LỜI NĨI ĐẦU
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất và
thống nhất - thế giới vật chất. Tính thống nhất của thế giới khơng chỉ được
hiểu một cách đơn giản là vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, một thế giới bao la rộng lớn “vô thuỷ, vơ
chung” (khơng có đầu, mà cũng chẳng có cuối), thế giới thống nhất ở tính vật
chất; mà cịn phải hiểu rằng, trong thế giới có vơ số các sự vật hiện tượng
khác nhau, chúng tồn tại trong mối liên hệ thống nhất biện chứng, tác động
qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động biến đổi và phát triển khơng
ngừng.
Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận thức đúng về nó,
nhận thức được các nguyên lý, quy luật vận động của thế giới, từ đó tìm ra
phương pháp tác động đúng, thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Muốn vậy, tư duy của con người
không thể nghèo nàn, chết cứng, hay cô lập tách rời; mà phải phong phú, sinh
động, linh hoạt, nhìn nhận và xét đoán sự vật hiện tượng phải khách quan,
toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quá trình vận động, phát triển của các
sự vật hiện tượng trong thế giới diễn ra như thế nào, do đâu mà có sự vận
động, phát triển ấy, những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác
xít nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói riêng đã làm rõ; đây cũng chính
là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, để làm rõ những vấn đề trên, em xin chọn đề tài: “Phân tích
nguyên lý phát triển thông qua ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật” làm bài tiểu luận của mình.
1
CHƯƠNG 1. NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Nguyên lý về sự phát triển
1.1.1. Khái niệm phát triển
Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về mặt lượng khơng có sự thay đổi về chất, sự phát triển đi theo đường
thẳng hoặc là sự vận động vòng tròn, nguồn gốc của sự phát triển nằm bên
ngoài các sự vật hiện tượng.
Quan điểm biện chứng cho rằng sự phát triển quanh co khúc khuỷu, có
những bước thụt lùi tạm thời song tất yếu vẫn là đi lên, cái mới ra đời thay thế
cái cũ có sự thay đổi về chất, nguồn gốc của sự phát triển nằm ở bên trong các
sự vật hiện tượng.
Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn của sự vật.
Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau mà sự vận động đó có thể là vận động
từ thấp lên cao, vận động từ đơn giản đến phức tạp và vận động từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Đặc điểm chung của sự phát triển là tính tiến lên
theo đường xốy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ
nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa có những
bước nhảy vọt... làm cho làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp,
có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.Trong phép biện
chứng duy vật, phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, nó chỉ
khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vật, hiện
tượng mới trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Tuỳ thuộc vào hình
thức tồn tại của các tổ chức vật chất cụ thể, mà "phát triển" thể hiện khác
nhau.
2
1.1.2. Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan: khơng phụ thuộc vào ý thức con người; nguồn gốc
của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng - đó là q trình
giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại của sự vật, hiện
tượng.
Tính phổ biến: Nó diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy;
trong mọi sự vật hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn phát triển
của sự vật, hiện tượng đó.
Tính đa dạng, phong phú
Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau có quá trình phát triển khác nhau.
Trong quá trình phát triển của mình, mỗi sự vật, hiện tượng cịn chịu
tác động của sự vật, hiện tượng khác, của điều kiện, hoàn cảnh...
Cùng một sự vật, hiện tượng trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì
sự phát triển diễn ra khơng giống nhau. Sự phát triển diễn ra phức tạp, trong
đó có cả những bước lùi tạm thời.
1.2. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến
và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hay
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Căn cứ vào mức độ tính phổ biến quy luật phân loại thành:
- Quy luật riêng
- Quy luật chung
- Quy luật phổ biến
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, quy luật được phân thành:
- Quy luật tự nhiên
- Quy luật xã hội
- Quy luật của tư duy
3
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác Lênin được áp dụng để giải thích về sự phát triển của sự vật, hiện tượng, ba
quy luật này hợp thành nguyên lý về sự phát triển, ba quy luật bao gồm:
+ Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
+ Quy luật lượng – chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
+ Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát
triển
1.2.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại
a. Khái niệm chất, lượng
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân
biệt nó với cái khác.
Chất với tư cách là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, thuộc tính
cơ bản nói lên chất của sự vật, mất thuộc tính cơ bản sự vật chuyển sang chất
mới. Tuy nhiên , việc phân biệt các thuộc tính là cơ bản hay khơng cơ bản chỉ
mang tính tương đối.
Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất
của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có nhiều chất.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố
cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng (kết cấu
của sự vật) thông qua các mối liên hệ cụ thể.
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật.
Lượng chưa chỉ ra được sự vật đó là gì mà chỉ nói được quy mơ to nhỏ,
trình độ cao thấp, tốc độ vận động nhanh chậm...
