909
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
LẬP TRƢỜNG QUAN ĐIỂM CỦA MỸ - NHẬT VÀ CÁC
BÊN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ GIỮA HAI BỜ EO
BIỂN ĐÀI LOAN TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH TỚI
NAY
CHUYÊN NGÀNH LỊCH THẾ GIỚI
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Tôn Nữ Hải Yến
Sinh viên thực hiện: Lê thị Thân
Lớp: K51 A Lịch sử - Khoa lịch sử
Mssv: 1056022362
VINH, 2014
1
Mục lục:
Trang
A Mở đầu ................................................................................................... 1
B Nội dung ................................................................................................. 7
Chƣơng 1: Bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh tới nay
và vấn đề Đài Loan ..................................................................................... 7
1.1. Bối cảnh quốc tế .................................................................................. 7
1.2. Bối cảnh khu vực ............................................................................... 10
1.3. Vấn đề Đài Loan trong chiến tranh lạnh ............................................ 12
1.3.1. Cội nguồn của vấn đề Đài Loan ............................................ 12
1.3.2. Thái độ của các nước đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển
Đài Loan trong Chiến tranh lạnh ............................................................... 15
Chƣơng 2: Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật vấn đề giữa hai bờ
Eo biển Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh đến nay ................................... 19
2.1. Vấn đề Đài Loan sau Chiến tranh lạnh tới nay................................... 19
2.2: Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề giữa hai bờ Eo biển
Đài Loan sau Chiến tranh lạnh .................................................................. 23
2.2.1. Quan điểm của Trung Quốc .................................................. 23
2.2.2 Quan điểm của Đài Loan ....................................................... 31
2.2.3. Quan điểm của Mỹ ............................................................... 34
2.2.4. Quan điểm của Nhật............................................................ 54
Chƣơng 3: Một số nhận xét về tác động của quan điểm lập trường
các nước lớn đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan từ sau
2
Chiến tranh lạnh tới nay............................................................................. 61
3.1. Tác động từ những quan điểm của Mỹ - Nhật đối với vấn đề
Đài Loan.................................................................................................... 61
3.2. Quan hệ Trung – Mỹ.......................................................................... 62
3.3. Quan hệ Trung – Nhật....................................................................... 68
3.4. triển vọng của vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan.................................. 70
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 80
Kết luận...................................................................................................... 76
Phụ lục........................................................................................................ 81
Mục lục..............
3
A: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Chiến tranh lạnh chính thức kết thúc năm 1991, khi lá cờ
trên nóc điện Crem li bị hạ xuống thì tình hình chính trị thế giới có nhiều
sự biến chuyển quan trọng. Các nước tập trung phát triển kinh tế để xác lập
vị trí của mình trên trường quốc tế, thế giới hình thành nên nhiều trung tâm
kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì một số nước lớn như Mỹ, Nhật Bản,
Nga... vẫn cố gắng tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ một số nước mà
đặc biệt là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Do có vị trí thuận lợi, từ lâu Đài Loan đã trở thành địa bàn quan
trọng trong chiến lược của nhiều nước lớn ở Châu Á – Thái Bình Dương.
“Vấn đề Đài Loan” cũng luôn là vấn đề nhạy cảm, căng thẳng trong mối
quan hệ các nước lớn. Vì vậy, giải quyết vấn đề Đài Loan có liên quan trực
tiếp đến việc giải quyết lợi ích giữa các nước lớn ở khu vực và thế giới.
Vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan cũng trở thành một trong những vấn
đề “tâm điểm” trong quan hệ của nhiều nước ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, Đài Loan có thể trở
thành “một điểm nóng nhưng cũng có thể là chất xúc tác cho ổn định của
khu vực” [1;14]. Điều đó nói lên rằng, việc nghiên cứu về lập trường quan
điểm của các nước lớn trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn sâu sắc đối với việc nghiên cứu quan hệ quốc tế từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.
