ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
GIÁP THỊ THIỆN
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Kon Tum, tháng 8 năm 2018
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN THỊ TRÚC PHƯƠNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN
: GIÁP THỊ THIỆN
LỚP
: K814LK2
MSSV
: 141502101
Kon Tum, tháng 8 năm 2018
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp này, trước hết em xin gửi đến
quý thầy, cô giáo trong khoa sư phạm và dự bị đại học trường phân hiệu Đại học Đà Nẵng
tại Kon Tum lời cảm ơn chân thành.
Đặc biệt, em xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Trúc Phương là người đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề báo cáo tốt nghiệp trong thời
gian vừa qua và cũng là người đưa ra những đóng góp cho bài báo cáo của em được hồn
thiện hơn, một lần nữa em xin gửi đến cô lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Và cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Lãnh Đạo, các anh, chị, các
phòng ban của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em
được học hỏi, tìm hiểu sâu hơn về xã hội và thực tiễn trong suốt quá trình thực tập tại đơn
vị.
Bên cạnh đó, nhà trường cũng đã tạo điều kiện cho mọi sinh viên tự tìm đơn vị thực
tập theo mong muốn của mỗi bạn để các bạn có cơ hội thực tập tại đơn vị mà mình u
thích, đây cũng là cơ hội để mỗi ai trong chúng ta đều có thể tự lực cánh sinh, phát huy cao
nhất cái ưu điểm của chính mình. Đối với em, đây là một bước nền để em có thể tự bước ra
đời sống thực tế để áp dụng những kiến thức em đã tích lũy được vào thực tế. Qua đó, em
cũng nhận ra rất nhiều điều mới mẻ và tích lũy được một số kinh nghiệm, dù chưa nhiều
nhưng cũng sẽ giúp ích em trên con đường sau này.
Vì kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế, nên trong q trình thực tập cũng như
hồn thành bài báo cáo tốt nghiệp này em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em kính
mong nhận được sự đóng góp từ cơ để bài báo cáo của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................... I
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... III
LỜI MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................................1
2. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi, mục đích và phương pháp nghiên cứu ........................2
2.2. Nhiệm vụ .......................................................................................................................2
2.3. Phạm vi .........................................................................................................................2
2.4. Mục đích .......................................................................................................................2
2.5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................................3
3.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................................3
3.2. Cơ sở thực tiễn ..............................................................................................................3
4. Bố cục của bài báo cáo .......................................................................................................3
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 ...............................................................................................................................4
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN..............................4
1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên ...............................................................................4
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội ...............................................................4
1.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 6
1.2.1. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ...................................................7
1.2.2. Những nét đổi mới của Luật Hình sự 2015 so với Luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ
sung năm 2009), ưu và nhược điểm ...................................................................................13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .....................................................................................................17
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI .................................................................................................18
2.1. THỰC TRẠNG ..............................................................................................................18
2.1.1. Thống kê tình hình tội phạm và một số vụ án điển hình áp dụng thành cơng các quy
định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên
địa bàn huyện Ngọc Hồi trong những năm gần đây ..........................................................18
2.1.2. Những bất cập và khó khăn của việc áp dụng những quy định của pháp luật về
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên thực tế .......................20
2.2. NGUYÊN NHÂN ...........................................................................................................25
2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ........25
i
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong việc áp dụng những quy định của pháp
luật vào thực tiễn ................................................................................................................26
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI .......................................26
2.3.1. Một số giải pháp hạn chế tình trạng người chưa thành niên phạm tội.....................26
2.3.2. Một số giải pháp hồn thiện pháp luật về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội ............................................................................................................27
2.4. NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG VIỆC ÁP
DỤNG VÀO THỰC TIỄN TỐ TỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI HIỆN
NAY .......................................................................................................................................28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2: ...................................................................................................29
KẾT LUẬN ...........................................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................31
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS: Bộ luật hình sự
- BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
- QĐ-BCĐ: Quyết định-Ban chỉ đạo
- NCTN: Người chưa thành niên
- TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
- TTLT: Thông tư liên tịch
-
TgT-TTPY: Thương tích-trung tâm pháp y
-
QĐ-HĐTP: Quyết định-hội đồng thẩm phán
iii
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trên thực tế tồn tại khơng ít những đối tượng vi phạm pháp luật, và một trong những
đối tượng đáng lo ngại nhất hiện nay là đối tượng người chưa thành niên phạm tội. Hiện
nay, hơn 1/3 tội phạm Thành phố Hồ Chí Minh là trẻ em, 6 tháng gần đây, trên địa bàn
TP HCM đã xảy ra gần 2.500 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có tới gần 37% là do người
chưa thành niên (dưới 18 tuổi) thực hiện. Tình trạng phạm tội ở Việt Nam đang diễn ra
rất phức tạp. Việc giải quyết vấn đề này để giữ nghiêm trật tự an tồn xã hội và ổn định
chính trị, song đây cũng là một vấn đề hết sức phức tạp.