4
Có lượng được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể, nhưng có
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát; có lượng biểu thị
yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật, nhưng có lượng vạch ra yếu tố
quy định bên ngoài sự vật.
Chất và lượng đều tồn tại khách quan và giữa chúng có mối liên hệ hữu
cơ với nhau, chất nào cũng được biểu hiện bằng vô số những lượng nhất định
và lượng là lượng của một chất, sự quy định giữa chúng chỉ mang ý nghĩa
tương đối.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động,
phát triển của sự vật.
Sự thay đổi về lượng của sự vật dẫn tới sự thay đổi về chất của nó:
Khi sự vật cịn đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một
“độ” nhất định. Ở một giới hạn nhất định, khi lượng của sự vật thay đổi mà
chưa làm chất của sự vật thay đổi cơ bản - đó là "độ". Độ dùng để chỉ tính quy
định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa là thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định (độ) thì
chất mới tương ứng với lượng mới xuất hiện. Điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đủ làm thay đổi chất của sự vật gọi là “điểm nút”. “Điểm nút” là
giới hạn mà ở đó khi lượng thay đổi sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về
chất.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là
“bước nhảy”. “Bước nhảy” là sự kết thúc một giai đoạn phát triển, đồng thời
là khởi điểm một giai đoạn phát triển mới của sự vật. Nó là sự gián đoạn trong
quá trình phát triển liên tục của sự vật.
5
Sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng
trong “độ” nhất định cho tới “điểm nút” để thực hiện “bước nhảy” về chất.
Đây chính là cách thức vận động, phát triển của các sự vật.
Chất mới ra đời tạo lượng mới biến đổi phù hợp với chất mới: Chất mới
của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới - nó có thể làm thay đổi kết
cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy tồn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận,
các yếu tố... của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay
đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự phân biệt
bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết
quả của quá trình thay đổi về lượng. Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về
chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước
nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi
mau chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay
đổi về chất diễn ra bằng cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại
bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm hơn.
Tóm lại: Sự vật nào cũng là sự thống nhất của hai mặt chất và lượng,
chất tương đối ổn định, lượng biến đổi nhanh hơn mâu thuẫn với chất cũ, phá
vỡ chất cũ hình thành chất mới, chất mới hình thành cùng với một lượng mới,
lượng mới lại tiếp tục biến đổi... và cứ như vậy sự tác động biện chứng giữa
chất và lượng đã tạo nên cách thức vận động, phát triển liên tục của các sự
vật, hiện tượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết tích
luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này giúp cho
6
chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan duy ý chí, nơn nóng, “đốt cháy giai
đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Khi đã tích lũy đủ về lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy,
phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hố sang những thay đổi mang
tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khắc phục được tư tưởng
bảo thủ, trì trệ.
Trong hoạt động thực tiễn cịn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy, tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và chủ quan.
Phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.
1.2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
a. Các khái niệm
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau.
Các tính chất chung của mâu thuẫn:
Tính khách quan
Tính phổ biến
Tính đa dạng, phong phú
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này lấy sự tồn tại
của mặt kia làm tiền đề. Thống nhất giữa các mặt đối lập là sự tác động ngang
bằng nhau giữa các mặt đối lập và thống nhất giữa các mặt đối lập còn thể
hiện ở sự đồng nhất tức có điểm giống nhau giữa các mặt đối lập.
7
Đấu tranh của các mặt đối lập chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra
dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá
trình phức tạp, có thể chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó mâu
thuẫn phát sinh, phát triển và tiêu vong.
b. Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến. Sự vật, hiện tượng nào
cũng có mâu thuẫn, có sự thống nhất của các mặt đối lập, sự thống nhất này
quy định sự tồn tại của sự vật. Nhưng sự thống nhất bao giờ cũng gắn với sự
đấu tranh của các mặt đối lập, đấu tranh dẫn đến xóa bỏ sự thống nhất, sự
thống nhất khơng cịn, sự vật cũ mất đi, ra đời sự vật mới, tiếp tục nảy sinh
mâu thuẫn... Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của sự
vận động, phát triển.
- Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt
đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và
làm cho mâu thuẫn phát triển:
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
phương hướng trái ngược nhau, thậm chí cịn có điểm đồng nhất.
Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập.
Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển
hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, nhờ đó mà thể thống nhất cũ được
thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác
động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Chúng không tách
rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật:
Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự
vật.
Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
8
Nghĩa là, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối tạm thời, sự đấu
tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
- Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập khơng tách rời nhau. Q
trình vận động, phát triển là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi nó do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định. Do vậy, mâu
thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp
đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn
của sự vật. Muốn tìm ra mâu thuẫn phải tìm ra những mặt đối lập, những mối
liên hệ giữa chúng.