Thực tiễn cho thấy, vấn đề Đài Loan là vấn đề phức tạp, trong quá
trình giải quyết vấn đề này, các bên có liên quan đều khá thận trọng trong
việc đưa ra cách giải quyết của mình. Do vậy, nghiên cứu về lập trường
quan điểm của các nước về vấn đề Đài Loan một mặt cho thấy những tính
tốn lợi ích của các nước lớn, mặt khác góp phần rút ra những kinh nghiệm
4
cho việc giải quyết các vấn đề quốc tế khác. Điều đó nói lên rằng việc
nghiên cứu lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề Đài Loan khơng
chỉ có ý nghĩa khoa học mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Cho đến nay, vấn đề Đài Loan vẫn chưa được giải quyết một cách
triệt để, đồng thời đây vẫn sẽ là một trong những vấn đề chi phối quan hệ
của các nước lớn ở khu vực và trên thế giới. Chính vì thế, nghiên cứu về
lập trường quan điểm củả Mỹ - Nhật về vấn đề Đài Loan là vấn đề có tính
thời sự. Đây cũng là vấn đề sẽ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới.
Với những ý nghĩa khoa
học thực tiễn nêu trên chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Quan điểm
của Mỹ - Nhật các bên liên quan đối với “vấn đề hai bờ Eo biển Đài
Loan” từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” để làm khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói Đài Loan là nơi hội tụ những lợi ích chiến lược của nhiều
nước như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Liên Xô… Do vậy vấn đề giữa hai
bờ Eo biển Đài Loan là vấn đề mang tính thời sự nóng bỏng. Từ khi nảy
sinh vấn đề Đài Loan, các nhà nghiên cứu về vấn đề này, trong đó các cơng
trình nghiên cứu đề cập đến chính sách của các nước lớn đến vấn đề Đài
Loan chiếm một khối lượng tương đối lớn.
Khi đề cập đến vấn đề lập trường, quan điểm của các nước lớn về
vấn đề Đài Loan, các nhà nghiên cứu đã tùy thuộc theo cách tiếp cận khác
nhau để đưa ra những nhận xét đánh giá, cũng như những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu. Trong điều kiện thời gian, khả năng nghiên cứu cịn
hạn chế, chúng tơi đã tiếp cận được một số cơng trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài như: Về nguồn gốc của vấn đề Đài Loan, đã được đề cập
trong nhiêu tác phẩm như “Sách trắng về vấn đề Đài Loan và sự thống nhất
5
Trung Quốc” do Văn phòng các vấn đề Đài Loan phát hành ( TLTKĐB
ngày 6,7,8,9 tháng 10 1993, TTXVN); Những sự kiện quan trọng trong
quan hệ Mỹ - Trung của Phi Bằng, NXB Trẻ - Hà Nội, 2001; Chiến tranh
lạnh và di sản của nó của tác giả Trương Tiểu Minh, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2002… Các tác phẩm nói trên đều cố gắng tập trung làm sáng
tỏ ngọn nguồn của vấn đề Đài Loan, về sự chia cắt giữa Đài Loan và Đại
Lục. Đặc biệt trong một vài tác phẩm đã trình bày sơ lược về lập trường
của Trung Quốc, Mỹ, Đài Loan… trong việc thống nhất Đài Loan. Về lập
trường, quan điểm và chính sách của các nước lớn trong việc giải quyết
vấn đề Đài Loan, đã được đề cập trong các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu
như: Đài Loan với vấn đề thống nhất hai bờ sau Chiến tranh lạnh của Vũ
Đức Dũng, luận văn Thạc sĩ, Học viện quan hệ Quốc tế, Hà Nội, 2004;
Cuộc đấu tranh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm thống nhất Đài
Loan vào Đại lục từ 1949 đến 2005, của Hắc Xuân Cảnh, Luận văn Thạc sĩ
Sử học Trường Đại học Vinh, 2006; Chiến lược toàn cầu của Mỹ và về vấn
đề Đài Loan của Tô Cách, Tạp chí “Nghiên cứu các vấn đề quốc tế”, số
07&08/2000; Trung Quốc cần đặt vấn đề Đài Loan trong đại chiến lược
tồn cầu để giải quyết, TTXVN ( HongKơng 13/7/2005; Đài Loan trong
chiến lược của Nga, TĐB 1709.003 tài liệu tham khảo Chủ nhật, TTXVN,
2009… Cơng trình nghiên cứu khoa học của Trần Thị Hằng về “ Lập
trường của các nước lớn về vấn đề Đài Loan từ sau chiến tranh thế giới
thư hai đến năm 1991” Các bài nghiên cứu nói trên các tác giả đã khái qt
và phân tích sự thay đổi quan điểm, lập trường của các nước lớn trong giải
quyết vấn đề Đài Loan. Đó là những cứ liệu quan trọng cho chúng ta phân
tích, đánh giá khách quan khoa học hơn về việc giải quyết vấn đề Đài
Loan.
