ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***--------
TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Đỗ Quang Anh
Mã sinh viên: 1911150007
Lớp: Anh 06 – Khối 2 - CLC Kinh tế
Khóa: 58
Lớp tín chỉ: KTEE301.2
Giáo viên hướng dẫn: TS. Hoàng Hải
Hà Nội, tháng 6 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU··························································3
NỘI DUNG..................................................................................4
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN...........4
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận............4
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận.....................4
3. Học thuyết của Mác-Lênin.......................................................6
II. VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN.............................................11
1. Lợi nhuận trong nền kinh tế....................................................11
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam...............17
KẾT LUẬN ...............................................................................22
2
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986, Việt Nam chuyển cơ chế kinh tế từ kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự chuyển đổi sang cơ chế thị
trường một loạt những phạm trù mới xuất hiện khác hẳn với nền kinh tế tập
trung bao cấp trước đây đặc biệt là vấn đề lợi nhuận. Chúng ta đã một thời
coi lợi nhuận là một cái gì đó xấu xa, là một phạm trù hoàn toàn xa lạ với
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nước ta đang vận hành nền kinh tế
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của Nhà nước thì lợi nhuận là
vấn đề trung tâm. Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân khi bắt tay vào sản
xuất kinh doanh đều muốn thu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục đích của mọi
ngành nghề, mọi nhà kinh doanh. Lợi nhuận là phần thưởng cho sự lao
động, sáng tạo, năng động của con người trong qúa trình sản xuất kinh
doanh. Lợi nhuận có vai trị vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế hiện nay.
Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải nắm rõ nguồn gốc, bản chất của các yếu tố
đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế hiện nay, đặc biệt là lợi nhuận.
Xuất phát từ mục đích trên, em xin phép chọn đề tài: “Lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Vì thời gian hồn thành có
hạn cũng như vốn hiểu biết cịn nơng cạn và ít ỏi của mình, bài tiểu luận
của em khó tránh khỏi những sai sót và khuyết điểm cịn phải sửa đổi và bổ
sung. Vì vậy em rất mong và trân trọng mọi ý kiến đóng góp của thầy để từ
đó em có thể củng cố được vốn hiểu biết của mình. Em xin chân thành cảm
ơn thầy!
3
NỘI DUNG
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế
phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt
đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa
tư bản vào thời kỳ đầu tư bản vào thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển
rộng rãi ở các nước Tây âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến quy luật kinh
tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận
kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa
ra quan điểm sự giàu có khơng phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền.
Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hố thị trường là lợi nhuận. “Học
thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông
mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ
bán đắt mà có”. Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu
quan hệ giữa lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ. Vì đó ở giai đoạn đầu
của thời kỳ này, các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải
tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền khơng ra nước ngồi, tập trung bn bán để
nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài tập trung bn
bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết hàng hoá mang về nước họ, ở giai
đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có thêm chênh lệch, mang tiền ra
nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt.
Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được lợi ích như trên của các
nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nơng cạn. Chứng tỏ quan điểm về
lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có “chiều sâu” thực chất. Chính điều này
đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế. Địi hỏi phải thốt khỏi
phương pháp kinh nghiệm thuần tuý. Phải phân tích kinh tế xã hội với tư
cách là một chỉnh thể.
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận.
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ
yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Các nhà kinh tế học của trường phái này
lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
sản xuất. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật
của nền kinh tế thị trường như phạm trù lợi nhuận, địa tô, lợi tức... trong đó
có một số quan điểm về lợi nhuận, nổi bật là quan điểm của Kene, A.D
Smith, Ricacdo.
4
a. Quan điểm của Kene.
Kene được C. Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển
và ơng có cơng lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho
việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ
thặng dư sau này. Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê
phán chủ nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn
thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang
giá cả. Hai bên khơng có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp
không thể đẻ ra tiền được. Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do
tiết kiệm các khoản chi phí về thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong
việc sản xuất nơng nghiệp. Chính quan điểm này đã chuyển việc nghiên
cứu của cải từ lĩnh vực lưu thơng sang lĩnh vực sản xuất. Ngồi ra ơng cịn
có lý luận về sản phẩm thặng dư. Ơng cho rằng sản phẩm thặng dư chỉ
được tạo ra sản xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa
bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ có
được sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông
cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Ơng
cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa
thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra.
b. Quan điểm của A.D.Smith
Ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của
người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả
công của cơng nhân. Ơng chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà
nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ của nó để được sử
dụng tư bản. Ơng đã nhìn thấy xu hướng bình qn hố tỉ suất lợi nhuận và
xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hố do người cơng nhân tạo ra.