Như chúng ta đều biết, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính chắn và đặc biệt họ dễ
bị kích động, lơi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được
chăm sóc giáo dục chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn
đến phạm pháp. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên thì ý thức phạm tội của người
chưa thành niên nói chung còn thụ động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, họ dễ từ bỏ sự
giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để tham gia vào việc vi phạm pháp
luật. Do vậy, không thể coi người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm Hình
sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng với người chưa thành
niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên.
Vấn đề ở đây không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó,
điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hành vi vi phạm pháp luật và
tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các hành vi đó xảy ra. Vì vậy, mà Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 2015 ra đời đã dành nguyên một chương riêng đặc biệt (Chương XII) quy định về
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (người chưa thành niên) và tại
BLTTHS 2015 cũng có một chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi,
không những thế Nhà nước còn ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất
cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự trong việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, tôi thấy,
những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy định của pháp luật,
tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội mà cịn
phải có kiến thức hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên
để phục vụ cho việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hơn nữa, xã hội đang
trong quá trình q độ, nền kinh tế thay đổi nhanh chóng hiện nay, tình hình người chưa
thành niên phạm tội diễn biến ngày càng phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, trước những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng
ngừa,chống tội phạm và chống vi phạm pháp luật, việc nghiên cứu sâu về hình phạt đối
1
với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam là vấn đề có ý
nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó tơi đi đến
quyết định chọn đề tài "quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên pham tội
quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015_lý luận và thực tiễn" cho bài tiểu luận tốt
nghiệp của mình.
2. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi, mục đích và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Bài chủ yếu tập trung nghiên cứu:
+ Nghiên cứu thực trạng về việc quyết định hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng
đối với người chưa thành niên phạm tội thông qua những vụ án liên quan người chưa
thành niên phạm tội trong những năm gần đây.
+ Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 về quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, đồng thời so sánh với Bộ luật Hình sự năm
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
2.2. Nhiệm vụ
Bài nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng của việc quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội quy định trong Bộ luật Hình sự 2015.
2.3. Phạm vi
Trong bài có tập trung nghiên cứu các vấn đề: khái quát chung về người chưa thành
niên, những quy định của pháp luật hình sự năm 2015 về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội, những nét mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999 được
sửa đổi bổ sung năm 2009, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp hạn chế của hành vi
phạm pháp do người chưa thành niên thực hiện trên thực tế, hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả công tác của kiểm sát viên trong thực tế áp dụng.
2.4. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và áp dụng thực tiễn của việc quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội trong các cơ quan tiến hành tố tụng, bài này góp
phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự về việc quyết định hình phạt đối với
các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên để áp dụng vào thực tiễn công tác
nghề nghiệp nhằm đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất, đồng thời đưa ra một số thực
trạng đối với việc áp dụng các quy định này và đề xuất hướng giải quyết.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê... Qua đó nghiên cứu rút ra những thành tựu cũng như những tồn tại,
hạn chế của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tìm
ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị, giải
pháp khắc phục những hạn chế này.
2
3. Cơ sở khoa học của đề tài
3.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
3.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về việc quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn cả nước mà đặc biệt là trên địa bàn
huyện Ngọc Hồi trong những năm gần đây.
4. Bố cục của bài báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài báo cáo
gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về người chưa thành niên và những quy định của
pháp luật về vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong
Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chương 2: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 2015
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
NCTN là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách (thể chất và tinh
thần), chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia
quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua
ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm
hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi NCTN được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ
luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Lao động, Bộ luật
Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là
dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên
trong từng lĩnh vực, từng độ tuổi chưa thành niên cụ thể.
Khái niệm NCTN khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy
định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt
thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các
văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa
vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát
triển hồn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
như người đã thành niên.
Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người
khỏe mạnh, có ích cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
4
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều, đó là các
điều: 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự năm
2015.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ luật Hình
sự.
Phân tích các quy định trên có thể thấy rằng: người chưa thành niên phạm tội chỉ bao
gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi (Điều 90 BLHS năm 2015); nếu
người chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm
trọng nhưng với lỗi vô ý đều không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS 2015).
Như vậy, khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” được quy định trong pháp luật
hình sự chủ yếu nhằm xác định tính chất tội phạm đối với hành vi do người chưa thành
niên thực hiện và tạo điều kiện cho việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội sao cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ
đã thực hiện trên cơ sở những đặc điểm về tâm, sinh lý của họ vào thời điểm họ phạm tội.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm: người chưa thành niên phạm tội là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn
chế bởi các đặc điểm tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm.