Nhìn chung, tùy theo cách tiếp cận riêng của mỗi tác giả, mà những
cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến những khía cạnh góc độ khác
6
nhau của đề tài mà chúng tơi nghiên cứu. Đó là nguồn tư liệu q giá, bổ
ích cho chúng tơi khi tiến hành đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, theo
chúng tôi nhận thấy cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề Đài Loan từ sau Chiến
tranh lạnh đến nay. Thực hiện đề tài này, chúng tơi mong muốn góp một
phần làm rõ hơn về lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề hai bờ
Eo biển Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh tới nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Thơng qua đề tài nghiên cứu, khóa luận mong muốn làm sáng tỏ hơn
về nguồn gốc của vấn đề Đài Loan, lập trường quan điểm của các nước lớn
trong vấn đề này. Thơng qua việc phân tích lập trường quan điểm của các
nước lớn về vấn đề Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, chúng tôi sẽ
làm rõ hơn bối cảnh, nguyên nhân tác động cũng như sự chuyển biến về lập
trường và chính sách trong q trình giải quyết vấn đề Đài Loan, các chính
sách lớn áp dụng và các chính sách riêng của Đài Loan trong quá trình phát
triển và ổn định khu vực.
Từ việc tìm hiểu về lập trường, quan điểm của các nước lớn về vấn
đề Đài Loan đề tài còn nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc
giải quyết những vấn đề xung đột, mâu thuẫn ở quốc gia và khu vực.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Sưu tầm, tập hợp, xử lý các nguồn tư liệu, đồng thời trên cơ sở phân
tích đánh giá các sự kiện, đề tài sẽ đi sâu làm rõ những tác động của khu
vực và các nước như: Mỹ, Nhật Bản… đến sự phát triển của vấn đề Đài
Loan. Tổng hợp và phân tích các quan điểm lập trường của các nước lớn
7
trong vấn đề Đài Loan, từ đó đưa ra nhận định đánh giá về sự phát triển đất
nước ổn định khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lập trường của các nước lớn về
vấn đề Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh tới nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu lập trường quan điểm và
chính sách của các bên có liên quan đến việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
Tuy nhiên để làm rõ vấn đề chính cần nghiên cứu, chúng tơi đề cập tới
những vấn đề cơ bản sau:
-
Những nhân tố chi phối đến vấn đề Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh tới
nay.
-
Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật đối với vấn đề hai bờ Eo biển Đài
Loan
- Triển vọng của vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan.
Về không gian: Do vấn đề Đài Loan có liên quan đến nhiều nước ở
khu vực cũng như trên thế giới, nên ở đây chúng tôi chỉ nghiên cứu lập
trường quan điểm của các nước lớn và những bên có liên quan trực tiếp đến
vấn đề này. Các nước lớn mà đề tài nghiên cứu bao gồm: Mỹ, Nhật Bản.
Các bên có liên quan trực tiếp, bao gồm: Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,
chính quyền Đài Loan.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu lập trường quan điểm của các nước
lớn từ sau Chiến tranh lạnh năm 1991 đến nay tức năm 2014.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình, chúng tơi đã sử dụng các
nguồn tài liệu và các sách tham khảo như: Các cơng trình nghiên cứu của
8
các tác giả đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc; các luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ lịch sử… Tài liệu là các sách của Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, NXB Trẻ, NXB Văn hóa Thơng tin… Đặc biệt chúng tôi đã khai
thác những thông tin của TTXVN. Nguồn tài liệu mà chúng tôi sử dụng
chủ yếu được viết bằng tiếng Việt hoặc đã được dịch sang tiếng Việt.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ nội dung chính cần nghiên cứu, chúng tơi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chính như Phương pháp duy vật lịch sử, phương
pháp lịch sử và phương pháp logic… để làm sáng rõ quan điểm, lập trường
của Mỹ - Nhật về vấn đề Đài Loan. Bên cạnh đó, chúng tơi cịn sử dụng các
phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp để so sánh và đưa ra những nhận
xét, đánh gá về lập trường quan điểm của các bên có liên quan trong q
trình giải quyết vấn đề Đài Loan.