A.D.Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận được một phần tiền
lương, phần cịn lại là địa tơ và lợi nhuân tư bản .Theo ông địa tô cộng với
lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất bằng tiền tô. Điều này tiến bộ hơn các học
thuyết trước đây. Tuy nhiên ơng cịn cho rằng sở dĩ nơng nghiệp có địa tơ,
vì lao đơng nơng nghiệp có năng suất lao động cao hơn công nghiệp và ông
phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ơng cho rằng nếu thừa nhận địa tơ tuyệt đối là vi
phạm qui luật giá trị.
c. Quan điểm của Ricacdo:
Nếu như A.D.Smith sống trong thời kì cơng trường thủ cơng phát triển
mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kì cách mạng cơng nghiệp. Đó
5
là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.D.Smith
dừng lại. Ông là người kế tục xuất sắc của A.D.Smith. Theo C.mác,
A.D.Smith là nhà kinh tế của thời kì cơng trường thủ cơng cịn Ricacdo là
nhà tư tưởng của thời đại cách mạng cơng nghiệp. Ơng sử dụng phương
pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp
dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy
diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.
Về lợi nhuận, Ricacdo cho rằng: “Lợi nhuận là số cịn lại ngồi tiền
lương mà nha tư bản trả cho cơng nhân”. Ơng đã thấy xu hướng giảm sút tỉ
suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận
động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ, cơng nhân và nhà tư bản.
Ơng cho rằng quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm
tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tơ tăng lên cịn lợi nhuận
khơng tăng. Như vậy, theo ơng, địa chủ là người có lợi, cơng nhân khơng
có lợi cũng khơng bị hại, cịn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm
xuống. Nhưng hạn chế của ông là không phân biệt thặng dư.
3. Học thuyết của Mác-Lênin
a. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Theo Mác sở dĩ hàng hố có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị
lao động vì lao động sản xuất hàng hố có tính hai mặt là lao động cụ thể
và lao động trừu tượng. Ông cho rằng lao động cụ thể là lao động hao phí
dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chun mơn nhất định, có
mục đích riêng, đối tượng riêng thao tác riêng phương tiện riêng và kết quả
riêng. Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hố. Lao
đơng cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng nhiều loại. Tất cả các
lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng
chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không
thể thiếu được trong mọi điều kiện của xã hội.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt
của con người. Nhưng bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa
phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hố mới có
sự cần thiết khách quan phải qui các loại lao động cụ thể khác nhau vốn
không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể
so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu
tượng. Vì vậy lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu
tượng tạo ra giá trị hành hoá là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng
nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
6
Trong nền sản xuất hàng hố giản đơn, tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và
lao động xã hội của những người sản xuất hàng hố. Đó là mâu thuẫn cơ
bản của sản xuất hàng hố giản đơn. Mâu thuẫn này cịn biểu hiện ở lao
động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng
hố. “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt
để hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự phát triển vượt bậc so với các
học thuyết kinh tế cổ đại.
Mác và Ăngghen cũng là những người đầu tiên đã xây dựng nên lý
luận về giá trị thặng dư một cách hồn chỉnh, vì vậy lý luận giá trị thặng dư
được xem là hòn đá tảng to lớn nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của
Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản
thì ngày càng giàu thêm cịn giai cấp vơ sản thì ngày càng nghèo khổ và
ơng đã đi tìm hiểu ngun nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng
ơng phát hiện ra rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T vào q trình
sản xuất và lưu thơng hàng hố thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta
gọi là T’ (T’ > T) hay T’= T+ ΔT. C.Mác gọi ΔT là giá trị thặng dư. Ơng
cũng thấy rằng mục đích của lưu thơng tiền tệ với tư cách là tư bản không
phải trả giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự
lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động của T-H-T’ là khơng có giới
hạn. Công thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “Tư bản không thể xuất hiện từ
lưu thông và cũng khơng thể xuất hiện ở người lưu thơng. Nó phải xuất
hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thơng”. Đây chính
là mâu thuẫn chung của cơng thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này
Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá-sức lao động. Q
trình sản xuất ra hàng hố và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
giá trị sức lao động. Như vậy, quá trình sản xuất ra tư bản là quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Phần lớn giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng
giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Với giá trị thặng dư (m) là
phần giá trị mới dôi ra ngồi giá trị sức lao động do cơng nhân tạo ra và bị
nhà đầu tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột cơng nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất của tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra làm hai bộ phận : tư bản bất
biến và tư bản khả biến.