Từ định nghĩa khoa học của khái niệm này cho thấy, người chưa thành niên phạm tội
theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành mang những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Thứ hai, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm
về tâm, sinh lý.
Thứ ba, đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Thứ tư, hành vi mà người đó thực hiện là hành vi bị luật hình sự cấm.
Thứ năm, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi đó.
5
1.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
2015
Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường hợp đặc biệt. Ở
đây tính đặc biệt của trường hợp này là hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
được quy định nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương
đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Sở dĩ như vậy là do
người chưa thành niên được hưởng những chính sách giảm trách nhiệm Hình sự của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi có hành vi phạm tội vì họ có những đặc
điểm đặc biệt về nhân thân, chưa hoàn chỉnh về tâm, sinh lý.
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội phải xác định rõ
các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành
vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay khơng có
người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không
những phù hợp với đặc điểm của người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về
những nguyên nhân khách quan tác động đến hành vi phạm tội của các em.
Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của bị can là vấn đề đầu tiên cần xem xét đến.
Theo Điều 12 BLHS 2015 có quy định tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là đủ
14 tuổi trở lên. Theo Điều 417 BLTTHS 2015 (trước đây là Công văn số
81/2002/TANDTC và TTLT số 01/2011) quy định việc xác định tuổi của người bị buộc
tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi tại chung trong một điều luật như sau: Việc xác
định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng
các biện pháp hợp pháp mà vẫn khơng xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh
của họ được xác định như sau:
Thứ nhất, trường hợp xác định được tháng cụ thể nhưng không xác định được ngày
nào trong tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó;
Thứ hai, trường hợp xác định được quý cụ thể của năm nhưng không xác định được
ngày, tháng nào trong quý thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm
ngày, tháng sinh;
Thứ ba, trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày,
tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng
sinh;
Thứ tư, trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì
lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh;
Thứ năm, trường hợp khơng xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để
xác định tuổi.
Đó là căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
6
1.2.1. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
a. Nguyên tắc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội
Đối với NCTN phạm tội, có những nguyên tắc đặt ra mà những người tố tụng cần
phải tuân thủ và đã được tách riêng biệt, chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội quy định tại Điều 91 BLHS 2015 như sau:
Việc xử lí hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm.
Người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm Hình sự nếu người đó thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 91 BLHS 2015 và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này và áp dụng các biện pháp quy định tại
Mục 2 Chương này.
Việc truy cứu trách nhiệm Hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ tính chất
của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa
tội phạm. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát,
giáo dục hoặc việc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Đối với người chưa thành niên phạm tội thì khơng sử phạt tù trung thân hoặc tử hình,
khơng áp dụng các hình phạt bổ sung, khơng áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức
án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với
thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì khơng tính để xác định tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
b. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội
Quy định của pháp luật khi người chưa thành niên chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành
Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt:
7
Đây là một Điều luật mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999, trước đây BLHS 1999
không quy định Điều này riêng cho người chưa thành niên phạm tội mà chỉ quy định
chung trong Bộ luật. Và Điều khoản mới này chính là sự thay đổi rõ rệt trong quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nó giúp cho những người tiến hành tố tụng
khi áp dụng hình phạt sẽ khơng bị nhầm lẫn, nâng cao khả năng áp dụng luật một cách có
hiệu quả.
Điều 102 BLHS 2015 đã quy định quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt như sau:
1. Tịa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ
luật này.
2. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm
tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với
hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.
Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm
tội khơng q một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với
hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.
3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm
tội chưa đạt khơng q một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101
của Bộ luật này.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
chưa đạt khơng q một phần hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101
của Bộ luật này.
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng sửa đổi phạm vi chịu trách nhiệm của người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội theo hướng thu hẹp hơn, cụ thể, họ chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự nếu chuẩn bị phạm tội thuộc một trong 2 tội danh đó là:
giết người (Điều 123) và cướp tài sản (Điều 168).
Phạm tội hồn thành:
Khơng phải mọi đối tượng có hành vi phạm tội cũng trở thành tội phạm. Và điều này
cũng không là ngoại lệ đối với người chưa thành niên. Một tội phạm được cấu thành phải
đảm bảo được các điều kiện nhất định của một tội danh riêng biệt. Quy định này nhằm
hạn chế tình trạng nhầm lẫn giữa tội này và tội khác trong những tội danh cùng nhóm tội,
cùng chương mục; loại bỏ những trường hợp bắt nhầm người do có những hành vi sai
luật nhưng không đủ cấu thành tội danh. Do đó khi một người chưa thành niên thực hiện
một hành vi sai trái, không những cần phải xác định điều kiện cấu thành một tội danh mà
còn phải xác định điều kiện phát sinh tội phạm của người chưa thành niên đó thì mới trở
thành tội phạm.