6. Đóng góp của khóa luận
Thực tiễn của đề tài, khóa luận có những đóng góp chính sau đây:
- Làm rõ sự chuyển biến về lập trường quan điểm của các nước lớn
và các bên có liên quan đến vấn đề Đài Loan.
- Khóa luận là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về chính
sách của Mỹ, Trung Quốc… đối với Đài Loan, cũng như việc
nghiên cứu về quan hệ quốc tế ở khu vực.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh tới nay và
vấn đề Đài Loan.
Chƣơng 2: Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề hai bờ Eo biển
Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh đến nay.
9
Chƣơng 3: Một số nhận xét về tác động của quan điểm lập trường các
nước lớn đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan từ sau Chiến tranh
lạnh tới nay.
B: NỘI DUNG
CHƢƠNG I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC SAU CHIẾN
TRANH LẠNH TỚI NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐÀI LOAN.
1.1: Bối cảnh quốc tế
Sau trật tự hai cực Ianta tan tã, tình hình thế giới có nhiều diễn biến
thay đổi. Về mặt kinh tế, thế giới không còn sự đối đầu giữa hai hệ thống,
các nước xã hội chủ nghĩa cũng đang chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Như vậy là nền kinh tế thế giới đã được thống nhất, tạo điều kiện cho nền
kinh tế mỗi nước ngày càng phát triển ở tầm cao mới. Các cường quốc chú
trọng vào việc phát triển kinh tế để lấy lại vị thế đã mất của mình trong
Chiến tranh lạnh. Đặc biệt là xu thế tồn cầu hóa đưa tới sự phân cơng lao
động có quy mơ mới, thật sự rộng lớn bên cạnh đó cịn tạo điều kiện cho
các nước có cơ hội hội nhập và phát triển.
Hai khu vực kinh tế lớn thế giới là châu Á và châu Âu ngày càng có
nhiều liên kết với nhau kể từ sau Hội nghị cấp cao ASEM được tổ chức vào
tháng 3/1996. Thế giới khơng cịn là một cực một trung tâm mà đã có sự
thay đổi lớn lao đó là hình thành nên nhiều trung tâm, nhiều cường quốc
mới ra đời không chỉ mạnh về kinh tế mà còn mạnh về quân sự ...dẫn đến
sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa hầu hết các nước trên thế giới
ngày càng tăng và ngày càng có nhiều vấn đề thế giới cần sự đoàn kết cùng
nhau giải quyết.
Đặc biệt, đến những năm đầu thế kỉ XXI, tình hình thế giới có những
biến đổi to lớn: Q trình tồn cầu hóa diễn ra một cách mạnh mẽ khắp
10
tồn cầu, trong đó kinh tế thế giới mà đặc biệt là kinh tế khu vực châu Á –
Thái Bình Dương đã khôi phục và trên đà phát triển nhanh chóng. Thế giới
đang hình thành một trật tự “nhất siêu – đa cường” do Mỹ chi phối là lãnh
đạo. Bên cạnh đó là sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm thay đổi tương
quan lực lượng khơng hề có lợi cho Mỹ và đồng minh của Mỹ.
Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu nguyên nhiên liệu,
còn các nước phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu máy móc và thiết bị, phương
tiện vận tải. Sự phân công lao động khơng có lợi cho các nước đang phát
triển. Sự hình thành và phát triển của các cơng ty xun quốc gia ngày càng
lớn mạnh hơn gấp bội lần và khơng những thâu tóm lấy nền kinh tế trong
nước mà vươn ra cả thế giới. Bàn cờ thế giới đang dần được sắp xếp lại với
những thay đổi lớn mà nội bật nhất vẫn là đế quốc Mỹ.
