Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUY CHẾ dân CHỦ và VAI TRÒ của đoàn THANH NIÊN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ dân CHỦ ở TRƯỜNG sĩ QUAN lục QUÂN 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.56 KB, 83 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam.
35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chính sách kinh tế - xã hội nhằm phát huy và hiện thực hoá quyền làm
chủ của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là ở cơ sở. Nhờ đó,
đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở là một đòi hỏi khách quan, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân và cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nói chung,
trường sĩ quan Lục quân 2 nói riêng, là sự phát triển và hồn thiện lý luận về
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện, tình hình mới ở nước ta.
Để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, tổ chức đoàn trở
thành mắt khâu cực kỳ quan trọng, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện, biến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước thành hiện
thực, là nơi trực tiếp nắm bắt và cung cấp những thông tin ngược từ quần
chúng cho các tổ chức đảng các cấp, phản ánh những tâm tư nguyện vọng
phong phú, đa dạng của quần chúng làm cho Đảng, Nhà nước không ngừng
phát huy vai trị lãnh đạo quản lý xã hội có chất lượng và hiệu quả của mình.
Trường sĩ quan Lục quân 2 là một trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội của quân đội ta ở khu vực phía Nam. Nhà trường thực hiện do
Đảng uỷ quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trọng tâm là đào tạo sĩ
quan bậc đại học quân sự. Từ khi thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, các đơn
vị cơ sở trường sĩ quan Lục quân 2 đã có sự chuyển biến rất rõ nét trên tất cả
các lĩnh vực. Ý thức và năng lực làm chủ của qn nhân đã có sự phát triển
tích cực; tình hình chấp hành kỷ luật, xây dựng nề nếp chính quy ở các đơn vị
không ngừng được cải thiện; hiệu quả hoạt động của các tổ chức không ngừng
được nâng lên; vai trị của các tổ chức tổ chức chính trị - xã hội trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị ngày càng được phát huy, góp
phần quan trọng vào việc xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện, ln hồn




2
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thực hiện quy chế dân chủ trở thành nhu
cầu nội thân của tất cả các đơn vị học viên trong toàn trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đáng tiếc vẫn tồn tại
những khuyết điểm, tiêu cực kéo dài chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng mới đặt ra. Việc chuyển đổi cơ chế, qua đó đổi mới nội dung,
phương thức, cách thức hoạt động của tổ chức đồn cịn chậm, các tổ chức
lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở cơ sở chưa nhận thức hết vị trí, vai trị của của
đồn thanh niên trong việc khai thác phát huy sức mạnh của quần chúng, trình
độ nhận thức về dân chủ của quần chúng còn giản đơn, cùng với những tiêu
cực trong lãnh đạo, chỉ huy ở đơn vị cơ sở còn kéo dài, cản trở đến việc phát
huy vai trị của các tổ chức đồn trong thực hiện quyền làm chủ của đồn
viên. Do đó, việc nghiên cứu, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị và phát huy
hết khả năng của các tổ chức đó trong thực hiện quyền làm chủ của đoàn viên,
thanh niên đang là vấn đề đạt ra búc xúc hiện nay.
Trước vai trị to lớn của của tổ chức Đồn trong việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở và thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở các đơn vị cơ sở
trường sĩ quan lục quân 2 hiện nay, tác giả chọn đề tài “Vai trị của Đồn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường sĩ quan Lục quân 2 trong thực hiện
quy chế dân chủ ở đơn vị học viên hiện nay” làm luận văn thạc sĩ, với mong
muốn góp phần làm hồn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm không ngừng
nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở các đơn vị cơ sở trường sĩ
quan lục quân 2; biến những nội dung quy định trong quy chế dân chủ ở cơ sở
thành những hành động thực tiễn, góp phần xây dựng các đơn vị cơ sở trường
sĩ quân lục quân 2 vững mạnh toàn diện, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân và quân đội giao cho.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:

* Mục đích:
- Phân tích làm rõ vai trị, thực trạng của tổ chức Đồn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh ở Trường sĩ quan Lục quân 2 trong thực hiện quy chế dân


3
chủ ở đơn vị học viên, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
vai trò của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong thực hiện quy chế
dân chủ ở các đơn vị học viên trường sĩ quan Lục quân 2.
* Nhiệm vụ:
Làm rõ bản chất quy chế dân chủ; vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
Đoàn ở các đơn vị học viên Trường SQLQ2.
- Làm rõ vai trò của các tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh Trường SQLQ2 trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Đánh giá thực trạng vai trò của các tổ chức Đoàn ở trường sĩ quan
Lục quân 2 trong thực hiện quy chế dân chủ.
- Đề ra một số giả pháp cơ bản trong việc phát huy vai trị của Đồn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong thực hiện quy chế dân chủ ở đơn vị
học viên hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về
dân chủ xã hội chủ nghĩa, về tổ chức tổ chức Đồn và thực tiễn của nó
trong đời sống dân chủ của nhân dân lao động, của quân đội và trường sĩ
quan Lục quân 2.
* Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn vai trị của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong
những năm vừa qua trong thực hiện quy chế dân chủ; các tài liệu, báo cáo
tổng kết hoạt động của các tổ chức Đoàn ở trường sĩ quan lục quân 2; kết quả

điều tra, khảo sát về hoạt động của các Đoàn ở các đơn vị học viên trong thực
hiện quy chế dân chủ ở trường sĩ quan Lục quân 2.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích của đề tài, tác giả luận văn sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học: phân tích, tổng hợp kết hợp


4
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia, điều tra xã
hội học... để phân tích luận giải các nội dung của luận văn.
5. Ý nghĩa của luận văn
Với kết quả đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ và nhận thức sâu
sắc hơn vai trị của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong thực hiện
quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở hiện nay. Đồng thời phê phán những nhận
thức lệch lạc, quan điểm sai trái xung quanh vấn đề này; đưa ra một số giải
pháp thiết thực, có tính khả thi trong việc phát huy vai trị của tổ Đồn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường sĩ quan Lục quân 2 trong thực hiện quy
chế dân chủ ở đơn vị cơ sở. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu giảng dạy xung quanh tổ chức Đoàn trong nhà trường quân đội và
chỉ đạo thực tiễn ở đơn vị cơ sở.
6. Kết cấu luận văn
Gồm mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.

Chương 1
QUY CHẾ DÂN CHỦ VÀ VAI TRỊ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG
SẢN HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 TRONG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
1.1. Quy chế dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở trường sĩ
quan Lục quân 2

1.1.1. Quan niệm về quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
ta về dân chủ trong xã hội.
Phạm trù dân chủ mà chúng ta đang sử dụng có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp “demos”, nghĩa là nhân dân và “kratos” chính là quyền lực của nhân dân,
chính quyền của nhân dân.