7
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được
bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng
trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và ký hiệu là
(c). Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong
quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và ký hiệu
là (v).
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có
một tư bản khả biến đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và
qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng
để mua sức lao động. Cịn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo
ra giá trị thặng dư. Từ đây, ta có kết luận: “Giá trị của một hàng hố bằng
giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với giá trị của tư bản khả
biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra).
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch
rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân làm
thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản (tư bản đã bóc lột một phần
giá trị mới do cơng nhân tạo ra). Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua
quá trình:
Giá trị = c+v+m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho
người công nhân): v
M = m’.V =
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v+m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c+v. Nhưng
giá trị mà tư bản thu vào là c+v+m. Phần “m” dôi ra là phần mà tư bản bóc
lột của người cơng nhân.
Nhà tư bản ln tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều
thủ đoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử
dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối, sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối. Ngồi ra cịn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu
ngạch.
Mác đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ nghĩa tư bản, khi
kỹ thuật còn thấp hay tiến bộ chậm thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối
bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao
động cần thiết không thay đổi. Nhưng phương pháp này cịn có hạn chế về
8
thời gian, về thể chất và tinh thần người công nhân. Sự bóc lột này đã dẫn
đến nhiều cuộc bãi cơng, đấu tranh của các nghiệp đồn. Mặt khác, đến giai
đoạn phát triển cao có thể làm cho năng suất lao động để tăng giá trị thặng
dư và nâng cao trình độ bóc lột. Nhà tư bản sản xuất ngày càng giá trị thặng
dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó kéo dài tương ứng
thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động khơng
đổi. Phương pháp này khơng có giới hạn. Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày
nay đang tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới vào, nâng cao tay
nghề công nhân tạo điều kiện về tinh thần tốt để tạo ra năng suất lao động,
cá biệt lớn hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dơi ra
ngồi giá i cả hệ
thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho
các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa
với việc tăng lợi nhuận.
Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực
lượng lao động hợp lý, cân đối trong nền kinh tế tốt để khai thác tốt nguồn
tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân
người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao
động. Tất cả những vấn đề đặt ra trên đều từ lợi nhuận và chính nó đã thúc
đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc
làm ít hưởng ít, làm nhiều hưởng nhiều. Nhưng cùng với sự phát triển của
kinh tế thì ngồi phân phối theo lao động cịn có sự phân phối ngồi thù lao
lao động thơng qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội... Trong thời q độ
hiện nay ở nước ta cịn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản
dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn...
Không chỉ vậy, P còn làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế
hàng hoá sang kinh tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử, nền
kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu đến
hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hố rồi
đến kinh tế thị trường q trình này phát triển song song với mục đích thu
được lợi nhuận ngày càng cao. Nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc
sống. Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên đó là nền kinh tế tự cung tự cấp, sản
phẩm lao động sản xuất ra dều thoã mãn nhu cầu con người thì ln phát
triển và q trình phát triển ln hướng tới những gì phù hợp hơn. Họ
khơng chỉ muốn có những cái mà họ làm ra mà cịn muốn những cái mà
người khác có, họ khơng chỉ muốn các sản phẩm vừa đủ mà cịn muốn có
dư để dự trữ điều đó dẫn đến q trình trao đổi sản phẩm đơn thuần diễn ra.
Cùng với những nhược điểm của nó con người ta đã qua q trình quy đổi
và cuối cùng quá trình mua bán với đồng tiền chung được quy định. Kinh
tế hàng hoá xuất hiện. Với nền sản xuất hàng hoá sản phẩm sản xuất ra để
bán trên thị trường mọi người được tự do buôn bán trên thị trường, thị
trường được mở rộng ngày càng nhiều. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của
sản xuất hàng hố là phân cơng lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế
13
giữa những người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán
diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh tế ln tìm kiếm và năng động hơn trong
hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông, lợi nhuận đã làm cho họ
cố gắng đạt được bằng nhiều hình thức khác nhau. Cùng một lúc mà có
nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ lại trở nên rất cần thiết.
Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi
nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong q trình hoạt động sẽ làm
gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ sẽ khơng cịn nữa. Chính
điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lý
vi mô của Nhà nước. Với sự phát triển phong phú của thị trường thì Nhà
nước khơng thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vĩ mô. Nhưng nhà
nước phải quản lý ở tầm vĩ mơ vì cũng do P mà các nhà kinh tế có thể bất
chấp các thủ đoạn dẫn đến sự mất an toàn cho những nhà kinh doanh với
nhau, sự bất ổn định về mặt chính trị và xã hội. Nhà nước cần đưa ra các
chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để xử lý những tranh chấp
trong kinh doanh và những vi phạm luật kinh tế. Tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các nhà kinh tế, tạo điều kiện cho họ thu được lợi
nhuận ngày càng nhiều. Với nền kinh tế thị trường như trên sẽ thúc đẩy nền
kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ.
c. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội.
Để hiểu được vai trị của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội ta
cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì? Như ta đã
biết, muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hố thì phải có nhiều
vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với
tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái
kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng.
Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần
của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra làm thành vốn phụ
thêm để mở rộng sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản
phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ
tăng cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất
yếu) và thực hiện được trong q trình lưu thơng. Sự tích luỹ này do các
chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất hoặc tư nhân hoặc Nhà nước tiến hành.
Như vậy dù ở dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá
14
trị thặng dư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trị quyết định cho q trình
tái sản xuất xã hội.
d. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế.
Lợi nhuận là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường.
Nó thúc đẩy q trình mở rộng trao đổi hàng hoá và khoa học kỹ thuật. Mở
cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy
lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ
trong nước, cấu thành ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động
quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc
lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
e. Vai trị của lợi nhuận đối với mọi mặt đời sống xã hội.
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu
khách quan trong quá quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục
đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự cân bằng xã hội giữa
mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngồi những người có sức đang làm
việc và được trả cơng theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng
góp vào q trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã
hội cịn có những người vì lẽ này lẽ khách khơng thể tham gia lao động
được trả công của xã hội. Đời sống số đơng người này là do gia đình này
họ hoặc xã hội bảo đảm. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, công nhân
viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần
kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà cịn dựa vào các
quỹ phúc lợi cơng cộng của nhà nước, của xí nghiệp và các tổ chức kinh tế
xã hội khác. áp dụng hình thức phân phối ngồi thù lao lao động, thông qua
các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động nhưng
cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản mà Mác đã dự đốn. Đây là một hình thức phân phối quá độ
phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho
tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà cịn
có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi
thành viên trong xã hội.
Ở một số nước phát triển, Nhà nước có chú ý đến tiền lương, trợ cấp
thất nghiệp phúc lợi xã hội, nhất là các nước Châu âu đặc biệt là ở Thuỵ Sĩ
và Pháp ... quy định mức lương tối thiểu. Khi nền kinh tế phát triển là nền
tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục... bởi vì với sự phát
triển mạnh như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện nay. Quốc phòng trang
bị bằng những vũ khí hiện đại tối tân (có nhiều nước có vũ khí hạt nhân).
15
Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải
có sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng, nghiên cứu trong
quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao trong ta sẽ có điều kiện đầu tư
để phát triển nhân tố con người cả mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay hệ
thống giáo dục nước ta chưa được trang bị đầu tư nhiều, điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến vấn đề thực hành và áp dụng ngồi thực tế dẫn đến tình
trạng sinh viên ra trường kém năng động, không sử dụng được kiến thức
của mình vào cuộc sống và cơng việc một cách sáng tạo.
f. Những biện pháp, các thủ đoạn để thu lợi nhuận
Để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với
nhau trên thị trường bất kể nội bộ ngành hay giữa các ngành như chúng ta
đã trình bày ở trên. Ngoài ra khi sự cạnh tranh tiến lên một mức cao hơn thì
họ cạnh tranh nhau trong khâu sản xuất công nghệ và trong khâu tiêu thụ.
Về khái niệm cạnh tranh, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa
các ngành chúng ta đã có dịp đề cập đến trong phần tỉ suất lợi nhuận bình
quân. ở đây chúng ta chỉ nêu ra biện pháp cạnh tranh ở từng loại và kết quả
đạt được của nó.