Để thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng phải tìm mọi cách để
giải quyết mâu thuẫn, khơng được điều hồ mâu thuẫn.
Để giải quyết đúng mâu thuẫn phải hiểu đúng xu hướng vận động, phát
triển của nó. Vì thế phải phân tích q trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn; vai trị, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn cũng như sự phát
sinh, phát triển, mối quan hệ và điều kiện chuyển hoá giữa các mặt đối lập của
mâu thuẫn.
1.2.3. Quy luật phủ định của phủ định
a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác
của cùng một sự vật trong q trình vận động, phát triển của nó.
Phủ định biện chứng là phạm trù dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự
phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới,
tiến bộ hơn sự vật cũ.
Đặc điểm của phủ định biện chứng:
- Tính khách quan: Tự phủ định, do đấu tranh chuyển hóa giữa các mặt
đối lập.
9
- Tính kế thừa: Giữ lại nhân tố tích cực, loại bỏ nhân tố tiêu cực.
Nội dung cơ bản của phủ định biện chứng là giai đoạn sau bảo tồn giai
đoạn phát triển trước, là nhân tố nối liền giữa cũ và mới. Sự vật ra đời và tồn
tại đã khẳng định chính nó. Trong q trình vận động của sự vật ấy, những
nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng
diễn ra, sự vật đó khơng cịn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có
những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định
bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song
khơng phải là sự trùng lặp hồn tồn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới
và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp theo của
nó.
b. Phủ định của phủ định
- Phát triển là sự phủ định liên tiếp từ thấp lên cao, khơng có lĩnh vực
nào lại có thể có sự phát triển mà khơng phủ định lại những hình thức tồn tại
đã có từ trước, phủ định biện chứng là vô tận, phủ định của phủ định là cực kỳ
phổ biến.
- Sau khi phủ định hai lần (phủ định của phủ định), sự vật hoàn thành
một chu kỳ phát triển: Hạt thóc – cây lúa – hạt thóc.
Phủ định lần 1 làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình.
Phủ định lần 2 dẫn đến sự vật mới ra đời - dường như quay trở lại cái
cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn (khác cả về số lượng và chất lượng phát
triển hơn).
- Kết quả phủ định của phủ định là điểm kết thúc một chu kỳ phát triển
và cũng là khởi điểm một chu kỳ phát triển mới, sự vật lại tiếp tục phủ định
biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy, sự vật mới ngày càng mới
hơn.
10
- Sự vật phải trải qua từ 2 lần phủ định trở lên mới hoàn thành một chu
kỳ phát triển (số lần phủ định của một chu kỳ phát triển có thể lớn hơn 2, tuỳ
thuộc từng sự vật cụ thể).
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên
của sự vật - xu hướng phát triển. Sự vận động, phát triển diễn ra theo đường
“xoáy ốc”.
11
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Giúp chúng ta hiểu đúng xu hướng phát triển của sự vật diễn ra quanh
co, phức tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau, mỗi chu kỳ có đặc điểm riêng,
từ đó có cách tác động phù hợp.
Cái mới, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái lạc hậu; nó kế thừa
những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Trong quá trình phủ định cái cũ phải biết kế thừa có phê phán những tinh
hoa của cái cũ, sử dụng chúng như là tiền đề cho sự ra đời cái mới, đồng thời
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái
mới.
12
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2.1. Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước trên
thế giới, trong đó có cả Việt Nam, đã từng có thời kỳ nóng vội, chủ quan, áp
đặt dẫn đến một số sai lầm không những chẳng làm tăng nhanh quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, mà ngược lại cịn làm kìm hãm q trình đó, thậm chí
có nơi cịn bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng, mất chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa, tình hình chính trị mất ổn định, nền kinh tế bị tụt lùi nghiêm trọng,
nhiều vấn đề về văn hoá xã hội bị xuống cấp.v.v. như một số nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông âu và Liên Xơ trước đây.
Q trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới không phải
đi
theo đường thẳng, mà theo đường xoắn ốc; chúng phải trải qua nhiều lần phủ
định biện chứng, với những chu kỳ (vòng khâu của sự phát triển) khác nhau,
mỗi chu kỳ phát triển lại có hai lần phủ định cơ bản và có thể có nhiều lần phủ
định khơng cơ bản. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần một tạo ra cái đối lập với
cái ban đầu, giai đoạn này còn được gọi là khâu trung gian trong quá trình
phát triển của sự vật hiện tượng. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần hai tạo ra
một sự vật hiện tượng mới có nhiều thuộc tính giống như cái ban đầu, nên đôi
khi tưởng là cái ban đầu, nhưng thực chất nó khơng phải là cái ban đầu, mà là
cái mới, là cái dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến
đây mới kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật hiện tượng. Song, q trình
phát triển của sự vật hiện tượng khơng phải chỉ có một chu kỳ, mà có thể có
nhiều chu kỳ phủ định, với những tính chất mức độ khác nhau; cứ kết thúc
chu kỳ này lại có sự ra đời của chu kỳ mới.