5
Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ mọi quyền lực xã hội. Đó là ước mơ
từ xưa của nhân loại và được các nhà tư tưởng nêu ra từ rất sớm trong lịch sử
xã hội. Trải qua hàng ngàn năm tiến hoá, đến thời đại chúng ta, dân chủ đang
là đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu động lực phát triển xã hội.
Phạm trù dân chủ có một lịch sử tiến hoá lâu dài, thể hiện khát vọng
của nhân dân làm chủ vận mệnh của mình. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái
kinh tế - xã hội, khái niệm “dân chủ” ngày càng được triển khai phong phú từ
chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận thức, hành vi con
người, các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. ở mỗi thời đại, dân
chủ mang những đặc trưng về hình thức, nội dung, bản chất của chế độ đó.
Dân chủ có các hình thức lịnh sử khác nhau.
Phạm trù dân chủ đang là một vấn đề được nhiều người quan tâm, được
nhiều quốc gia dân tộc đề cập và phấn đấu giải quyết; Đồng thời dân chủ là
vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trên phương diện lý luận cũng như
thực tiễn, đó là sự thể hiện nhu cầu về mọi mặt, là ước nguyện, là khát vọng
của quần chúng nhân dân lao động, mơ ước đến quyền lợi của mình được bảo
đảm cũng như việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm thật cơng bằng ,bình
đẳng. Dưới chế độ ngun thuỷ - xã hội đầu tiên của con người, mọi hoạt
động của con người vì lợi ích chung của bầy đàn, mọi người đều được hưởng
ngang nhau của cải họ làm ra. Song, q trình sản xuất, khai thác khơng phải
lúc nào cũng gặp thuận lợi, lúc nào mùa màng cũng bội thu, mà con người có

khi gặp phải sự thất bát do thiên tai hoặc thú dữ phá hoại. Bởi vậy, con người
dần dần nảy sinh tư tưởng muốn chiếm dụng của cơng, muốn tranh phần
nhiều của mình để đề phịng những lúc đói kém và để cuộc sống của mình
hơn người khác. Như vậy, vấn đề tư hữu, giai cấp, nhà nước xuất hiện. Theo
Ph.Ăng Ghen, chính ''những lợi ích thấp hèn nhất, tính tham lam tầm thường,
lòng khao khát hưởng lạc thơ bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ
muốn ăn cắp của cơng báo hiệu sự ra đời của văn minh mới, xã hội có giai
cấp, chính những thủ đoạn bỉ ổi... đã làm suy yếu xã hội thị tộc khơng có giai
cấp và đưa xã hội đến chỗ diệt vong''[1, tr.150]. Xã hội phân chia thành giai


6
cấp và nhà nước thì dẫn đến hiện tượng áp bức, bóc lột giữa các giai cấp. Khi
ấy, quần chúng bị áp bức, bóc lột đã nổi dậy chống lại giai cấp áp bức bóc lột
họ. Song tất cả các cuộc đấu tranh đó đều thất bại. Nhưng do thất bại trong hiện
thực, nên quần chúng nhân dân lao động mơ tưởng đến một xã hội'' hoàng kim''
đã qua của họ, đó là xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Người nô lệ mơ ước được
sống trở lại dưới thời cộng sản ngun thuỷ của họ, vì ở đó họ được làm chủ
cộng đồng, xã hội của mình.
Chế độ cộng sản nguyên thủy tan giã, xã hội bắt đầu có sự phân chia giai
cấp. Các hình thức tổ chức quản lý xã hội có tính chất tự quản đã trở nên lỗi
thời, một hình thức tổ chức mới mang tính chất là công cụ bạo lực nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp ra đời - đó là nhà nước. Với sự xuất
hiện của nhà nước, một tổ chức đại biểu cho cho quyền lực chính trị của giai
cấp chủ nô lập ra để bảo vệ cho lợi ích của nó, quyền lực cộng đồng xã hội
chuyển biến thành quyền lực nhà nước. Dân chủ mang tính giai cấp ngay trong
bước chuyển đó, cũng từ đó nó, trở thành mục tiêu đấu tranh, giành, giữ và
phát triển của nhân loại.
Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau trong
xã hội đã nhận thức, hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích

của mình. Lênin tổng kết “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, chế độ
dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống cưỡng bức đối với người ta”[2,
tr.123]. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi quyền lực từ chế độ cộng
sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ là quyền lực của nhân dân được
thể hiện trong các tổ chức tự quản theo tập quán, truyền thống (của xã hội cộng
sản nguyên thuỷ) biến thành quyền lực của giai cấp thống trị (trong xã hội
chiếm hữu nô lệ) được thể chế bằng chế độ nhà nước với sự cưỡng bức là chủ
yếu. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân chủ mang tính giai cấp, chế độ dân chủ gắn
với một chế độ xã hội cụ thể và một giai cấp cầm quyền nhất định, Nhà nước
chủ nô ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Athen, Hy Lạp cổ đại. Giai cấp
chủ nô đã nhân danh xã hội, chiếm đoạt nhà nước thành công cụ thực hiện
quyền lực riêng mình, làm cho tính chất dân chủ bị giới hạn trong giai cấp chủ


7
nơ và lớp người tự do, khơng có dân chủ cho những nơ lệ, thậm chí họ cịn
khơng có quyền là con người và bị coi là những “công cụ biết nói”.
Cũng như từ nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của lực lượng sản xuất,
chế độ phong kiến ra đời thay thế cho chế độ chiếm hữu nô lệ. Người nơ lệ
được giải phóng và khơng hồn tồn thuộc sở hữu của chủ nô. Tuy nhiên, ho
vẫn chưa thốt khỏi cảnh bị áp bức bóc lột của giai cấp thống trị, của vương
quyền và thần quyền, cả về vật chất lẫn tinh thần. Về hình thức, giai đoạn này
được xem là một bước tiến của lịch sử, nhưng thực chất lại là bước lùi trong
việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân lao động. Nó chẳng những khơng
khắc phục được tình trạng mất dân chủ do chế độ chiếm hữu nơ lệ để lại, mà
cịn làm cho tình trạng ấy trầm trọng hơn, ở chỗ: quyền lực xã hội bị thâu tóm
vào một tay cá nhân tức là vua.
Sự vận động phát triển của dân chủ là khách quan, dù cho giai cấp phong
kiến thống trị có tìm đủ mọi cách để bảo vệ lợi ích và địa vị của mình, kìm hãm
sự phát triển của dân chủ; song vẫn không thể cản được bước phát triển của dân

chủ. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, thương nghiệp, giai cấp tư
sản đã ra đời và lớn mạnh; để đảm bảo lợi ích, nó phải tìm mọi cách thốt khỏi
mọi sự ràng buộc của giai cấp phong kiến. Với các khẩu hiệu dân chủ: tự do,
bình đẳng, bắc ái… giai cấp tư sản đã tập hợp nhân dân lao động tiến hành
cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, dân chủ tư sản cũng chỉ co giá trị đối với giai cấp hữu sản.
Trước quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tính
dân chủ dần bị thay thế bằng các đạo luật phản dân chủ, bằng sự chuyên chính
của giai cấp tư sản. So với các nền dân chủ trước đó, dân chủ tư sản là “…một
tiến bộ vĩ đại”, song “trước sau nó vẫn là… một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt
xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và cái
mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo”. Vì
“trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương, nghìn kế… để gạt
quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước,…”[3, tr.305]. Quyền
tự do, dân chủ trong chế độ dân chủ tư sản, theo C.Mác đó là “tư do” lựa chọn