Đối với các quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm thu lợi
nhuận siêu ngạch các nhà sản xuất đã phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu
tạo hữu cơ tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt
của hàng hố xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận
siêu ngạch. Kết quả của cạnh tranh là hình thành lên giá trị xã hội của từng
loại hàng hoá. Cạnh tranh giữa các ngành sử dụng biện pháp tự do di
chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dẫn đến hình thành dần tỉ suất
lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá trị sản xuất.
i. Hậu quả do theo đuổi lợi nhuận gây ra
Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mơ
sản xuất và tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung
sản xuất do đó ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự
cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản cịn tư bản lớn
thì càng mạnh hơn. Khi sự tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một
mức độ cao sẽ hình thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền
càng phát triển thì lợi nhuận của độc quyền ngày càng nhiều, nhưng hậu
quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại trút xuống đầu giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp càng trở nên sâu sắc.
Nếu đứng trên tầng vĩ mô ta thấy rằng vào cuối thế kỷ XIX các nước
tư bản đã tích luỹ được trọng lượng tương đối lớn “tư bản thừa” số này đầu
16
tư trong nước thì lợi nhuận thấp. Vì thế nó có nhu cầu xuất khẩu tư bản tới
các nước lạc hậu về kinh tế đang cần vốn đầu tư hay một số nước khá phát
triển như cần trang thiết bị mới để nâng cao năng suất lao động, nâng cao
lợi nhuận.
Nhìn chung cả hai phía do mục tiêu về lợi nhuận đã dẫn đến quá trình
xuất khẩu tư bản diễn ra gây hậu quả lớn cho cả hai bên. Ở nước xuất khẩu
tư bản các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận lớn nhưng nền kinh tế các
nước này bị giảm tốc độ phát triển vì sự cạnh tranh trong việc xuất khẩu tư
bản đã tác động xấu tới nền kinh tế các nước này làm tăng sự phân hố giàu
nghèo. Cịn ở các nước nhập khẩu tư bản, giai cấp vơ sản và nhân dân lao
động bị bóc lột nặng nề hơn trước vì tư bản nước ngồi bóc lột tinh vi vì sử
dụng kỹ thuật mới. Chúng ta có thể lấy ra một ví dụ về sự tiết kiệm các
điều kiện lao động làm thiệt hại đến công nhân. Ngành than mỏ không chịu
bỏ ra những khoản tiền cần thiết nhất. Vì có sự cạnh tranh của các chủ mỏ
than nên ngoài những khoản tối cần thiết để tạm thời giải quyết những khó
khăn về thể chất rõ ràng người ta khơng chi những món gì khác. Và có sự
cạnh tranh giữa các cơng nhân mỏ mà số lượng thường là quá thừa nên
những người này phải bằng lòng chịu những nguy hiểm rất lớn và đồng ý
lao động trong những điều kiện có hại cho sức khoẻ với những đồng lương
cũng khơng cao gì.
Hai sự cạnh tranh đó đủ để làm cho một phần lớn các hầm mỏ được
trang bị bằng những hệ thống rầm nước và thông hơi tồi tệ nhất, thường là
xây tồi, hệ thống chống xấu, thợ máy kém, các đường hầm và hệ thống
đường gng xây dựng khơng tốt, huỷ hoại sức khoẻ và nguy hiểm đến tính
mạng bởi những vụ sập hầm thường gây thương tích rất lớn. Ngồi ra các
nước nhập tư bản còn bị phụ thuộc chặt chẽ vào các nước đế quốc.
Đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần
các ngành nghề cổ truyền, làm lung lay các truyền thống văn hố có từ lâu
đời. Dẫn đến tình trạng thất nghiệp, lạm phát ngày càng tăng, ảnh hưởng
đến an ninh chính trị quốc gia. Sự phát triển của công nghiệp cùng với
những cặn bã của nó đang làm ơ nhiễm bầu khơng khí, ô nhiễm môi trường
sống... Sự ô nhiễm mỗi trường đang là một vấn đề nhức nhối cấp thiết của
các quốc gia. Nếu chúng ta không ngăn chặn, đưa ra những biện pháp kịp
thời thì thế giới sẽ khơng cịn sự sống.