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ phát sinh khi có đầy đủ 3 điều
kiện sau đây:
8
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương
ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm
quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện
pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do
người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng
gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi
trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội
phạm.
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm khác biệt riêng so với
tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu thành tội
phạm; còn tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố
pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm
quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết. Theo một số nghiên
cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm và áp dụng hình phạt đối với họ được xem là
“cần thiết” khi hội đủ 3 điều kiện sau đây:
- Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.
- Tội phạm đã thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
- Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường
giáo dưỡng khơng có hiệu quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần áp dụng
hình phạt đối với họ.
Các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội
Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người chưa thành niên
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thì sẽ có gia đình hoặc cơ quan/tổ chức giám sát,
giáo dục. So với BL cũ thì BLHS 2015 có sự phân chia rõ ràng hơn theo từng mục từ
Điều 92 đến Điều 101 gồm ba phần là:
- Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS
- Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
- Hệ thống các hình phạt.
Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa
thành niên được miễn trách nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (theo Điều 93), hòa
giải tại cộng đồng (theo Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị trấn (theo Điều 95). Đây
9
là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người
phạm tội đi vào thực tế và có hiệu quả.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng bổ
sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo
dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật này.
Ngồi ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát, giáo
dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (theo Điều 96) BLHS
2015. Các biện pháp tư pháp là các biện pháp mang tính chất giáo dục, phịng ngừa (các
biện pháp thay thế hình phạt) Tịa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất
nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và mơi trường sống của người đó mà
cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
Hệ thống các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội mà Tịa án có thể áp
dụng là một trong bốn loại sau: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ hoặc tù có
thời hạn.
Việc quyết định hình phạt và xóa án tích
Theo quy định của BLHS năm 2015 việc quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội được tiến hành như sau:
Đối với phạt tiền: BLHS năm 2015 quy định hình phạt tiền chỉ áp dụng là hình phạt
chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài
sản riêng. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa
thành niên phạm tội, đồng thời việc áp dung hình phạt này khơng chỉ đạt được mục đích
của hình phạt mà cịn có tính khả thi trong thực tế. Mức phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội không vượt quá 1/2 mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Đối với hình phạt cải tạo khơng giam giữ: BLHS năm 2015 đã quy định hình phạt cải
tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý (điểm mới so với BLHS
1999 sđ bs năm 2009). Giới hạn hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội
không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS 2015 và người
bị kết án không bị khấu trừ thu nhập. Quy định này nhằm đảm bảo tính khả thi của hình
phạt này khi áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 2015 đã phân hóa người chưa thành niên
ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi với đường lối xử lý khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được
xử lý nhẹ hơn người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong từng đối tượng cụ thể nói trên,
nhà làm luật tách ra làm hai trường hợp (trường hợp điều luật quy định hình phạt tù
10
chung thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn) tương ứng
với mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người chưa thành niên cũng như
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về chất của
BLHS khi quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (cụ
thể quy định tại Điều 101 BLHS 2015) như sau:
+ Xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành
vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên;
+ Khi người đó từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi mà điều luật được áp dụng quy định nếu là
hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng q
18 năm tù và nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng q
3/4 mức hình phạt tù đã được xác định ở trên;
+ Khi người đó từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà điều luật được áp dụng quy định nếu
là hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng
q 12 năm tù và nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng
q 1/2 mức hình phạt tù đã được xác định ở trên.
Qua tham khảo Luật hình sự của một số nước cho thấy, các nước này đều giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên so với người đã thành niên. Pháp luật Việt
Nam cũng có những quy định có lợi và mang tính chất giảm nhẹ cho người chưa thành
niên khi họ pham tội, phân tích các quy phạm pháp luật hình sự tại các Điều 102 đến
Điều 107 BLHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng có thể chỉ ra được năm đặc điểm của việc
quyết định hình phạt và xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội mà trong đó
khẳng định mức độ trách nhiệm hình sự của họ được giảm nhẹ như sau:
+ Nếu tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên trong trường hợp họ phạm
nhiều tội mà khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tịa án quyết
định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55
của Bộ luật này.
+ Nếu hình phạt chung là cải tạo khơng giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng khơng q 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi,
có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16
tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16
tuổi thì hình phạt chung khơng vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này;
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi
nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình
11
phạt chung khơng vượt q mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được
thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt Tịa án tun đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ
18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người
đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung khơng được vượt q mức hình phạt cao nhất quy
định tại khoản 1 Điều này;
+ Nếu mức hình phạt Tịa án tun đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18
tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi
thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong trường hợp một người đang phải chấp hành
một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực
hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này.
Hình phạt chung khơng được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103
của Bộ luật này.