8
những người thống trị mình chứ khơng phải sự lựa chọn những người đại diện
cho lợi ích bản thân mình. Vì vậy, dân chủ tư sản khơng thể là mục tiêu cuối
cùng của nhân loại.
Chỉ đến khi giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất, nhiều giá
trị dân chủ truyền thống được phục hồi.
“Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên
thuỷ tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn minh,
quần chúng nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không những vào
việc bầu cử và tuyển cử, mà cả quản lý hàng ngày nữa”[4, tr.143].
Là thành quả của quá trình đấu tranh của giai cấp cơng nhân và nhân dân

lao động, nền dân chủ XHCN được thiết lập sau thắng lợi của cuộc cách mạng
XHCN. Chế độ dân chủ XHCN “dân chủ gấp triệu lần so với bất chế độ dân
chủ tư sản nào…”[5, tr.312-313] vì nó thực sự coi nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực. Mục đích cao nhất của dân chủ XHCN là giải phóng con người
và tồn thể lồi người. Dân chủ XHCN gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, vì sự tiến bộ xã hội. Trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngnghen vạch rõ rằng một khi những người
cộng sản hoàn thành mục tiêu chính trị của mình, thì dân chủ khơng cịn mang
tính hình thức nữa, mà đi vào cuộc sống. Giá trị về dân chủ, tự do và công bằng
của ngày hôm qua mang ý nghĩa mới về chất trong một tương lai khơng cịn sự
phân cực xã hội gay gắt nữa.
Mặt khác, giai cấp cơng nhân cịn lãnh đạo nhân dân lao động đập tan bộ
máy nhà nước cũ, thiết lập một cơ chế mới để nhân dân tham gia xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo C.Mác một nền dân chủ thật sự
phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân “chế độ dân chủ là câu đố đã được
giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước… ngày càng hướng tới cơ sở hiện
thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực, và được xác định là
sự nghiệp của bản thân nhân dân”[6, tr.349]. Cho nên, ngay trong quá trình


9
cách mạng “giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải tự mình giành lấy chính
quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc”[7, tr.623-624]. Giành lấy
chính quyền với ý nghĩa là giành lấy dân chủ, giành lấy quyền lực nhà nước và
tổ chức quyền lực đó thành nhà nước dân chủ vơ sản. Nhà nước đó sẽ là “chế
độ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và
sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế
độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân”[8,
tr.135]. Chỉ có như vậy quyền làm chủ của nhân dân lao động mới được thực hiện
đầy đủ.

Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Đây là điểm khác biệt cơ bản về chất giữa nền dân chủ vô sản dân chủ cho đa số quần chúng nhân dân lao động và dân chủ tư sản - dân chủ
cho thiểu số giai cấp bóc lột. Do đó, xét về bản chất, dân chủ XHCN là nền dân
chủ cao nhất từ trước tới nay. Trong chế độ dân chủ XHCN, những giá trị dân
chủ được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị (trong đó nhà
nước là trụ cột), thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị dân
chủ sẽ trở thành phổ biến và chi phối mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, mọi công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận
thức, vận dụng để làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Đó cũng là chế độ chính
trị mà “ lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân
chủ cho nhân dân…chế độ dân chủ cho tuyệt đai đa số nhân dân”.
Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân lao động (giai cấp công
nhân, nôn dân và các tầng lớp lao động khác), bảo vệ quyền và lợi ích của đa số
nhân dân lao động, đồng thời trấn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột.
Dân chủ XHCN được thực hiện bằng nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất giai
cấp công nhân, tính nhất nguyên của nền dân chủ XHCN; đồng thời là điều
kiện cơ bản đảm bảo tính định hướng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước,
tính tự giác trong xây dựng, củng cố hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Bởi vậy, sau khi giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân cùng tồn


10
thể nhân dân lao động bắt tay ngay vào việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà
nước - cơ chế đảm bảo dân chủ. Giai cấp công nhân “cần một Nhà nước, nhưng
không phải cái Nhà nước mà giai cấp tư sản cần và trong đó những cơ quan
chính quyền… đều tách khỏi nhân dân và đối lập với nhân dân”[9, tr.52], mà là
cái Nhà nước luôn luôn và thực gắn liền với nhân dân, đại diện cho nhân dân,
giúp đỡ họ học tập dân chủ, tham gia đời sống chính trị, tham gia làm chủ.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về

dân chủ.
Cội nguồn sâu xa của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh là truyền thống
trọng dân, nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò, sức mạnh của nhân dân
“dân là nước, nước có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền”. Bởi vậy,
Người cho rằng làm cách mạng phải biết dựa vào sức dân, lực lượng quần
chúng, vì dân là cội nguồn sức mạnh, là gốc của nước, căn cứ vững chắc của
cách mạng “dễ mười lần, khơng dân cũng chịu; khó trăm lần, dân liệu cũng
xong”[10,tr.212]. Thực tiễn quá trình cách mạng nước ta đã chứng minh “dân
chúng đồng lịng, việc gì cũng làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì
làm cũng khơng xong”[11, tr.213]. Cho nên, Người luôn khuyên bảo cán bộ,
đảng viên không ngừng rèn đức, luyện tài, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng,
vơ tư, chống tham ơ, lãng phí, xây dựng một thiết chế vững mạnh để thực
hành dân chủ. Dân chủ là “cái chìa khố vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn”[12, tr.249].
Tiếp thu, vận dụng những tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào quá trình cách mạng ở Việt Nam, đồng thời kế thừa những yếu tố dân chủ
trong truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm
dân chủ và dân chủ XHCN, rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm
chủ”. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân là chủ “nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[13, tr.515]; thứ hai, dân
làm chủ “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do nhân dân làm
chủ…”[14, tr.452]; thứ ba, dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về
nhân dân và được thực hiện qua các tổ chức quần chúng:


11
Nước ta là nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà
làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Cơng
đồn, Hội Nơng dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… Những đoàn thể ấy là tổ
chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết

nhân dân với Chính phủ[15, tr.66].
Thực hiện Di chúc của Người, ngày nay, Đảng ta đang tiến hành một
cuộc vận động chính trị rộng lớn, phát huy hơn nữa sức mạnh của nhân dân
đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN. Bẩy
mươi sáu năm qua, kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ
cũng coi phát triển dân chủ là một trong những nội dung quan trọng của
đường lối cách mạng. Quan điểm xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta là
“phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội”. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi
mà các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để xuyên tạc, chống phá công cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta với các chiêu bài dân chủ, nhân quyền… thì việc
mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội là hết sức cần thiết. Đó là mục tiêu và là động
lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến
lược trong tình hình mới, đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng, mở đầu sự
nghiệp đổi mới và cũng là thời điểm tổng kết kinh nghiệm 10 năm xây dựng
CNXH. Bài học kinh nghiệm thứ nhất Đảng ta rút ra là “đổi mới phải lấy dân
làm gốc”, đồng thời giải thích rõ nội dung của bài học kinh nghiệm để mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải ln xuất phát từ nhu cầu
và lợi ích của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) triển khai mạnh mẽ sự
nghiệp dân chủ hoá từ các lĩnh vực tư tưởng, chính trị và đặc biệt là kinh tế,
trao cho nhân dân quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, chủ động cải thiện
đời sống của mình. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi
mới đất nước. Đối với sự nghiệp dân chủ, thì đây là một mốc son chói lọi đưa


12
sự nghiệp dân chủ của cách mạng nước ta vào chiều sâu, thành thể chế kinh

tế, đưa ra cách tiếp cận mới thực tiễn hơn, biện chứng hơn về nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Những thành quả đổi mới mang lại đã góp phần làm thay đổi đời sống
kinh tế, trên cơ sở đó Đảng và nhân dân có điều kiện để nhìn nhận sâu sắc hơn
về các vấn đề dân chủ trong chính trị, trong quản lý nhà nước. Đại hội VII
(1991) Đảng ta thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh nêu lên 5 bài học lớn, đặc biệt là bài học
thứ 2 Đảng ta nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân”[16, tr.123], cho nên, trong mơ hình xã hội XHCN mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Vì vậy, “tồn bộ
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta là nhằm củng cố, hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”[17, tr.142], trong đó, việc xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân,
vì dân, có khối liên minh cơng - nơng - trí là nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo là một nhiệm vụ quan trọng. Nó chính là cơ chế bảo đảm và phát huy cao
nhất quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đại hội VIII (1996), với những thành công từ Đại hội VII, Đảng ta tiếp
tục khẳng định quan điểm:
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực
hiện phương châm dân biết, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân
dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và hình thức tự quản ở cơ
sở [18, tr.43].
Tiến xa hơn, năm 1998 bằng chỉ thị 30/CT - TW và Nghị định 29/CP,
Đảng và chính phủ đã tích cực tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm tịi những
khâu mấu chốt trong sự nghiệp dân chủ hoá đất nước và đã ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là bước đột phá đúng về nhận thức tư tưởng
và tổ chức, về lý luận và thực tiễn.



13
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng(2001), Đại hội trí tuệ,
dân chủ, đồn kết và đổi mới, Đảng ta đã tổng kết tồn bộ q trình lãnh đạo
cách mạng (từ 1930 đến năm 2001), 15 năm đổi mới (1986 - 2001), 10 năm
thực hiện Cương lĩnh Đại hội VII (1991 - 2001). Trên cơ sở đó, Đảng đã khái
quát tư tưởng lớn về những vấn đề của cách mạng Việt Nam; trong đó tư
tưởng coi sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của
nhân dân là động lực chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, thể hiện sự kiên định và quyết tâm tiếp tục phát triển nền dân
chủ XHCN trong tình hình mới. Đảng ta khẳng định: “sự nghiệp đổi mới là vì
lợi ích của nhân dân, do nhân dân thực hiện, do đó, là sự nghiệp của chính
nhân dân”[19, tr.81].
Để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Đại hội đã
đề ra chủ trương củng cố và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở, nhất là vấn
đề thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức của nó; “thực hành dân chủ
thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên
tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc
thực hiện quyền giám sát của dân đối với các tổ chức và cán bộ cơ sở, thay
thế người khơng đủ tín nhiệm”; củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa HTCT
với dân theo phương châm “trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm
với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Như vậy, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ln là nội
dung quan trọng, xun suốt q trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập, thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc đổi mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam và liên tục được phát triển qua các giai đoạn cách mạng. Dân
chủ gắn liền với dân sinh, dân trí. Do vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng nói chung, của cơng cuộc đổi mới nói riêng.

Tóm lại, dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội. Quan niệm về dân
chủ là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, phụ thuộc vào những điều kiện


14
kinh tế, chính trị, xã hội nhất định trong từng giai đoạn cụ thể của lịch sử.
Quan niệm về dân chủ trong lịch sử là hết sức phức tạp, theo các chiều hướng
khác nhau và chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng của các giai cấp khác nhau. Chỉ
có dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thì vấn đề dân chủ mới được đề
cập một cách đầy đủ nhất, bản chất nhất và khoa học nhất. Cũng phải khẳng
định rằng, chỉ có dưới CNXH, thì mới đảm bảo có được một nền dân chủ thực
sự cho nhân dân lao động, dân chủ với ý nghĩa đích thực của nó.
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta ln trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, thường xuyên quan tâm xây dựng và thực hiện một nền dân chủ thực
sự trên thực tiễn đất nước ta. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã
ban hành nhiều chính sách kinh tế và xã hội nhằm khơng ngừng phát huy vai
trị làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực xã hội. Trên thực
tiễn, dân chủ XHCN đã và đang vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Xây dựng và thực hiện dân chủ XHCN trên đất
nước ta hiện nay vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài, vừa là nhu cầu cần thiết và cấp
bách của sự nghiệp cách mạng nước ta, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Quy chế dân chủ ở cơ sở
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là mục tiêu đồng thời là động lực bảo đảm thắng lợi của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khâu quan trọng và cấp bách trong giai
đoạn hiện nay nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện dân chủ trong toàn xã hội, chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở nơi trực tiếp triển khai, thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước - chỉ có thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân mới khơi dậy được tính tích cực, chủ động tự giác của nhân