Do sự vật hiện tượng có nhiều mặt, nhiều thuộc tính khác nhau, nên vận
động biến đổi về lượng, sự vận động phát triển của các loại mâu thuẫn, sự
13
nhảy
vọt về chất của chúng diễn ra rất phong phú, đa dạng, làm cho sự ra đời của
cái
mới cũng rất đa dạng, phong phú muôn vẻ. Cái mới ra đời khơng nhất thiết
khi
nào cũng phải là cả tồn bộ sự vật hiện tượng, mà có thể cái mới ra đời chỉ ở
mặt này, mặt kia; cũng như sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất vừa có những
bước tồn bộ, vừa có những bước cục bộ, bộ phận. Điều đó cho thấy, quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới con người phải ln có cách nhìn biện
chứng, phải vừa thấy cái toàn bộ, đồng thời vừa thấy cái bộ phận, cái cụ thể,
tránh phiến diện hoặc chung chung, đại khái, qua loa cho xong việc; từ đó tìm
ra nhiều phương pháp tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất.
Hình ảnh đường xoắn ốc cho thấy, quá trình phát triển của các sự vật
hiện
tượng trong thế giới diễn ra quanh co, phức tạp, khó khăn, có thể có những
bước thụt lùi tạm thời. Bước thụt lùi này chỉ như một giai đoạn có thể diễn ra,
nằm trong q trình phát triển của sự vật hiện tượng, chứ không được cho
rằng bước thụt lùi ấy cũng là một sự phát triển – hai cách hiểu đó hồn tồn
khác nhau. Do sự đa dạng, phong phú mn hình, mn vẻ của thế giới vật
chất, nên khả năng xảy ra bước thụt lùi này cũng rất phong phú, đa dạng,
chúng có thể xảy ra ở mặt này hay mặt khác, ở nơi này hoặc nơi khác trong
quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Vì vậy, chúng ta khơng nên bi
quan, chán nản, nghi ngờ và thiếu niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, nhất
là khi cái mới vừa được “thốt thai” từ trong lịng cái cũ, cái cũ chẳng những
cịn rất mạnh, mà chúng cịn có khả năng “thích nghi”, cịn đang được “che
giấu”rất tinh vi xảo quyệt để tiếp tục tồn tại và phát triển cùng với cái mới; cái
mới ra đời thường còn rất non yếu, bản thân “sức đề kháng” của cái mới chưa
đủ sức chống lại sự tấn cơng từ nhiều phía của những cái đối lập, chưa thực
14
sự “quen” với mơi trường hiện tồn. Do đó, sự thụt lùi, sự thất bại của cái mới
ở giai đoạn đầu này cũng là điều dễ hiểu, đòi hỏi con người phải nhận biết
được vấn đề này để vạch ra cách thức, bước đi, cách làm phù hợp, hạn chế tối
đa những tổn thất đáng tiếc đi đến thành công. Bên cạnh đó, chúng ta vừa cần
có thái độ dứt khoát ủng hộ, bảo vệ cái mới, vừa tạo điều kiện cho cái mới
phát triển. Đồng thời, cần phân biệt rõ cái mới thực sự và cái mới giả hiệu –
giả danh để kịp thời ngăn chặn, loại trừ. Cái mới thực sự là cái ra đời hợp quy
luật, mang nội dung mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những yếu tố còn phù
hợp của cái cũ, là cái khác hẳn về chất so với cái cũ, mặc dù có thể cái mới
cịn nhiều mặt non yếu, chưa theo kịp yêu cầu đòi hỏi của điều kiện khách
quan, nhưng cái mới bao giờ cũng là cái tất thắng. Vì lẽ đó, trong cuộc sống
cũng như trong q trình hoạt động thực tiễn, một mặt, chúng ta luôn chú
trọng hướng tới cái mới, phát hiện ra cái mới một cách nhạy bén, nhìn về
tương lai phát triển của nó một cách vừa sâu sắc, vừa toàn diện; mặt khác,
chúng ta cần phải luôn tỉnh táo, sắc sảo trong phân biệt cái mới với cái cũ, cái
mới thực sự với cái mới giả hiệu. Tích cực hoạt động thực tiễn để làm chuyển
biến “tương quan lực lượng” giữa cái mới và cái cũ, làm cho cái cũ mất dần
đi, cái mới ngày càng mạnh lên.
