng đã thể hiện được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Không phải
ngẫu nhiên mà Bảo Ninh lại đặt cho tác phẩm của mình là “Nổi buồn chiến tranh”.
Đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Như chúng ta đã biết, do nhiều lí do mà
tác phẩm này ban đầu có tên là “Thân phận tình yêu”. Là tác phẩm được giải thưởng
của Hội nhà văn Việt Nam. Cái giải duy nhất mà trong vòng mười lăm năm nay
thường được nhắc tới như bằng chứng về con mắt tinh đời của những người chấm
giải. Khi tìm hiểu tác phẩm này khiến ta nhớ đến các tác phẩm như: “Phía Tây khơng
có gì lạ” của F.M Remarque, “Mặt trời vẫn mọc” của Hemingway.
Ở nước ngồi “Nổi buồn chiến tranh” được đón nhận mà chưa một tác phẩm
nào ở Việt Nam có nổi. Tuy nhiên ở trong nước việc đến với công chúng bạn đọc của
tác phẩm trải qua nhiều gian nan và thử thách. Ban đầu đây là một tác phẩm được
đánh giá cao và được ca ngợi rất nhiều kể cả những nhà văn tên tuổi. Nhưng đến năm
1994 ngay cả nhưng người khen ngợi cũng nói khác, người ta kêu là mình bị bùa mê
thuốc lú và cuốn sách bị ném vào quên lãng. Đến năm 2003 nó được in lại nhưng ban
đầu rụt rè với cái tên “Thân phận tình yêu”, sau mới chính thức mang tên “Nổi buồn
chiến tranh”. Rõ ràng chỉ với cái tên là “Nổi buồn chiến tranh” là một dụng ý nghệ
thuật của nhà văn và mới chứa đựng được những gì mà nhà văn muốn thể hiện.
14
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
Tiếp xúc và tìm hiểu “Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, người đọc còn thấy
một yếu tố nghệ thuật được tác giả sư dụng xun suốt tác phẩm đó chính là bằng
giọng văn trầm buồn cùng dòng hồi tưởng. Tác giả đi từ quá khứ đế thực tại và từ
thực tại trở về với quá khứ. Điều đó biểu hiện cụ thể qua nhận vật Kiên (mà theo
chúng tôi cũng là hình bóng của tác giả). Qua dịng hồi tưởng của nhận vật này thì
quá khứ cùng nhưng kỉ niệm đau buồn của cuộc chiến tranh cũnhgnhư thực tại u
buồn cứ đan xen vào nhau. Điều đó chứng tỏ quá khứ của chiến tranh luôn ám ảnh
Kiên, luôn thường trự trong lịng anh cứ có dịp là trỗi dậy mạnh mẽ. Qua đó tác giả
muốn nói rằng mặc dù quá khứ đã trơi đi nhưng trong tâm trí của những người tham
gia chiến đấu thì nó vẫn ln hiện hữu và ám ảnh họ suốt cuộc đời: “Mãi mãi anh bị
cuốn hút bởi những đóm lửa trong quá khứ, những đốm lửa chiến tranh đầu tiên trong
đời, vệt sáng của cuộc phiêu lưu đầu tiên và cũng là tia sáng của tình yêu dội lên từ
đáy sâu thẳm thời thơ ấu”.
Mặt khác, trong tác phẩm này độc giả còn nhận thấy tác giả đã sử dụng thử
pháp miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật một cách rất chân thực, tự nhiên
và qua đó làm nổi rõ tính cách nhân vật. Chẳng hạn, việc miêu tả tâm trạng của Kiên
trong chiến tranh khi nhìn thấy những sai lầm trong quyết định đào ngũ của Can và
khi tận mắt chứng kiến những phát giây yếu đuối của người lính trước tiếng gọi man
rã, của tuổi thanh xuân. Ngoài ra, khi trở về với thực tại đời sống sau chiến tranh
trong tâm trạng Kiên ln có sự đấu tranh giằng xé dữ dội trước thự tại phũ phàng và
lí tưởng cao cả của một người lính : “Nhưng đúng là khơng thể qn được gì hết, bởi
đau buồn là một thể nguyên suốt cuộc đười, liền một mạn từ thủa ấu thơ, qua chiến
tranh đến tận bây giờ”.
Thêm vào đó với bút pháp hiện thực được sử dụng thành công, nhà văn đã tái
hiện một cách chân thực và sinh đông những thảm cảnh tàn khốc của chiến tranh và
tinh thần của những người tham gia chiến đấu trước thực tại ấy. Rõ ràng, phải là
người am hiểu sâu sắc về chiến tranh, phải là người trực tiếp tham gia và trực tiếp
gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhà văn mới có thể dựng nên
những cảnh tượng làm ám ảnh lòng người đến thế! Chúng ta hãy xem cách nhà văn
miêu tả cái chết của người lính trong chiến đấu. Can người lính trực tiếp chứng kiến
đã nói với Kiên rằng: “Anh có nhớ trận Plây- cần năm 72 khơng. Có nhớ cảnh thây
15
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
người la liệt trong khu gia binh không? Máu tới bụng chân, lội lõm bỏm…” Qua đó
ta thấy chiến tranh thật ác liệt và hậu quả thật ghê sợ! Nhưng bằng bút pháp hiện thực
nhà văn đã tái hiện lại một cách chân thật và gây ám ảnh mạnh mẽ trong lòng bạn
đọc. Tác giả đã không trực tiếp miêu tả nhưng thảm cảnh của chiến tranh mà để cho
các nhân chứng từng tham gia cuộc chiến đấu tái hiện lại. Điều đó tăng thêm tính
chân thực và mang lại hiệu quả cao. Tài năng của nhà văn chính là ở đó.