15
dân tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách ấy. Việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở là xây dựng nền tảng của chế độ chính trị theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chế độ chính trị ở nước ta thực chất là chế độ
dân chủ của nhân dân lao động. Nhân dân lao động làm chủ quyền lực
nhà nước, quyền lực xã hội trước hết và cơ bản là ở cơ sở, từ đó mới có
thể làm chủ quyền lực ở phạm vi rộng rãi hơn. Xây dựng chế độ dân
chủ cơ sở là nền tảng cho xây dựng chế độ dân chủ của tồn bộ hệ
thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 18 tháng 02 năm 1998, Đảng ta mà trực tiếp là bộ chính trị Ban
chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã ra chỉ thị về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về việc xây dựng và thực hiện dân chủ trong xã hội; sự cần
thiết, những nội dung, biện pháp và cách thức cụ thể để các địa phương
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đảng và Nhà nước ta
đã đưa ra cách tiếp cận, sự đánh giá sát đúng tình hình ở cơ sở, thể chế
hố, cụ thể hoá, pháp quy hoá những nội dung, nguyên tắc, phương
châm cho sinh hoạt dân chủ ở địa bàn ở cơ sở. Quy chế dân chủ ở cơ sở
là khâu đột phá đưa sinh hoạt chính trị ở nước ta lên một tầm cao mới,
củng cố và kiến tạo những điều kiện có tính nền tảng cho sự nghiệp dân
chủ hoá ở cơ sở.
Theo Đại từ điển bách khoa Việt Nam, Quy chế là “văn bản nêu các
điều, khoản quy định thành chế độ hoạt động chung của tổ chức, cơ quan đơn
vị trong hệ thống chính trị hoặc trong xã hội để các thành viên có liên quan

thi hành nhằm đảm bảo sự thống nhất hành động, tinh thần kỷ luật, hiệu quả
cơng tác và mục đích cần đạt tới”[20, tr.614].
Quy chế bao giờ cũng gắn với những hoạt động nhất định của một cơ
quan, đơn vị hay tổ chức chính trị xã hội. Quy chế của mỗi tổ chức thường do
chính tổ chức đó soạn thảo và được cơ quan có thẩm quyền chuẩn y thì mới
được thi hành để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật nhà nước và quyền
dân chủ của các thành viên tham gia.


16
Tùy theo đặc điểm, nhiệm vụ, tính chất hoạt động của các tổ chức; tùy
theo mục đích cần đạt tới của hoạt động mà quy chế có thể có nhiều hình thức
biểu hiện khác nhau. Có loại quy chế thể hiện các hoạt động của một tổ chức
một cách toàn diện, lâu dài, có thể bổ sung theo định kỳ; có loại quy chế thể
hiện các hoạt động ngắn hạn của một hoặc nhiều tổ chức có liên quan nhằm
xử lý một công việc nhất định trong một thời gian nhất định. Dù có nhiều hình
thức biểu hiện khác nhau, song mục đích của quy chế là thống nhất nhận thức
và hành động của các thành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
tổ chức để thực hiện tốt mục tiêu xác định.
Quy chế dân chủ bước đầu đã đặt đúng vị trí, vai trị của Đảng, Nhà
nước và các đồn thể nhân dân trong hệ thống chính trị, trong chế độ dân chủ
của đát nước. Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu đã xác định dân chủ ở cơ sở
là ai? Như chúng ta đã biết, con người trong lịch sử nói chung thường khơng
tồn tại một cách đơn lẻ, biệt lập mà liên kết thành cộng đồng: Cộng đồng gia
đình (tế bào của xã hội), cộng đồng dòng họ, cộng đồng giới (phụ nữ, thanh
niên, người cao tuổi, cựu chiến binh); cộng đồng xã hội nghề nghiệp, cộng
đồng về kinh tế và cộng đồng về chính trị. Con người với tư cách là cá nhân,
là công dân thông qua các cộng đồng ấy để hiện thực hố nhân cách của
mình; thực hiện hố quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của mình. Vì vậy,
nói đến “dân” ở cơ sở, chúng ta khơng loại trừ hoặc coi nhẹ tư tưởng cá nhân,

công dân, nhưng trước hết và quan trọng hơn hết là các cộng đồng của họ.
Trong các cộng đồng đó, ngày nay ở nước ta phần lớn đã có tư cách pháp lý
như gia đình, các đồn thể. Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện nước ta
hiện nay, nói đến dân, quan trọng hơn hết và trước hết là nói đến các đồn thể
nhân dân. Nói đến dân làm chủ là nói đến vai trị làm chủ của các đồn thể
nhân dân. Ở cơ sở có dân chủ hay khơng trước hết là phụ thuộc vào vai trị
làm chủ của cá đồn thể nhân dân.
Sau khi có chủ trương của Đảng, các tổ chức, ban ngành có liên quan
và các địa phương đã nhanh chóng xây dựng và triển khai thực hiện những
quy chế cụ thể cho việc thực hiện dân chủ ở từng loại hình cơ sở cụ thể. Đặc


17
biệt là Nhà nước ta đã ban hành và triển khai thực hiện một số QCDC ở các
loại hình cơ sở cụ thể như : Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (11/5/1998); Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (8/9/1998) và Quy chế
thực hiện dân chủ ở các doanh nghiệp nhà nước (13/2/1999). Căn cứ vào
những quy định của Đảng và Chính phủ, các địa phương, đơn vị đã triển khai
xây dựng và thực hiện nhiều loại hình quy chế cụ thể trên những nội dung
hoạt động cụ thể của các tổ chức. Như vậy, QCDC ở cơ sở là hệ thống những
văn bản quy định hoạt động của các tổ chức ở đơn vị cơ sở, nhằm thống nhất
nhận thức và hành động, thực hiện mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên mọi lĩnh, góp phần xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN
trên thực tiễn ở nước ta.
Có thể nói rằng, sự ra đời của QCDC ở cơ sở là một tất yếu khách
quan, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nó phù hợp với
yêu cầu thực tiễn xã hội và phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lao
động trên phạm vi cả nước. Sự ra đời và thực hiện QCDC ở cơ sở đã tao ra
một bước chuyển biến về chất trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đây,
dân chủ khơng cịn là những mệnh đề trừu tượng, những khẩu hiệu trống

rỗng mà là những vấn đề cụ thể: Đảng làm gì? Nhà nước làm gì? đồn thể
nhân dân làm gì? dân làm gì? Dân cần biết, bàn, làm, kiểm tra cái gì? như thế
nào?
Qua thực tiễn chúng ta thấy rằng, chuyện dân chủ đã thành chuyện
hàng ngày, gần gũi, thân thiết, bổ ích như chuyện cơm ăn, nước uống, như
khơng khí để thở. Với Quy chế dân chủ ở cơ sở, có lẽ đây là lần đầu tiên, khái
niệm dân chủ ở nước ta đã biến thành thể chế, thành quy phạm pháp luật.
Quy chế dân chủ cơ sở đã góp phần sàng lọc, đào tạo đội ngũ cán bộ.
Dân chủ cơ sở qua thời gian sẽ tạo ra được cơ chế lựa chọn, tôn vinh những
cán bộ có tâm, có tầm, có trí, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân, loại bỏ được
những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa trong chính quyền cơ sở. Về lâu dài,
điều chỉnh này sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành một quan điểm về
cán bộ đúng hơn, khoa học hơn, dân chủ hơn.