Bất kể trong lịch sử hay là ngày nay, khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương đều là lợi ích trọng tâm của Mỹ. Từ khi lên cầm quyền đến nay,
chính quyền Obama đã không ngừng vạch ra kế hoạch và điều chỉnh chiến
lược an ninh Châu Á - Thái Bình Dương. Đến nay, chiến lược an ninh
Châu Á - Thái Bình Dương của chính quyền nhiệm kỳ này bước đầu đã
hình thành được bộ khung. Đồng thời dựa trên cơ sở đó phân tích những
ảnh hưởng của chiến lược này đối với quan hệ Trung – Mỹ và tình hình an
ninh Châu Á - Thái Bình Dương trong tương lai. Trong bối cảnh Liên Xơ
tan rã, Mĩ có tham vọng thiết lập một trật tự thế giới “đơn cực”, trong đó
Mĩ là siêu cường duy nhất đóng vai trị chi phối và lãnh đạo. Tuy nhiên, vụ
khủng bố 11 – 9 – 2001 làm nước Mĩ bị tổn thương, sẽ dẫn đến nhiều thay
đổi trong chính sách đối nội, đối ngoại của Mỹ.
Nếu trước đây chống khủng bố nằm trong một bộ phận nhỏ chính
sách đối ngoại của Mỹ thì sau sự kiện ngày 11/9 đã nhanh chóng một trong
những vấn đề quan trọng hàng đầu trong chiến lược và chính sách an ninh
đối ngoại của Mỹ. Mỹ cho rằng Mỹ không thể một mình đối đầu với lực
11
lượng khủng bố của thế giới. Chính vì vậy, Mỹ phải điều chỉnh lại chính
sách của mình, tỏ ra ơn hòa và hướng ngoại hơn, nhằm tập hợp lực lượng
để chống khủng bố.
Sau đó Mỹ đã triển khai chiến lược xoay trục hướng sang Châu Á.
Có thể khẳng định chính sách xoay trục cuả Mỹ là trọng tâm trong giai
đoạn này và có sự tác động sâu sắc tới khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương. Chính xác xoay trục, “tái cấu trúc” hay “tái cân bằng” đều có một
nội hàm gần như tương đồng nhau, thể hiện sự chuyến hướng chiến lược
mang tính quốc gia, dù là lớn hay nhỏ trong năm 2013. Khái niệm này
không phải mới xuất hiện. Tháng 7/2009, khi đặt bút kí vào văn kiện xác
nhận Mỹ tham gia “Hiệp ước thân thiện và hợp tác khu vực Đơng Nam Á”
ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Hillary Clinton đã tuyên bố “Chúng tôi đang
quay lại Đông Á”.
Tháng 10/2011, trong một bài viết đăng trên tạp chí “Chính sách đối
ngoại” ngoại trưởng Mỹ Hillary đã đề cập tới việc “xoay trục” chiến lược
ngoại giao và quân sự của Mỹ sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương,
như là thế kỷ mở đầu sang Thái bình Dương của Mỹ. Qua con mắt của bà
Ngoại trưởng Mỹ, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nơi tập trung nhiều
đối tác của Mỹ. Sẽ tạo ra cơ hội lớn cho nước Mỹ không chỉ việc khân
trương tầm ảnh hưởng an ninh – chính trị các căn cứ quân sự mà còn tăng
khả năng tăng cường đầu tư, thương mại, tiếp cận khoa học – cơng nghệ...
Chính những diễn biến trong thời gian gần đây ở Châu Á – Thái
Bình Dương đã tạo điều kiện cho phép Mỹ thực hiện tái xác lập lực lượng,
kèm theo nó là khơng gian ảnh hưởng, trên cái nền của căng thẳng khu vực.
Nhưng Đông Bắc Á của 2013, mới là địa bàn có thể giúp Mỹ mạnh dạn
triển khai kế hoạch “xoay trục” để “tái cân bằng” lực lượng ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.
12
Chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ ở khu vực này không chỉ giới hạn
ở việc điều chuyển các lực lượng quân đội sang khu vực này mà theo dự
tính đến năm 2020, Mỹ sẽ hồn tất việc bố trí tới 60% số tàu chiến trong
tổng số biên chế tại đây. Còn là việc Mỹ tái thiết lập mối quan hệ với một
số nước đang nổi lên kể cả Trung Quốc, tham gia vào hầu hết các thể chế
đa phương trong khu vực, củng cố mối quan hệ hợp tác kinh tế với các đối
tác...