Xuất phát từ đặc điểm, tính chất, trạng thái, cách thức của quá trình vận
động phát triển của sự vật hiện tượng, nên có thể có nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, đòi hỏi con người phải nhận thức được từng giai đoạn phát triển
ấy,
vạch rõ được những đặc điểm, dự báo khuynh hướng cũng như một số khả
năng
ngẫu nhiên có thể xảy ra của từng giai đoạn. Trên cơ sở đó dự kiến các
“phương
án” để bảo vệ và phát triển cái mới, đáp ứng nhu cầu của mỗi con người và
toàn
15
xã hội. Tránh xem xét cứng nhắc, bảo thủ, định kiến hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ
mặt nào, giai đoạn nào trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Tuỳ
theo từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo khả năng của từng sự vật hiện
tượng mà đặt ra yêu cầu đòi hỏi “vừa sức” ở sự phát triển của sự vật hiện
tượng, đồng thời cần phát huy tốt vai trị tích cực, chủ động, sáng tạo của con
người để tạo ra sự thuận lợi cho sự phát triển của sự vật hiện tượng, nhất là
trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản
của
phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, cách thức, con đường quá
trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Đây là cơ sở lý luận
khoa học và cách mạng cho con người đi nhận thức và cải tạo thế giới. Sự ra
đời của cái mới là một tất yếu khách quan, hợp quy luật. Vận dụng nội dung
của nguyên lý phát triển vào nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay là một việc cần thiết và quan trọng.
2.2. Ý nghĩa trong nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay
Sự phát triển của xã hội lồi người khơng phải là một q trình biến đổi
lộn xộn, tồn những ngẫu nhiên, mà là một q trình biến đổi có quy luật, gắn
liền với vai trò của con người một cách chặt chẽ, sự phát triển đó được đánh
dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện ở sự phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất và kế tiếp nhau của các nền văn minh. Mỗi giai đoạn chuyển giao từ
hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác đều có một thời
kỳ quá độ, đó là thời kỳ còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố tàn dư của xã
hội trước đó với những yếu tố mới, nhân tố mới của xã hội mới ra đời. Do
vậy, việc nhận thức đúng và xác định đúng con đường phát triển mới của mỗi
quốc gia, dân tộc là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Dưới ánh sáng lý luận
16
Mác Lênin về nguyên lý phát triển, chúng ta sẽ có cơ sở nhận thức đúng đắn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và
công nghệ, sự “rạn nứt”, sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô, nhiều học giả (nhất là các học giả tư sản) đã đưa ra nhiều học
thuyết
khác nhau về sự phát triển trong tương lai của nhân loại. Có học giả cho rằng,
cả xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa đều phải có bước “cải
tổ”, “cải biến” lại; cũng có quan điểm cho rằng ngày nay không nhất thiết
phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, mà có thể đi
theo
con
đường khác, hướng phát triển khác, hướng phát triển đó là gì, con đường đó là
gì, theo họ đó là cả hai cùng hướng tới một “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội
siêu công nghiệp” hoặc tạm gọi là “xã hội hậu tư bản”, đại biểu như Avin
Tôphlơ, J.Kgalbraith, Paul A.Samuelson, Peter F.Ducker. Đặc biệt trong
“thuyết hội tụ” của mình, học giả tư sản Mỹ- Avin Tơphlơ đã lý giải rằng, xã
hội tư bản chủ nghĩa cũng hướng tới cái đích là xã hội cơng nghiệp, xã hội xã
hội chủ nghĩa cũng hướng tới cái đích ấy, nên cả hai chế độ xã hội này sẽ đều
gặp nhau, cùng “hội tụ” tại một điểm đó là “xã hội hậu cơng nghiệp”, do đó,
khơng cần phải xác định là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa.
Qua đây cho thấy thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp vẫn là giữa hai
con đường đi lên chủ nghĩa tư bản và đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra gay gắt,
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vẫn gay go, phức tạp; vì vậy,
việc xác định đúng đắn con đường cho cách mạng các nước đang phát triển
trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng khơng phải là vấn đề đơn giản, đòi
hỏi giai cấp lãnh đạo, các đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin, nhất là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật Mác
17
xít, phải tỉnh táo, sáng suốt hơn nữa trong quá trình lựa chọn đường đi cho
phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội loài người. Hơn nữa,
trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng như hiện nay,
đang làm chao đảo khơng ít những người cộng sản, thậm chí có người cịn
nghi ngờ cả chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam cũng cảm thấy như bị
“hụt hẫng”, nuối tiếc thành quả cách mạng của chủ nghĩa xã hội sau gần 70
năm tồn tại và phát triển, thành quả đó phải đánh đổi bằng xương máu mới có
được. Vì vậy, việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay là một sự đúng đắn, một sự nhất quán cả về nhận thức và
hành động, cả về lý luận và thực tiễn. Chúng ta không thể đi lên xây dựng đất
nước Việt Nam theo bất kỳ một con đường nào khác ngoài con đường chủ
nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ hàng mấy chục
năm qua. Do đó, cần nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về con đường đang
đi của cả dân tộc, để từ đây có hành động đúng hơn, tốt hơn cho công cuộc
đổi mới và xây dựng đất nước, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa- xã hội ưu
việt nhất hiện nay ở nước ta.