18
Quy chế dân chủ ở cơ sở vì vậy là yếu tố trực tiếp tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền vững mạnh, trong sạch. Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân sẽ là hiện thực ở cơ sở. Khi sinh hoạt chính trị ở cơ sở đã trở thanh
tập quán dân chủ, chúng ta sẽ có chế độ dân chủ ở cơ sở tồn quốc. Đó là
thành trì vững chắc, thành trì lịng dân cho chế độ chính trị. Có thể nói, vì vậy
dân chủ cơ sở có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp dân chủ hố
ở nước ta nói riêng và sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh nói chung. Bên cạnh những thành tựu to lớn kể trên, nền dân
chủ trên đất nước ta hiện nay cũng đang đặt trước những nguy cơ thách thức
không nhỏ, địi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có biện pháp hữu hiệu để khắc
phục. Do quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở của nhiều địa phương
chưa được nghiêm túc và những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
mà ở nhiều nơi trên đất nước ta đang có xu hướng gia tăng về các tệ nạn xã
hội, đặc biệt là tệ nạn tham nhũng đang trở thành một quốc nạn, cản trở sự

nghiệp cách mạng nước ta. Hiệu lực quản lý xã hội của hệ thống chính trị và
năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ ở cơ sở đang có nhiều vấn đề bất cập.
Hiện tượng dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, vơ chính phủ đang xảy ra ở
khơng ít địa phương v.v. Bên cạnh đó, kẻ thù của cách mạng nước ta lại đang
ráo riết dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá. Chúng đang lợi dụng chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền” để móc lối, kích động quần chúng chống lại chủ
trương chính sách của Đảng và nhà nước. Nguy cơ mất ổn định xã hội đang là
vấn đề hiện hữu ở nhiều địa phương. Từ thực trạng đó, việc nâng cao hiệu quả
thực hiện QCDC ở cơ sở trên đất nước ta, trong đó các đơn vị cơ sở trong
Quân đội hiện nay đang được đặt ra như là một nhu cầu vừa trực tiếp, vừa cấp bách.
1.1.2. Thực hiện Quy chế dân chủ ở các đơn vị cơ sở Trường sĩ quan
Lục quân 2 hiện nay.
* Đặc điểm Trường sĩ quan Lục quân 2
Trường sĩ quan Lục quân 2 là một trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy
cấp phân đội của quân đội ta ở khu vực phía Nam. Nhà trường thực hiện
nhiệm vụ do Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trọng tâm


19
là đào tạo sĩ quan bậc đại học quân sự với nhiều chuyên ngành như: binh
chủng hợp thành, trinh sát bộ binh, trinh sát đặc nhiệm, pháo binh, pháo
phịng khơng, đào tạo chuyển loại cán bộ chính trị hồn thiện ở các bậc khác
nhau; với mục tiêu là: “Đào tạo đội ngũ sĩ quan có bản lĩnh chính trị vững
vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng hồn thành mọi nhiệm vụ được
giao; có tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có
phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống mẫu mực; có trình độ kiến thức lý
luận qn sự, chính trị, nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối nghị quyết của Đảng, chấp
hành nghiêm mệnh lệnh, chỉ thị của trên, có hiểu biết về khoa học quân sự

hiện đại và truyền thống chiến đấu của dân tộc và qn đội; có trình độ quản
lý, chỉ huy, huấn luyện bộ đội, quản lý vũ khí trang bị, kinh tế, tài chính, tài
sản của đơn vị… có thể lực tốt. Đào tạo sĩ quan cấp phân đội phải toàn diện
để tạo nguồn cho cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị” [21. tr12].
Thực hiện quy chế thi tuyển của Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào
tạo, học viện được tuyển chọn đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường
SQLQ2 là những quân nhân và thanh niên có chất lượng chính trị, trình độ
học vấn, nhận thức, sức khỏe tốt và đồng đều: 100% học viên là đồn viên,
100% tốt nghiệp phổ thơng trung học, có nhu cầu học tập, rèn luyện để trở
thành đảng viên, sĩ quan phục vụ quân đội lâu dài; có ý thức cầu tiến bộ, phấn
đấu vươn lên.
Trường SQLQ2 có bề dày truyền thống đơn vị anh hùng và nhiều lần
được Nhà nước, quân đội tặng thưởng huân chương và cờ luân lưu các loại.
Được chăm lo bồi dưỡng tồn diện trong mơi trường sư phạm qn sự mẫu
mực, với lực lượng sư phạm đông đảo, thanh niên là học viên đào tạo sĩ quan
chỉ huy cấp phân đội Trường SQLQ2 đã kế tục và phát huy được truyền thống
của nhà trường anh hùng, hăng hái học tập, rèn luyện và cơng tác; có ý thức tổ
chức kỷ luật, tác phong chính quy và nếp sống văn hố; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó mật


20
thiết với nhân dân, vượt qua khó khăn thử thách, đoàn kết phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường. Những đặc điểm nổi bật đó đã
tạo ra rất nhiều thuận lợi cho hoạt động và sinh hoạt của các chi đoàn đại đội
học viên đào tạo SQCHCPĐ Trường SQLQ2.
Cũng như các nhà trường trong quân đội, Trường SQLQ2 một mặt
thường xuyên hoàn thành nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội có
trình độ đại học. Mặt khác, nhà trường cũng phải thường xuyên chấp hành
nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng, hiến pháp và pháp luật của nhà nước,