(Đây cũng là điểm mới so với BLHS 1999).
Chế định giảm nhẹ mức hình phạt đã được tuyên đối với người chưa thành niên bị kết
án được áp dụng như sau:
Một là, khi hình phạt đã được tun là cải tạo khơng giam giữ hoặc tù có thời hạn, nếu
người bị kết án có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được 1/4 thời hạn thì được Tịa án xét
giảm (riêng mức giảm của hình phạt tù là 4 năm/lần nhưng phải đảm bảo đã chấp hành
được 2/5 mức hình phạt đã tun), cịn nếu người bị kết án lập cơng hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt cịn lại;
Hai là, khi hình phạt đã được tuyên là phạt tiền và nếu người bị kết án lâm vào hồn
cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hay ốm đau gây ra
hoặc lập cơng lớn thì Tịa án theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát có thể giảm
hoặc miễn việc chấp hành phần tiền còn lại.
Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện, đây cũng là điểm mới trong BLHS 2015
đó là:
+ Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều
kiện sau đây:Phạm tội lần đầu; Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; Đã chấp hành được
một phần ba thời hạn phạt tù; Có nơi cư trú rõ ràng.
+ Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại các khoản 3,
4 và 5 Điều 66 của Bộ luật này.
Chế định xóa án tích được áp dụng đối với người chưa thành niên bị kết án như sau:
+ Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là khơng có án tích, nếu thuộc một trong các
trường hợp: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết
12
án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng
do vô ý; Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
+ Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03
năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án
mà người đó khơng thực hiện hành vi phạm tội mới.
Quy trình xử lý người chưa thành niên phạm tội trên thực tế diễn ra hết sức chặt chẽ.
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án có người chưa thành niên phạm tội thì
người chưa thành niên này phải có sự tham gia của luật sư, người bào chữa theo pháp luật
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can; và vị Luật sư, người bào chữa này được
tham gia bảo vệ cho người chưa thành niên từ khi bắt giữ người chưa thành niên đó.
Trong q trình thụ lý vụ án nếu người chưa thành niên không yêu cầu Luật sư, người
bào chữa bào chữa cho mình thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án phải u
cầu Đồn luật sư cử người bào chữa cho người đó (Điều 75, 76, 77 Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015).
1.2.2. Những nét đổi mới của Luật Hình sự 2015 so với Luật Hình sự 1999 (sửa
đổi bổ sung năm 2009), ưu và nhược điểm
a. Những nét đổi mới của Luật Hình sự 2015 so với Luật Hình sự 1999
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội có một số điểm mới sau:
Nguyên tắc xử lý chung:
Bổ sung nguyên tắc: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi” (khoản 1 Điều 91) và nguyên tắc: “Tòa án chỉ áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện
pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phòng ngừa” (khoản 6 Điều 91).
Sửa đổi nguyên tắc: “Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội, thì Tịa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp
được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này” tại khoản 4 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm
1999 thành: “Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy
định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại
Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa” (khoản 4 Điều 91
BLHS 2015).
Với việc sửa đổi và bổ sung các nguyên tắc trên, Bộ luật hình sự mới được thiết kế để
đảm bảo tính nhân đạo và tạo cơ hội cho những người chưa thành niên được giáo dục,
cảm hóa, sửa chữa lỗi lầm.
Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi:
Kế thừa các quy định trước đây của Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, Bộ luật Hình
13
sự phân loại ra hai nhóm để có chính sách hình sự khác nhau, đó là nhóm từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và nhóm từ đủ 16 tuổi trở lên.
So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015 khơng sửa đổi về
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng có sửa đổi lớn về
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Cụ thể,
thay vì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
đối với bất kỳ tội danh nào thì với quy định mới, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại một trong 28 điều, đó là các điều: 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150,
151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290,
299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngồi ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng sửa đổi phạm vi chịu trách nhiệm của người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội theo hướng thu hẹp hơn, cụ thể, họ chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự nếu chuẩn bị phạm tội thuộc một trong 2 tội danh đó là:
giết người (Điều 123) và cướp tài sản (Điều 168) BLHS 2015.
Về quyết định hình phạt:
Bộ luật hình sự 2015 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn các trường hợp tổng hợp hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội tại Điều 103; đồng thời có sự phân hóa
giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Việc
phân hóa phù hợp với độ tuổi, nhận thức của người phạm tội thể hiện rõ nét tính nhân đạo
trong việc xây dựng pháp luật cũng như giúp đỡ cho người phạm tội có cơ hội để sửa
chữa sai lầm và tái hịa nhập cộng đồng.