Mặc dù hiện tại đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang còn mn vàn
khó
khăn, thách thức, phức tạp, cịn đầy dãy những chông gai, cản trở, nhưng
chúng
ta vẫn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhất định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ thành cơng.
Bởi vì, thứ nhất, chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn hợp
quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế
chung
của thời đại. Tuy chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xơ khơng cịn ngun
nghĩa như trước những năm 1991, nhưng vài năm gần đây, sau quá trình được
18
“kiểm chứng” tất cả những gì diễn ra sau sự sụp đổ ấy, nhân loại trên tồn thế
giới nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng đang ngày càng thấy rõ “bộ mặt”
thật của một chế độ xã hội không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình
chính trị mất ổn định, các cuộc khủng bố đẫm máu, xung đột sắc tộc…xảy ra
triền miên, nền kinh tế bị kìm hãm, đời sống của đại bộ phận nhân dân ở các
nước đó bị đảo lộn và ngày càng xuống cấp một cách trầm trọng, các cuộc
chạy
đua về chính trị, chạy đua vào các vị trí lãnh đạo xã hội ngày càng làm gia
tăng
kiểu “dân chủ vơ chính phủ”, làm rối loạn trật tự xã hội ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Nhưng ở Việt Nam chúng ta thì hồn tồn ngược lại, tình hình chính
trị ổn định, các dân tộc anh em ngày càng đoàn kết chặt chẽ; nền kinh tế ngày
một pháttriển mạnh hơn, đời sống của đại bộ phận quần chúng nhân dân từng
bước được cải thiện, sự thành cơng của đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X, của
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI.v.v. là những cơ sở thực tiễn sinh
động minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn con đường đang đi của dân tộc.
Hơn nữa, hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện một số nước tuyên bố đi
lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, như Vênêzuêna, Bôlivia; có một số
nước mặc dù khơng tun bố, nhưng qua những hoạt động thực tiễn của họ,
chúng ta có thể nhận thấy họ đang từng bước “đặt chân” vào con đường của
chủ nghĩa xã hội; ở một số nước khác như Achentina, Brazin…thì các đảng
cộng sản hoặc phong trào cánh tả đang đẩy mạnh hoạt động của mình theo
hướng chủ nghĩa xã hội; hoặc như “ngay ở các nước Liên Xô cũ và Đông Âu,
người ta đang thấy sự xuất hiện nhiều dấu hiệu tích cực mới, báo trước một sự
phục hồi ý thức và tổ chức cách mạng của nhân dân khi nhân dân trải qua
kinh nghiệm chính trị khắc nghiệt của bản thân đang được gỡ bỏ nốt những ảo
tưởng cuối cùng. Những người cộng sản và nhân dân lao động ở các nước đó
19
đã nhận rõ bản chất của cái gọi là “cải tổ” phản cách mạng tiến hành ở đất
nước họ”.
Đứng trước những ung nhọt, khuyết tật cố hữu và những “căn bệnh” mới
nảy sinh của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư sản vẫn phải thừa nhận một tất
yếu
khách quan rằng, q trình phát triển của xã hội lồi người sẽ phủ định xã hội
tư bản đương thời để tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Tuy họ
khơng giám tun bố đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng thông qua
những hoạt động thực tiễn của họ ta thấy có xu hướng, nguyện vọng muốn đi
lên chủ nghĩa xã hội. Giáo sư Trần Xuân Trường viết: “Những nhà tư tưởng tư
sản ít nhiều có tinh thần khách quan khoa học ngày nay đã nhận thấy sự cần
thiết phải phủ định chủ nghĩa tư bản dưới hình thức hiện nay, phủ định những
ung nhọt, khuyết tật của nó để thay bằng một trật tự xã hội tốt đẹp hơn, đáp
ứng đầy đủ hơn ước mơ, nguyện vọng và quyền lợi chân chính của con
người”.
Bên cạnh đó, nếu xét sự phát triển của xã hội lồi người từ cộng sản
nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu của nó là xã hội chủ nghĩa), thì đây chính là
một biểu hiện khá sinh động về một chu kỳ phủ định biện chứng. Mà như thế
cũng đồng nghĩa với việc phát triển tất yếu từ chế độ xã hội khơng có giai
cấp, trải qua các chế độ xã hội có giai cấp và lên xã hội khơng có giai cấp.