điều lệnh, điều lệ của quân đội và những quy định của đơn vị, phối hợp với
chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân để giải quyết những
nhiệm vụ được cấp trên giao cho.
* Thực hiện Quy chế dân chủ ở Trường sĩ quan Lục quân 2
Dân chủ là thành quả của q trình đấu tranh của giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động. Nền dân chủ XHCN nước ta là nền dân chủ của dân, do
dân, vì dân; do đó mọi hoạt động của nó phải hướng đến việc bảo vệ lợi ích
thiết thân cho đơng đảo nhân dân lao động. Lợi ích to lớn nhất của nhân dân
là được thể hiện quyền làm chủ thật sự trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: tham gia vào quá trình tổ chức, xây dựng và quản lý đất nước, quản lý xã
hội, bảo vệ thành quả cách mạng và lợi ích của bản thân…
Theo Lênin, để xây dựng một nền dân chủ XHCN trong thực tế,
“không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và sắc lệnh về dân chủ là
đủ, không chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho “những người
đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ”[22, tr.336 - 337], mà
phải “thu hút toàn thể những người lao động, không trừ một ai, tham gia vào
việc quản lý nhà nước”[23, tr.68]. Đó chính là thước đo cho trình độ thực hiện
dân chủ của chế độ XHCN. Hơn nữa, trọng tâm của dân chủ XHCN không
phải ở việc tuyên bố những quyền lợi và tự do cho toàn thể nhân dân, mà là ở
chỗ tạo điều kiện cho nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, giúp họ
“có khả năng thực tiễn thực hiện được quyền tự do (dân chủ)”.
Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định rằng “thực hành dân chủ là chìa khố


21
vạn năng để giải quyết khó khăn”. Theo Người thực hành dân chủ là “đưa mọi
vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”[24, tr.349]. Đây là sự
tổng kết sâu sắc từ thực tiễn cách mạng. Bởi dân chúng là cội nguồn của sức
mạnh, “họ luôn mang trong bản thân mình những lực lượng tiềm tàng to lớn
của cách mạng, của sự phục hưng và của sự đổi mới”[25, tr.349].

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, thành quả cách mạng cũng là
của nhân dân. Do vậy, sau khi giành thắng lợi, nhân dân phải được hưởng
thành quả ấy, nghĩa là quần chúng nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia
các quá trình tổ chức, xây dựng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chỉ có
thơng qua nhà nước, được sự giúp đỡ của nhà nước, nhân dân lao động mới
có thể thực hiện được điều đó. Chính quyền nhà nước XHCN có nhiệm vụ
“làm cho những người lao động và những người bị bóc lột co thể được hưởng
tất cả những phúc lợi của nền văn hoá, văn minh và dân chủ”[26, tr.116]. Nhà
nước “phải bắt tay ngay vào việc làm cho tất cả những người lao động, tất cả
những công dân nghèo đều tham gia học quản lý nhà nước”[27, tr.414]. Nhà
nước XHCN là nhà nước của dân, công cụ quyền lực phục vụ hoạt động tự
do, làm chủ của mọi người dân, nên không phải chỉ biết lo cho dân từ bên
trên, mà phải biết “tập hợp quần chúng công nông”, “lôi cuốn”họ cùng tham
gia công việc tổ chức, xây dựng và quản lý xã hội để khắc phục tình trạng
“quan chủ”, chống tham nhũng, lãng phí, lạm dụng quyền lực… Vì vậy, việc
tập hợp, lơi cuốn quần chúng tham gia “làm chủ” phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng để bảo đảm tính thống nhất, tức là phải gắn dân chủ với tập trung,
dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế,…
Ở Trường SQLQ2, các tiểu đoàn, đại đội, các ban là nơi trực tiếp thực
hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của đảng
uỷ các cấp, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội và nhà trường, là
nơi cần thực hiện quyền làm chủ của cán bộ, học viên, chiến sĩ, công nhân
viên, quân nhân chuyên nghiệp một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Tuy là cấp
thấp, nhưng lại là cấp gần gũi với quần chúng nhất, tiếp nhận và trực tiếp triển
khai thực hiện nghị quyết của đảng uỷ các cấp, cũng như các chế độ quy định


22
của quân đội, nhà trường; đồng thời theo dõi, giám sát, kiểm tra việc quần
chúng chấp hành các chế độ nề nếp quy định. Đây là nơi cán bộ, học viên,

chiến sĩ, công nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp thể hiện vai trị làm chủ
của mình.
Ngay sau khi có Quy chế dân chủ ở cơ sở được ban hành, thực hiện chỉ
thị của Bộ trưởng Bộ quốc phòng; quy định, chỉ thị của hiệu trưởng Trường
SQLQ2, hướng dẫn của phòng chính trị Trường SQLQ2, các đơn vị trong nhà
trường đã tổ chức triển khai quán triệt một cách sâu sắc đến tồn thể cán bộ,
học viên, chiến sĩ, cơng nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp trong nhà trường
về nhiệm vụ xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở Trường SQLQ2 với
mục đích là thực hiện dân chủ, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của cán
bộ, học viên, chiến sĩ, công nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp trên tất cả
các lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn
vị, xây dựng Trường SQLQ2 thành đơn vị vững mạnh tồn diện.
Q trình thực hiện QCDC ở cơ sở Trường SQLQ2 là quá trình cụ thể
hố những nội dung quy định trong QCDC ở cơ sở, là cho những nội dung
quy định đó được thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn hoạt động của đơn vị.
Có thể quan niệm rằng: Thực hiện QCDC ở các đơn vị cơ sở Trường SQLQ2
hiện nay là tổng thể hoạt động có mục đích, có tổ chức của cán bộ, học viên,
chiến sĩ, công nhân viên, quân nhân chun nghiệp trong tồn trường, với
những hình thức hoạt động phong phú và biện pháp thực hiện cụ thể, nhằm
hiện thực hoá những nội dung, yêu cầu đã được quy định trong QCDC ở cơ
sở, thực hiện và phát huy vai trò làm chủ của cán bộ, học viên, chiến sĩ, công
nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao.
Xây dựng và thực hiện QCDC là một nội dung quan trọng trong xây
dựng nhà trường vững mạnh toàn diện. Chủ thể của quá trình lãnh đạo xây
dựng và thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 được xác định là cấp uỷ và tổ
chức đảng các trong toàn nhà trường. Cấp uỷ và tổ chức đảng là nơi đề ra chủ