Bên cạnh đó, cũng vì lợi nhuận mà làm nảy sinh các hành vi tiêu cực
khác của xã hội như tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng cũng
ngày càng phát triển trong tất cả các cấp các ngành. Các tệ nạn xã hội như
17
mại dâm, ma tuý, bạo lực cũng mọc ra ở khắp nơi... Nhìn chung có rất
nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự sáng suốt của các nhà hoạch định chính
sách làm sao cho phù hợp nhất.
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
a.Chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới ở Việt Nam.
Cải cách kinh tế được chính phủ Việt Nam khởi xướng vào năm 1986
và đã đem lại một số thành tựu đáng khích lệ. Dù vậy thất nghiệp, lạm phát
và khó khăn trong việc đạt đến thế cân bằng mới trong thương mại quốc tế
vẫn đang là vấn đề cần quan tâm.
Trước năm 1986 nền kinh tế nhà nước là nền kinh tế chỉ huy, ở đó nhà
nước kiểm sốt hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực
hiện được Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối
hàng hoá, dịch vụ sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt lợi
nhuận độc quyền, mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó được chuyển vào ngân
sách Nhà nước qua doanh thu như một thứ thuế ẩn ngầm. Về phía mình,
các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ
vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thơng qua hàng
hố và dịch vụ do Nhà nước cấp. Trong hệ thống “phân phối và phân phối
lại” này sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được
xác định thơng qua thị trường mà dựa trên hệ thống định mức, đánh giá sự
cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của nó
trong hệ thống “phân phối và phân phối lại”. Điều đáng nói là hệ thống
“phân phối và phân phối lại” là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy ở
mức độ “tập trung hố” càng cao thì hệ thống đó càng phình ra. Có nhiều
doanh nghiệp lớn mà sản phẩm của nó khơng đáp ứng đủ nhu cầu của
người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại
trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại của khu vực vơ hình
ngăn cản mọi nỗ lực gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan
hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát
như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng bất lợi của hệ thống “phân
phối-phân phối lại” làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của dân cư.
Tuy nhiên, cải cách tự phát không thể khắc phục được một loạt các
yếu điểm chẳng hạn như sự mở rộng các loại thị trường nơi mà giá cao hơn
nhiều lần giá chính thức. Điều đó thúc đẩy gia tăng nạn tham nhũng, bn
lậu dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách. Sự mất mát đối với vĩ mơ càng
nặng nề hơn vì các doanh nghiệp và hộ gia đình đổ xơ vào đầu tư vàng và
18
ngoại tệ mạnh. Kết quả là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa và mất cân đối
với nền kinh tế tự nó đi chệch khỏi trạng thái cân bằng và ngày càng lao
sâu vào khủng hoảng. Đó chính là điều xảy ra với Việt Nam năm 1985. Khi
tình hình kinh tế xấu đi đã buộc chính phủ phải tiến hành cuộc cải cách đổi
thời “giá-lương tiền” nhằm ổn định lại nền kinh tế.
Do những hậu quả mà cơ chế kế hoạch hoá tập trung để lại cho nền
kinh tế Việt Nam, do xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường
trên thế giới, do tính năng động của cơ chế thị trường, tất cả những yếu tố
đó trở thành yếu tố khách quan của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam.
Cải cách kinh tế Việt Nam nămg1986 đã đem lại một số thành tựu đáng
khích lệ như: Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính năng động của nền
kinh tế, xố bỏ tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu phát huy được
nội lực, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Từng bước thực hiện q trình mang tính quy luật của bước chuyển
đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều
tiết vĩ mơ của Nhà nước. Với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là
nhân tố trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực.
Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu
một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hố được lưu thơng trong suốt,
cung cầu được cân đối, thốt khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn
định dần, lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải
phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ kinh tế và chủ doanh
nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước cũng đạt được sự giải
phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ
chế này cũng đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo
lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu. Với sự
thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của nền kinh tế nhiều thành
phần. Cơ chế thị trường nước ta còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự
phát, rối loạn, sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng
và cơ bản là sản xuất nhỏ, của sự yếu kém của bộ máy Nhà nước, tình trạng
quan liêu, thiếu hiểu biết thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển
đổi kinh tế.
Trước hết cơ chế thị trường Việt Nam chưa tạo môi trường ổn định và
an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài
chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của q trình chuyển đổi, cơ chế thị
trường thiếu đồng bộ. Sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trường chấp
nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nhưng lại chưa giải quyết đầy đủ
19
những tiền đề cơ bản khiến cho thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát.