Ngồi ra, Bộ luật mới còn bổ sung quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102) và Tha tù trước hạn có điều kiện (Điều
106) để cụ thể hóa cũng như tách biệt với trường hợp người thành niên phạm tội, thống
nhất với các nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Về các biện pháp giám sát, giáo dục:
Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người chưa thành niên
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thì sẽ có gia đình hoặc cơ quan/tổ chức giám sát,
giáo dục.
Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa
thành niên được miễn trách nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (Điều 93), hòa giải
tại cộng đồng (Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Đây là những quy
định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người phạm tội đi vào
thực tế và có hiệu quả.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng bổ
sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo
dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật.
14
Ngồi ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát, giáo
dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96BLHS 2015).
Về việc xóa án tích:
Nhìn chung những quy định liên quan đến xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết
án trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được quy định theo hướng có lợi hơn, thể hiện được
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích, giúp người phạm tội tích
cực cải tạo tốt, chấp hành tốt pháp luật, sớm tái hòa nhập cộng đồng để thực hiện các
quyền, nghĩa vụ của mình.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi khơng bị coi là có án tích đối với
người chưa thành niên phạm tội: ngoài trường hợp bị áp dụng biện pháp tư pháp, người
chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong mọi trường hợp hoặc người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vơ ý cũng khơng bị coi là có án tích.
Sửa đổi quy định thời hạn xóa án tích đối với người chưa thành niên bị kết án: Nếu
như bộ luật hình sự năm 1999 quy định thời hạn để xóa án tích đối với người chưa thành
niên là ½ thời hạn xóa án tích của người đã thành niên, thì Bộ luật Hình sự năm 2015 quy
định người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính
từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người
đó khơng thực hiện hành vi phạm tội mới.
Việc xác định thời hạn 03 năm này khơng phụ thuộc vào hình phạt chính đã tun và
theo quy định tại khoản 2 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mọi trường hợp có án
tích đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án đều thuộc trường hợp đương
nhiên được xóa án tích chứ khơng có trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tịa án.
Thời hạn xóa án tích được tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc khi hết thời
hiệu thi hành bản án. Đây là quy định mới về cách tính thời hạn xóa án tích trong Bộ luật
Hình sự năm 2015 vì theo quy định Bộ luật Hình sự năm 1999 thì thời hạn xóa án tích
được tính khi người phạm tội chấp hành xong bản án.
Ngồi ra, theo quy định mới, khơng cịn việc Tịa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích
cho người được đương nhiên xóa án tích, mà giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý cơ sở
dữ liệu lý lịch tư pháp phải cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án.
Một số thay đổi trong hoạt động tố tụng:
Song song với những thay đổi của Bộ luật hình sự thì Bộ luật tố tụng hình sự cũng có
những điều chỉnh nhất định khi tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi như:
Quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về thủ tục lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng; hỏi cung bị can;
15
đối chất là người dưới 18 tuổi; sửa đổi, bổ sung theo hướng tối thiểu hóa việc lấy lời khai,
hỏi cung và đối chất đối với người dưới 18 tuổi, nhằm bảo đảm các hoạt động tố tụng
được thực hiện phù hợp tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của
người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất đối với họ, phù hợp với quy
định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Quy định rõ hơn về quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của người
dưới 18 tuổi (Điều 422 BLTTHS 2015). Theo đó, khẳng định rõ hơn quyền bào chữa của
người dưới 18 tuổi: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa”, thay vì quy định tùy nghi “có thể lựa chọn người bào chữa
hoặc tự mình bào chữa…” như BLTTHS 2003 (khoản 1, Điều 305). Trường hợp người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi khơng có người bào chữa hoặc người đại diện của họ
khơng lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định
người bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngồi ra, trong thủ tục xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nhiều nội
dung mới theo hướng cụ thể hóa, bảo đảm phù hợp với người dưới 18 tuổi và thống nhất
với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Mở rộng đối tượng tiến hành tố tụng với tư cách là Hội thẩm, theo đó: Thành phần Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh
niên hoặc là người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
Quy định cụ thể trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi thì
Tịa án có thể quyết định xét xử kín; bổ sung những người bắt buộc phải có mặt tham gia
phiên tịa để trợ giúp tốt nhất cho bị cáo là người dưới 18 tuổi, bao gồm: người đại diện
của bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ trường hợp
những người này vắng mặt mà khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan.
Quy định rõ việc xét hỏi, tranh luận với bị cáo, bị hại, người làm chứng là người
dưới 18 tuổi tại phiên tòa phải được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của
họ; phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi, bảo đảm đáp ứng
các yêu cầu chuẩn mực quốc tế đặt ra. Đối với vụ án có bị hại, người làm chứng là người
dưới 18 tuổi, Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng
với bị cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày lời khai tại phiên tịa. Thẩm phán chủ tọa
phiên tịa có thể u cầu người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hỏi bị
hại, người làm chứng.
b. Ưu và nhược điểm
Ưu điểm:
Thực hiện các chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với đối tượng phạm tội chưa
phát triển hết về tâm, sinh lý như người chưa thành niên phạm tội.