1.2: Bối cảnh khu vực
Khu vực Đông Bắc Á từ nhiều năm qua do các nguyên nhân khác
nhau đã trở thành địa bàn có nhiều diễn biến chính trị phức tạp, nhạy cảm
mà đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997 – 1998.
Hiện nay ở khu vực Đơng Bắc Á có ba trong bốn “con rồng” châu Á
đó là Đài Loan, Hơng Kơng, Hàn Quốc. Bên cạnh đó Nhật Bản nhanh
chóng trở thành trung tâm kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Với tốc độ tăng
trưởng kinh tế ngoạn mục. Đây được xem là khu vực đang ngày càng có
thu nhập GDP cao tốp đầu của thế giới.
Cùng với nhịp độ phát triển kinh tế thì các tranh chấp lãnh thổ và
một số mâu thuẫn cơ bản khác đang nổi cộm ở khu vực Đơng Bắc Á, Đó là
tranh chấp Nhật – Nga về 4 hịn đảo ở phía Nam quần đảo Kurile và ở phía
Bắc Nhật Bản; tranh chấp giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan về chủ
quyền đảo Điếu Ngư (người Nhật gọi là Senkaku). Đó là một số mâu thuẫn
đang nổi cộm như cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Bán đảo Triều Tiên; vấn
đề Eo biển Đài Loan; vấn đề thống nhất Bán đảo Triều Tiên...
Phải khẳng định rằng khu vực Đơng Bắc Á cịn có nhiều vấn đề mâu
thuẫn, xung đột nổi cộm, song điều cần thấy là do xu thế khu vực hóa, tồn
cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ đòi hỏi các nước và lãnh thổ bên cạnh sự
cạnh tranh quyết liệt vẫn cần phải hợp tác cùng phát triển. Xu hướng hợp
13
tác, dân chủ, tự do hóa trong đời sống kinh tế - chính trị khu vực do đó vẫn
tiếp tục là xu thế chủ yếu. Chính vì thế, các vấn đề tranh chấp lãnh thổ,
khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề Đài Loan, tranh
chấp biển Đông… dù có diễn biến phức tạp, nan giải đến đâu, song chắc
chắn không thể áp đảo được xu thế hợp tác cùng tồn tại phát triển. Đó như
là một nhu cầu tất yếu của các nước và vùng lãnh thổ ở đây.
Bước sang thế kỉ XXI, thế giới càng chứng kiến sự phát triển mang
tính chất ngoạn mục của Trung Quốc. Bên cạnh đó tại kì họp quốc hội thứ
I, năm 2003, toàn bộ ban lãnh đạo cũ của Trung Quốc đã rời chính trường
và nhường chỗ cho thế hệ lãnh đạo mới mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Cẩm
Đào. Đây là đội ngũ được chọn lọc một cách nghiêm ngặt của Đảng Cộng
sản với phương châm “bốn hoa” nghĩa là: trẻ hóa, tri thức hóa, chun mơn
hóa, và cách mạng hóa. Như vậy, từ sự phát triển kinh tế ngày lớn mạnh
cùng với sự hùng mạnh về quân sự và sự thay đổi to lớn về chính trị đã làm
cho các nước phương Tây lo ngại trong đó có Mỹ nên các nước lớn quyết
tâm đến cùng trong việc sử dụng “con bài” Đài Loan để đối trọng lại với
Trung Quốc và xem đó là “thượng sách” trong bối cảnh quốc tế lúc này.
Từ những bối cảnh trên từ những tính tốn cho lợi ích của từng quốc
gia của sự thay đổi từng ngày của tình hình khu vực Đơng Bắc Á để thấy
những khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp mà đặc biệt nổi bật lên
trong đó là việc thống nhất của Trung Quốc Đại Lục trong việc thu hồi Đài
Loan. Trong khi Trung Quốc đang dần mạnh lên điều đó càng đặt ra vấn đề
cần nhanh chóng giải quyết vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan để đưa giang
sơn thu về một mối. Nếu thực hiện bằng con đường hịa bình khơng thành
cơng thì Trung Quốc có khả năng sử dụng bạo lực là rất cao. Vấn đề Đài
Loan đã và đang chịu sự chi phối sâu sắc của bối cảnh quốc tế và khu vực.