23
trương, biện pháp xây dựng và thực hiện QCDC và lãnh đạo đơn vị thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ thực hiện QCDC. Chủ thể chỉ đạo thực hiện QCDC là
Phòng chính trị và cán bộ chính trị các cấp về tổ chức, chỉ đạo hoạt động xây
dựng và thực hiện QCDC ở nhà trường. Chủ thể thực hiện QCDC là mọi cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp trong toàn
trường. Mọi cán bộ, đảng viên, các thành viên, các tổ chức trong toàn trường
đều phải tiến hành xây dựng và thực hiện QCDC theo phạm vi, chức trách của
bản thân. Các tổ chức trong nhà trường, từ tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy
đến các tổ chức quần chúng đều phải trên cơ sở quán triệt mục đính, yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng và thực hiện QCDC của nhà trường gắn với phạm vi, chức
trách, nhiệm vụ của tổ chức mình để xác định những nội dung, hình thức, tổ
chức hoạt động phù hợp, góp phần tích cực, hiệu quả hồn thành tốt nhiệm vụ
thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2.
Quy chế thực hiện dân chủ ở Trường SQLQ2 đã tạo ra được một
phong trào chính trị - xã hội rộng lớn tác động sâu sắc tới việc thực hiện
nhiệm vụ của đơn vị. Quy chế đã đáp ứng được nguyện vọng của toàn thể
quân nhân về quyền làm chủ của mình, mở ra một cuộc vận động thực
hiện dân chủ hoá cơ sở.
Thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 là hoạt động được triển khai trên
tất cả các lĩnh vực hoạt động như: quân sự, chính trị, kinh tế, và bảo đảm đời
sống nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, thực hiện tốt
nhiệm vị chính trị trung tâm của các tổ chức và cá nhân trong từng giai đoạn
cụ thể.
Thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 là một quá trình, được tiến hành
theo trình tự các khâu, các bước được quy định trong chỉ thị 30/CT/TW của
Bộ chính trị (18/2/1998) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; chỉ thị số
97/CT - ĐUQSTW của Đảng uỷ quân sự trung ương (4/5/1998) về lãnh đạo
thực hiện QCDC ở cơ sở trong quân đội; quyết định số 48/1998/QĐ - BQP
(7/4/1998) và hướng dẫn của Tổng cục chính trị số 286/HD-CT (28/5/1998)

về việc tổ chức và hoạt động của Hội đồng quân nhân ở cơ sở trong Quân đội


24
nhân dân Việt Nam. Cụ thể là :
Các dơn vị trong toàn trường tổ chức quán triệt các chỉ thị, quyết định,
hướng dẫn của trên về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở trong quân
đội nhân dân Việt Nam. làm cho mọi cán bộ, học viên, chiến sĩ, công nhân
viên, quân nhân chuyên nghiệp và các tổ chức có liên quan nhận thức sâu sắc
về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 .
Từ đó xác định rõ động cơ, trách nhiệm, ý thức tích cực, chủ động của bản thân
trong thực hiện nhiệm vụ của đơn vị nói chung, trong thực hiện những nội dung
đã được quy định trong QCDC ở đơn vị cơ sở trong quân đội nói riêng.
Tổ chức thảo luận, bàn bạc nhằm cụ thể hoá nội dung QCDC ở đơn vị
cơ sở trong quân đội thành những quy chế, quy định cụ thể phù hợp với đặc
điểm nhiệm vụ và hoạt động của từng đơn vị, từng mặt công tác như : Quy
chế làm việc của cấp uỷ các cấp; Quy chế hoạt động của đội ngũ cán bộ chính
trị; Quy trình sinh hoạt của các chi bộ đơn vị học viên; Quy chế hoạt động của
Hội đồng quân nhân và các tổ chức quần chúng khác; Quy định về nề nếp báo
cáo chính trị v.v. Quá trình xây dựng các quy chế, quy định, Đảng uỷ các tiểu
đoàn, các cấp uỷ đảng và lãnh đạo, chỉ huy các tổ chức phải tuân thủ nghiêm
ngặt trình tự các bước tiến hành đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi
với phân công cá nhân phụ trách. Một mặt tranh thủ sức mạnh và sự sáng tạo
của tập thể, đảm bảo dân chủ giữa các thành viên, đồng thời phải ln giữ
vững vai trị lãnh đạo của các tổ chức đảng, sự quản lý, tổ chức thực hiện của
hệ thống chỉ huy đơn vị. Mặt khác, phải thực hiện nghiêm túc những yêu cầu,
nội dung, quan điểm, phương hướng chỉ đạo quá trình thực hiện dân chủ đã
được quy định trong QCDC ở các đơn vị cơ sở trong quân đội, không được
đưa ra những quy định, quy chế trái với nội dung quy định của trên. Lãnh đạo,
chỉ huy các cấp tiến hành rà sốt và tổ chức thành lập, kiện tồn các thiết chế

dân chủ cần thiết như : Tổ chức hội đồng quân nhân, các uỷ ban kiểm tra các
cấp, các tổ chức quần chúng ở các đơn vị học viên, các tổ kiểm tra kinh tế
công khai, các tổ, đội công tác chuyên ngành chuyên môn kỹ thuật v.v.
Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị trong toàn trường phải thường xuyên theo


25
dõi quá trình thực hiện dân chủ của của các tổ chức, tiến hành các hoạt động
sơ, tổng kết rút kinh nghiệm quá trình thực hiện QCDC, kịp thời bổ sung
những nội dung, biện pháp cần thiết, bãi bỏ những nội dung, quy định không
phù hợp để QCDC thực sự là cơ sở nền tảng để phát huy được mọi tiềm năng
của tập thể, khơi dậy tính tích cực, sáng tạo của mọi cán bộ, học viên, chiến
sĩ, công nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp trong xây dựng Trường SQLQ2
vững mạnh tồn diện, ln hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 đã tạo được sự chuyển biến tích
cực trên các lĩnh vực hoạt động như: quân sự, chính trị, kinh tế và bảo đảm
đời sống nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm của các tổ chức và cá nhân trong từng giai
đoạn cụ thể.
Thực hiện QCDC ở Trường SQLQ2 đã góp phần tạo sự chuyển biến
tích cực trong phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, chỉ huy với tinh thần
hướng về cơ sở; hạn chế mức thấp nhất đối với những hiện tượng vi phạm dân
chủ của đội ngũ cán bộ, chỉ huy trong đơn vị. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ, chỉ
huy không ngừng được bổ sung, chọn lọc qua phong trào thực tiễn ở đơn vị
và bằng một cơ chế dân chủ do chính cán bộ, học viên, chiến sĩ, công nhân
viên, quân nhân chuyên nghiệp đảm nhiệm. Quá trình thực hiện QCDC ở các
đơn vị trong tồn trường đã tác động tích cực đến việc củng cố, đổi mới, nâng
cao chất lượng hệ thống lãnh đạo, chỉ huy trong tồn đơn vị. Vai trị hạt nhân
lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng ở Trường SQLQ2 đối với chính quyền và
các tổ chức quần chúng được nâng lên; đưa hoạt động của các cấp uỷ Đảng,

chỉ huy dần đi vào nề nếp, đúng điều lệnh, điều lệ quân đội và những quy
định của đơn vị; khắc phục được tình trạng lấn sân, làm việc tuỳ tiện; cải tiến
sự chỉ đạo, quản lý điều hành của hệ thống chỉ huy trong đơn vị. Các tổ chức
quần chúng được củng cố, kiện toàn và ngày càng đi vào hoạt động có chiều
sâu mang lại hiệu quả thiết thực.
Thực hiện QCDC là một trong những nhiệm vụ chính trị, đồng thời nó
lại tác động mạnh mẽ, là động lực to lớn thức đẩy quá trình thực hiện các


×