Hướng đến mục đích giáo dục là chính nên các hình phạt áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội thường mang tính có lợi cho người phạm tội.
16
Nhằm mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền được sống và phát triển bình thường
nhất là đối với trẻ vị thành niên, chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất và nhận thức.
Tạo thêm cơ hội cho người chưa thành niên tự cải tạo mình, trưởng thành hơn và sống
có ích hơn trong xã hội vì những người này phạm tội khi tuổi còn rất trẻ, còn rất nhiều
thời gian cho họ làm lại cuộc đời.
Hình phạt tiền được quy định có thể là hình phạt chính đối với người chưa từ đủ 16
tuổi trở lên nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm
tội.
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp tư pháp tại trường giáo dưỡng
nhằm cải tạo giúp cho họ dễ dàng hòa nhập lại với cuộc sống bình thường khi hết thời
gian cải tạo.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện cho người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù
khi phạm tội lần đầu; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; đã chấp hành ược 1/3 thời
hạn phạt tù và có nơi cư trú rõ ràng. Điều này càng tạo sự tin cậy và tạo tinh thần muốn
cải tạo của người chưa thành niên phạm tội, giúp họ có cái nhìn đúng đắn, trở thành
người tốt có ích cho xã hội.
Tạo thêm khả năng can thiệp của các cơ quan tư pháp đối với các trường hợp miễn
trách nhiệm hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, tránh tình trạng lạm
quyền; một phần khác cũng khiến cho người phạm tội tin tưởng vào các cơ quan công
quyền, tích cực cải tạo, khắc phục hậu quả mình gây ra.
Nhược điểm:
Các hình phạt giảm nhẹ, nhiều điều kiện miễn giảm trách nhiệm hình sự, xét xử ln
theo hướng có lợi cho người phạm tội nên khiến cho họ ít sợ pháp luật (hiệu ứng “lờn
thuốc”), ý thức còn chưa hồn chỉnh nên nghĩ gì thì làm nấy, dẫn đến tình trạng phạm tội
diễn ra càng nhiều trên thực tế (nhất là các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng).
Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên từ đủ 16
tuổi trở lên cũng gây ra một bất cập lớn, đó là những tội phạm là con nhà giàu (ít được bố
mẹ giáo dục vì phần lớn bố mẹ bận rộn kiếm tiền) khi phạm tội thì được bố mẹ sẵn sàng
bỏ tiền để con mình khơng phải chịu hình phạt tù, dẫn đến việc để lọt tội phạm và khả
năng người này tiếp tục phạm tội gây thiệt hại cho người khác và cho xã hội là rất cao.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với những gì đã nói ở trên thì việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội cần phải dựa vào những yếu tố cần thiết quy định trong điều luật để từ đó đưa ra
những quyết định xử lí vi phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nhưng cũng không
thể thiếu sự khoan hồng của pháp luật, đặc biệt là đối với người chưa thành niên để họ có
cơ hội sửa chữa những sai phạm và làm lại cuộc đời, sống có ích hơn cho xã hội.
17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1. THỰC TRẠNG
Hiện nay, đáng chú ý nhất đó là tình trạng thanh, thiếu nhi phạm tội, đặc biệt là các tội
như cướp của, cưỡng đoạt tài sản của công dân, hiếp dâm, giết người, sử dụng và mua
bán trái phép chất ma túy... trở nên đa dạng và ngày càng nhiều.
2.1.1. Thống kê tình hình tội phạm và một số vụ án điển hình áp dụng thành công
các quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn huyện Ngọc Hồi trong những năm gần đây
Những năm gần đây, tình hình phạm tội ở huyện Ngọc Hồi có chiều hướng tăng cả
về số lượng các vụ án cũng như về tính chất và mức độ phức tạp của chúng.
Theo số liệu thống kê tại báo cáo tổng kết tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn huyện
Ngọc Hồi từ năm 2016 đến hết tháng 12/2017, tổng có 316 vụ án hình sự. Trong đó, có
19 vụ án do người chưa thành niên gây ra với 41 đối tượng vi phạm pháp luật.Cụ thể:
hiếp dâm, cưỡng dâm 2 vụ - 2 đối tượng; cố ý gây thương tích 6 vụ - 13 đối tượng; trộm
cắp tài sản 7 vụ - 16 đối tượng; cướp giật tài sản 1 vụ - 1 đối tượng và những vi phạm
khác với 3 vụ - 9 đối tượng.
Trong đó, truy cứu trách nhiệm hình sự 11 vụ - 27 đối tượng, xử lý hành chính 7 vụ 13 đối tượng và giao cho gia đình giáo dục 1 vụ - 1 đối tượng.