Một chi tiết nghệ thuật mà nhà văn sử dụng nữa mà chúng ta khơng thể khơng
kể đến đó là ngơi kể chuyện. Ngôi kể ở đây được tác giả sử dụng là ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba. Đọc tác phẩm ta khó có thể phân biệt được đâu là giọng kể của tác giả,
đâu là giọng kể của nhân vật. Tác giả để cho nhận vật của mình – những người trực
tiếp tham gia chiến đấu kể lại qua dịng hồi tưởng của mình. Điều này làm tăng chính
chân thực và sức thuyết phục đối với bạn đọc. Có lẽ vì vậy, mà có nhiều ý kiến cho
rằng đây là một cuốn tự truyện và họ còn cho rằng: nếu Bảo Ninh dám thẳng thắn
nhận rằng Kiên chính là bản thân nhà văn thì hiệu quả và sức thuyết phúc này chắc
khơng dừng lại ở đó.
Trên đây là những nét chính về nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết “Nổi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh. Ngồi ra cịn có sự kết hợp của vốn sống, kinh nghiểm trực tiếp
tham gia chiến đấu cộng với tài miêu tả quan sát sắc sảo… đã làm nên thành công và
tăng thên hiệu quả biểu đạt cho tác phẩm. Tất cả, góp phần làm cho tác phẩm này từ
khi ra đời đã nhanh chóng được bạn đọc đón nhận và khẳng định được vị trí cũng như
tên tuổi Bảo Ninh trong làng văn Việt Nam đương đại.
16
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
KẾT LUẬN
Cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc ta đối với đế quốc Mỹ đã mãi mãi được
nghi vào lịch sử Việt Nam cũng như thế giới. Đó là chiến cơng hiển hách chói lọi nhất.
Một biểu tưởng của anh hùng cách mạng và trí tuệ con người. Thế nhưng, để làm nên
những chiến thắng thần kỳ ấy dân tộc ta đã phải qua mn vàn hy sinh gian khổ, hịa
bình được dựng nên bằng máu và cả nước mắt của dân tộc. Những nỗi buồn đau của
chiến tranh đã được nhà văn Bảo Ninh dựng lại một cách chân thực và xúc động qua
“Nỗi buồn chiến tranh”. Nếu trước đây qua các áng thơ văn khác chúng ta mới thỉ thấy
được một mặt của cuộc chiến đấu thì đến “Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, nhà
văn đã thật sự dựng lại được bức tranh toàn cảnh của cuộc chiến đấu chống Mĩ xâm
lược. Đấy là điểm riêng, điểm làm nên những giá trị của tác phẩm. Nhà văn Nguyễn
Quang Thiều đã nhận xét: “Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh chinh phục được bạn
đọc nhiều nước trên thế giới, trước hết vì nó đã chạm vào “mẫu số chung của nhân
loại”. Theo nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, đây cũng chính là lí do quan trọng
nhất khiến cho cuốn tiểu thuyết này mấy năm qua gây được cơn sốt nhỏ ở Việt Nam.
“Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh có những bước thăng trầm khi đến với
bạn đọc. Dù khơng thể nói là gặp nạn như Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ song
khoảng trên dưới mười năm tác giả chỉ còn cách im lặng làm chân biên tập cho một tờ
báo. Nhưng cái may của tác phẩm là nó ra đời trong hồn cảnh hội nhập. Tác phẩm là
người đại sứ duy nhất của Việt Nam mời gọi người ta đến với sứ sở này để khám phá
tiếp. Nhưng 20 năm nay, bao thay đổi đã đến với đời sống chúng ta và trong đầu óc
chúng ta! Bao giá trị hôm qua tưởng như không thể chấp nhận, hôm nay được ngợi ca,
trọng vọng, quan niệm về tương lai khác đi, quan niệm về hiện thực khác đi thì làm
sao quan niệm về quá khứ cứ giữ mãi như cũ?! Cúng ta phải nhìn nhận lại và dũng
cảm nhận ra những sai lầm, thiếu xót của thời đại. Bởi hạnh phúc nào mà không phải
tranh đấu, chiến thắng nào mà khơng phải hi sinh. Chính vì vậy, cùng với thời gian thì
“Nổi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh ngày càng khẳng định được vị trí của nó trên
văn đàn đàn tộc. Qua đó, thêm hiểu về quá khứ, thêm yêu hơn hiện tại và vững bước
trên bước đường tương lai tươi sáng của dân tộc. Với những giá trị của mình thì “Nổi
17
Tiếp nhận “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh sẽ khẳng định được vị trí của trước thời gian và lòng
người Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Bảo Ninh, “Nổi buồn chiến tranh”, 2003, Nxb Văn học
2. Lê Bá Hán (cb), 2006, “Từ điển thuật ngữ văn học”, Nxb Giáo dục
3. Phương Lựu (cb), 2005, “Lí luận văn học”, Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Khắc Sính, 2008, Bài giảng học phần sáng tác và tiếp nhận văn học.
18