Nhưng xã hội khơng có giai cấp ở kết quả của phủ định lần hai này không
giống nguyên si như xã hội cộng sản nguyên thuỷ- một xã hội vừa mới “thốt
thai” từ lồi động vật thuần tuý, mà trên cơ sở cao hơn, khác hẳn về chất so
với tất cả các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Ví dụ như, ở thời kỳ
nguyên thuỷ, con người lao động sản xuất chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm,
công cụ lao động chủ yếu là cành cây, hòn đá, rồi đến đồ đồng, đồ sắt…nhưng
đến thời kỳ cộng sản chủ nghĩa, con người lao động trong điều kiện tự động
20
hoá cao, làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu, con người có điều kiện
phát
triển
tồn
diện
nhất.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới- xã hội chủ
nghĩa, một chế độ xã hội ra đời đối lập với chế độ xã hội cũ trước đó- chế độ
xã hội tư bản chủ nghĩa. Đây là một biểu hiện của sự phủ định lần hai trong
quá
trình phát triển của xã hội, sự xuất hiện của xã hội mới đối lập với xã hội
trước
đó để dường như lặp lại xã hội ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn. Vì lẽ đó,
chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng phải là việc làm áp đặt, mà hồn
tồn là do đòi hỏi của khách quan lịch sử, mục đích đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta chỉ là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, con người được phát triển tồn diện, khơng có áp bức bóc
lột.v.v.điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển mác
xít, các ơng cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần
phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo.
Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xố bỏ trạng
thái hiện nay”.
Nên một mặt, Đảng ta tích cực chăm lo cho dân, quyết tâm thực hiện tốt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phát huy vai trò to
lớn của tồn dân trong q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã
hội chủ nghĩa; mặt khác nhân dân ta vẫn một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nên việc chúng ta nhất quán đi lên theo con
đường chủ nghĩa xã hội cũng chính là một biểu hiện của sự thống nhất, sự phù
hợp của ý Đảng với lòng dân, tạo ra sức mạnh diệu kỳ của tinh thần đoàn kết
dân tộc. Nếu như trong lịch sử của dân tộc ta, Hồ Q Ly đã bị thất bại vì
“lịng dân khơng theo”, Nguyễn Trãi đã giành thắng lợi vì ơng biết “người đẩy
21
thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân, có bị lật thuyền mới biết dân
mạnh như nước”, thì đến Hồ Chí Minh, với tư tưởng xuyên suốt “dễ trăm lần
khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, Người đã cùng toàn
Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến công vang dội, những kỳ tích
khơng chỉ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó của Người ngày nay
được Đảng ta đang tiếp tục vận dụng và nâng lên một tầm cao mới, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện “đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng”, “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất
của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh
làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng
lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngồi”.
Như vậy, chúng ta có thể tự tin mà khẳng định rằng, chúng ta đã đi
đúng con đường của lịch sử, và chúng ta đủ khả năng để tiếp tục tiến lên một
cách vững chắc trên con đường ấy.
Chủ nghĩa xã hội mới chỉ là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của chủ nghĩa
cộng sản, để có được chủ nghĩa cộng sản như mơ ước của nhân loại thì phải
bắt
đầu từ việc xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Thế mà, hiện nay kể cả
nước
ta cũng như tồn thế giới đang cịn ở thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội,
“thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”, thời kỳ “chuyển giao”
lẫn
nhau của chế độ xã hội cũ và chế độ xã hội mới, chứ chưa phải là đã ở chế độ
xã hội chủ nghĩa. Các Mác viết: “Cái xã hội mà ta nói ở đây, là xã hội cộng
sản,
nhưng không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ sở của chính
22
nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa thốt thai từ xã hội tư bản, do đó là
một xã hội còn mang những dấu vết của cái xã hội cũ, đã đẻ ra nó.”
Hơn nữa, nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, mà từ chế độ phong kiến lạc hậu, nghèo nàn, trì
trệ về mọi mặt; nên vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn. Mặc dù trong thời
kỳ q độ này cịn có sự tồn tại đan xen giữa những cái lỗi thời, lạc hậu của
chế độ xã hội cũ, với những yếu tố đang phát triển của chế độ xã hội mới,
cuộc đấu tranh giữa những yếu tố cũ và yếu tố mới đó tuy diễn ra gay gắt, có
lúc tưởng chừng như cái mới đã bị thất bại, nhưng do chế độ xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa ra đời là hợp quy luật phát triển khách quan của lịch sử,
là sản phẩm của q trình đã có sự tích luỹ lâu dài về mọi mặt trong lịng chế
độ xã hội cũ, nên nó sẽ là cái tất thắng và thực tế nó đã trở thành hiện thực
trên thế giới.
Quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một thời kỳ quá độ
đầy dãy những khó khăn, phức tạp với điểm xuất phát rất thấp, cơ sở vật chất
kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề; trong khi đó
những tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại dai dẳng, đan xen với những yếu tố
mới đang nảy sinh, có nhiều vấn đề đối lập giữa chế độ xã hội cũ và chế độ xã
hội mới về tính chất, mục tiêu, phương hướng và khuynh hướng phát triển,
giữa những mặt còn tồn tại rất mạnh với những mặt mới ra đời còn rất non
yếu, sự ảnh hưởng về tư tưởng, tâm lý, thói quen của chế độ phong kiến hàng
trăm năm ở nước ta còn đè nặng trong cuộc sống của mỗi người dân Việt
Nam, tư duy vẫn chưa thoát khỏi “lối suy nghĩ xưa cũ”, nhiều vấn đề trong lối
sống vẫn giữ nguyên theo “phong tục tập quán cổ xưa”, cách nghĩ, cách làm
phần lớn vẫn chưa thốt khỏi kiểu “thuần nơng”, “làng xã”, “khép kín”. Cùng
với đó, là những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới, nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và thời kỳ mở
23
cửa, hội nhập quốc tế, như các tệ nạn xã hội, sự xuống cấp, suy thoái về đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân… tất cả đã tạo
thành rào cản lớn trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những vấn đề nổi cộm đó đang đối lập gay gắt với những mặt, những nội
dung mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng cho một chế độ xã hội mới tốt đẹp
hơn, như sự cơng bằng bình đẳng trong xã hội; dân chủ, kỷ cương của luật
pháp; xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.v.v. đây vừa là
biểu hiện của hàng loạt những mâu thuẫn khách quan, vừa là biểu hiện sự
phong phú của quá trình phát triển khơng phải theo đường thẳng, mà theo
hình xoắn ốc, quanh co phức tạp. Bởi vậy, nếu chỉ nhìn vào những cái trước
mắt, chỉ thấy những khiếm khuyết trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở thời kỳ quá độ mà bi quan, chán nản, không tin tưởng vào sự tất thắng của
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cũng như ở nước ta là điều nguy
hiểm, là vơ tình tạo “kẽ hở” cho các thế lực thù địch “nhảy vào” chống phá.
Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tính tất
yếu, cũng như những khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, chủ nghĩa xã hội cịn gặp rất nhiều khó khăn,
một số khiếm khuyết, một số tiêu cực mới nảy sinh làm cản trở quá trình phát
triển, tạo ra sự quanh co phức tạp, thậm chí có cả một số mặt bị thụt lùi so với
chế độ xã hội trước. Bằng nỗ lực của mình, những năm gần đây Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức,
tranh thủ thời cơ, thuận lợi để tập trung sức cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Sau hơn 20 năm đổi mới, đến nay chúng ta đã và đang thu được nhiều
thành tựu to lớn trên tất cả các mặt, “thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên
nhiều. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước
24
còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động”, “tình hình chính trị – xã hội
cơ bản ổn định”. Kết quả đó càng khẳng định sự lựa chọn đúng đắn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Những yếu kém, khuyết điểm
trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới chỉ là tạm thời; với quan điểm
nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, giám nhận khuyết điểm về mình,
Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy và đang lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh. Vì vậy, đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định, “tiến lên chủ nghĩa xã hội là
tất yếu khách quan vì hợp quy luật tất yếu của lịch sử lồi người”, tiếp tục tư
tưởng ấy, đến đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh sự xác định đúng đắn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta: “Theo quy luật tiến hố của lịch
sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Tại đại hội Đảng lần thứ X, trong khi đánh giá quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới đã đề cập đến vấn đề nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, đại hội đã nêu rõ: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý
luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.
Hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang tìm mọi cách để thích nghi trong
điều
kiện mới, nên nền kinh tế của các nước này vẫn đang phát triển, nhưng đi đôi
với sự phát triển về kinh tế ấy là sự “tha hoá” từng bước, từng mặt của con
người, nhất là người lao động. Theo tư tưởng của Các Mác và Ph. Ănghen xã
hội tư bản càng phát triển mạnh về kinh tế, thì sự “tha hố” lao động, “tha
hoá” của con người càng lớn. Trên thực tế ta thấy ở nhiều nước tư bản chủ
nghĩa hiện nay, sự suy đồi về luân lý đạo đức, lối sống; tình trạng thất nghiệp
gia tăng, đời sống người lao động cịn nhiều khó khăn, cực khổ; người lao
động dần trở thành “nơ lệ” của máy móc, của khoa học hiện đại; nhiều chính
25