Điều đó cho thấy, tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện có tính
chất nghiêm trọng, tập trung vào hai loại tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích.
Đây là vấn đề nhức nhối và cũng là hồi chuông cảnh báo tới toàn xã hội về tội phạm là
đối tượng chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh những vụ án nêu trên, tôi sẽ đưa ra một số vụ án điển hình áp dụng thành
cơng các quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn huyện Ngọc Hồi trong những năm gần đây như sau:
Thứ nhất: Vụ “cố ý gây thương tích” bị can A Duy (sn 1997), A Xiế (sn
15/04/1998), A Dam (28/06/1998). Bị hại là Xiêng Lăng Măng và A Khang.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 71/TgT-TTPY ngày
09/06/2016 của Trung tâm pháp y Sở y tế Kon Tum kết luận Xiêng Lăng Măng bị 02 xẹo
vùng mặt, kích thước trung bình, lớn ảnh hưởng thẩm mỹ, mặt khơng biến dạng và 01 sẹo
cẳng tay phải, kích thước nhỏ khơng ảnh hưởng chức năng; Tổng tỷ lệ thương tích 13%
do vật sắc gây ra. Đối với A Khang không bị thương tích gì.
Xét thấy, sự đồng phạm của các bị cáo mang tính nhất thời, giản đơn và bồng bột.
Trong vụ án này A Duy vừa là người khởi xướng, vừa là người trực tiếp gây thương tích
18
cho người bị hại, tại thời điểm thực hiện tội phạm A Dam chưa đủ 18 tuổi, A Duy đã đủ,
lôi kéo A Dam tham gia phạm tội và phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm o
khoản 1 Điều 52 BLHS 2015. Khơng áp dụng tình tiết tăng nặng với A Dam và A Xiế.
Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tự
nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả. Vì vậy , cho bị cáo A Dam và A Xiế được hưởng
các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015; Bị cáo
Duy được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015.
Quyết định: Áp dụng khoản 3 Điều 7, các điểm a, c, m khoản 1, khoản 2 Điều 134;
điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 BLHS 2015
xử phạt A Duy 24 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày bị tạm giam (09/8/2016).
Áp dụng khoản 3 Điều 7, các điểm a, c, m khoản 1, khoản 2 Điều 134; Các điểm
b, s khoản 1 Điều 51; các khoản 1,2 Điều 54; Điều 36; Điều 58 BLHS 2015 xử phạt A
Xiế 16 tháng cải tạo không giam giữ.
Áp dụng khoản 3 Điều 7, các điểm a, c, m khoản 1, khoản 2 Điều 134; các điểm b,
s khoản 1 Điều 51; các khoản 1, 2 Điều 54; Điều 36; Điều 58; Điều 91; Điều 98; Điều
100 BLHS 2015 xử phạt A Dam 12 tháng cải tạo không giam giữ.
Đồng thời, giao A Xiế và A Dam cho UBND xã Đăk Ang, huyện Ngọc Hồi, tỉnh
Kon Tum cùng gia đình các bị các có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục
các bị cáo A Xiế và A Dam trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thứ hai: Vụ “trộm cắp tài sản” bị can Thèn Dương Minh Khánh (sn 08/10/1999)
phạm tội nhiều lần.
Lần thứ nhất: ngày 20/12/2015 Khánh đột nhập vào nhà bà Mai trộm cắp tài sản
gồm tiền mặt 400.000đ và 16 thẻ cạc điện thoại các loại và một hộp kẹo sugus trị giá
565.000đ; Tổng số tài sản chiếm đoạt là: 965.000đ.
Lần thứ 2: ngày 31/05/2016 Khánh đột nhập vào nhà bà Đào Thị Kim Cúc trộm
17 gói thuốc lá GOLDEN EAGLE, và 11 gói thuốc lá WHITE HOUSE; Tổng giá trị tài
snar la: 345.750đ.
Xét về nhân thân của bị cáo, bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi, nhưng thích sống
lang thang, thường bỏ nhà đi và nghiện chơi game, khi khơng có tiền thì trộm cắp tài sản
lấy tiền tiêu xài. Trong một thời gian ngắn bị cáo đã liên tục phạm tội, cơ quan khởi tố bị
can nhưng bị can chưa đủ 18 tuổi nên cơ quan điều tra đã thay đổi biện pháp ngăn chặn,
cho bị các được tại ngoại nhưng bị cáo vẫn liên tiếp phạm tội do vậy gia đình đã đề nghị
thay đổi biện pháp ngăn chặn bắt giam bị cáo, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng
tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.
Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tuổi đời còn trẻ,
phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đồng thời tác động gia đình đã BT số
tiền thiệt cho người bị hại, nên coi đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, p
19