Cơ chế vận hành thô sơ, thô thiển, tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hồn tồn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong
lịch sử và khơng có mơ hình vạch sẵn. Do vậy khơng thể ngay từ đầu hình
dung tồn bộ các chi tiết của mơ hình thị trường, cũng khơng thể vạch ngay
được một lịch trình cứng nhắc của biến chuyển mà phải vừa thực hiện cơ
chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện chính trị,
kinh tế xã hội ở nước ta. Khơng áp dụng các liệu pháp xốc vừa là đặc điểm
vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Xuất
phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế với bên ngoài,
chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường từng bước. Điều quan trọng là cơ chế
này được nhân dân đồng tình và đã phát huy được hiệu quả.
b. Vấn đề lợi nhuận trong nên kinh tế thị trường hiện nay.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là kiểu
tổ chức kinh tế-xã hội là tồn bộ q trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền
với thị trường. Kinh tế thị trường không chỉ là cơng nghệ, kỹ thuật mà cịn
là quan hệ xã hội, không chỉ bao hàm hai yếu tố là lực lượng và quan hệ
sản xuất. Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sỡ hữu mà trong đó nó
phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị.
Mục đích của kinh tế thị trường:
Lợi nhuận là một mục đích của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường
ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng khơng theo đuổi lợi nhuận
một cách đơn thuần mà xuất phát từ đặc điểm của nước ta là nước xã hội
chủ nghĩa là khơng thay đổi. Vì vậy, chúng ta theo đuổi lợi nhuận nhưng
phải đảm bảo hai nhiệm vụ:
Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản
xuất phải có lãi.
Kết hợp giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội.
Xét cho đến cùng kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức
kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của
con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi
nhuận thu về cao. Kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa
người bán và người mua để xác đinh ba yếu tố của sản xuất qua đó nâng
cao tính năng động của nền kinh tế.
c. Các giải pháp đạt mục tiêu trên.
20
Chúng ta chủ trương chuyển qua nền kinh tế thị trường trên cơ sở ổn
định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách
kinh tế. Mặt khác, cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực
hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước nâng cao chất lượng
hiệu quả của quản lý cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp
tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên một bước phát triển mới.
Thể hiện kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường
ngày càng đóng vai trị quyết định đối với sản xuất và kinh doanh và phân
phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước nền kinh tế
nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết hợp tác có trình độ xã hội
hố cao, thúc đẩy hài hồ giữa sản xuất và nhu cầu. Nền kinh tế vận hành
theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp
đảm bảo thị trường thống nhất, mở rộng phục vụ mục tiêu tăng trưởng hiệu
quả cân bằng và ổn định Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và
chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển hùng mạnh, dùng chính
sách phân phối và điều tiết đảm bảo phúc lợi cho tồn dân và thực hiện
cơng bằng xã hội.
21
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực
tiếp là cơ sở cho mọi nền kinh tế. Và cùng với những hiểu biết về vai trò
cũng như hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế
cũng như đặc điểm về chính trị hoạt động nói lên sự thành công của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở tốc độ tăng
trưởng mà đi kèm với tăng trưởng phải không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế, giáo
dục phát triển, sự văn hố giàu nghèo khơng làm ảnh hưởng lớn tới phúc
lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa dân chúng. Cơ chế
thị trường khơng thể xuống cấp thậm chí tha hố trong các lĩnh vực văn
hoá, xã hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội.
Toàn bộ tiểu luận đã một phần làm rõ được bản chất và nguồn gốc
của lợi nhuận cũng như vài trị của nó trong nền kinh tế thị trường và sự
vận dụng vào Việt Nam. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là
một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là một động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của vấn đề nảy sinh và sự
tiêu cực trong văn hoá, xã hội, lối sống của người dân trong cơ chế mới,
cũng như sự tăng lên về vấn đề ô nhiễm môi trường. Những vấn đề trên đặt
ra một yêu cầu là tất cả chúng ta phải cùng cố gắng để góp phần đưa nền
kinh tế phát triển, xã hội lành mạnh văn minh. Đặc biệt là những nhà kinh
tế tương lai, chúng ta khơng thể đứng nhìn những mâu thuẫn nẩy sinh trong
q trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao
động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào cơng cuộc xây dựng đất
nước.
22