1.3. Vấn đề Đài Loan trong Chiến tranh lạnh
14
1.3.1: Cội nguồn của vấn đề Đài Loan
Từ thực tế lịch sử đã chứng minh Đài Loan là một bộ phận – một
tỉnh cấu thành nên Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch đã từng phát biểu :
“Chính phủ Trung ương coi Đài Loan như anh em 50 năm xa cách gia đình,
lịng u mến của Trung ương đối với Đài Loan rất nhiều so với bất kì một
tỉnh nào khác...” Thực tế cho thấy rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai Đài
Loan là một tỉnh của Trung Quốc. Và nếu khơng có sự can thiệp của Mỹ,
Nhật Bản và các nước phương Tây vào công việc nội bộ của Trung Quốc từ
sau năm 1945 thì Trung Quốc đã thống nhất được về mặt lãnh thổ và Đài
Loan khơng cịn là vấn đề “nóng bỏng” và ln bị chi phối bởi các chính
sách của các nước lớn như Mỹ, Nhật hay bất kì một nước phương Tây nào.
Sau thắng lợi của của cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước, vấn
đề “vận mệnh của Trung Quốc” trong tương lai được đặt ra trước hàng trăm
triệu người dân Trung Quốc. Tuyệt đại bộ phận quần chúng nhân dân đã
chịu nhiều đau khổ trong chiến tranh chống ngoại xâm và nội chiến mấy
chục năm qua, hi vọng được sống trong hịa bình xây dựng một nước Trung
Hoa mới dân chủ và hòa hợp dân tộc. Những nổ lực tranh thủ hịa bình, loại
trừ nội chiến đã không đi đến kết quả như mong muốn. Sau khi chiến tranh
chống nhật kết thúc không lâu, Trung Quốc lại bước vào cuôc nội chiến lần
thứ ba ( 1947 – 1949) mà lịch sử gọi là cuộc “Chiến tranh giải
phóng”[16,95].
Ngày 26 – 6 1946, cuộc tấn cơng quy mơ lớn của Quốc dân Đảng
vào vùng giải phóng Trung Nguyên đã mở đầu cuộc nội chiến Quốc –
Cộng ở Trung Quốc. Khi nội chiến bùng nổ lực lượng của Quốc dân Đảng
có khoảng 4,3 được trang bị vũ khí hiện đại do Mỹ cung cấp, trong khi lực
lượng của Đảng Cộng sản có khoảng 1,27 triệu bình qn, được trang bị
tương đối thô sơ. Dựa vào ưu thế quân sự, Tưởng Giới Thạch và tham mưu
15
trưởng Trần Thành đã dự tính sẽ dành thắng lợi trong vòng 3 đến 6 tháng.
Nhưng những diễn tiến của cuộc nội chiến khơng diễn ra như dự kiến.
Q trình nội chiến Quốc – Cộng lần ba diễn hai giai đoạn. Đầu
tháng 4 – 1949, tại Bắc Kinh, đã diễn ra cuộc đàm phán giữa đoàn đại biểu
của Đảng Cộng sản do Chu Ân Lai lãnh đạo và đoàn đại biểu của chính
phủ Quốc dân Đảng do Trương Tự Trọng cầm đầu. Phía Quốc dân Đảng đề
nghị “đình chiến tại chỗ”, lấy sông Trường Giang làm ranh giới phân đôi
Trung Quốc để đạt tới một nền “hịa bình trong danh dự”. Đảng Cộng sản
không thể đồng ý với phương án đó. Cuộc đàm phán thất bại.
Trước thất bại của Quốc dân Đảng, Mỹ mất lòng tin vào Tưởng Giới
Thạch dở trị “nhường ngơi” cho Lý Tơn Nhân đem theo một số lượng lớn
của cải (2.717.500 lượng vàng, 152.000.000 đồng tiền bạc, 15.347.000
USD gửi ngân hàng Mỹ), cùng với một lực lượng lớn quân 300.000 với vũ
khí ra cố thủ ở đảo Đài Loan với ý đồ “phản công Đại Lục”. Với sự chuẩn
bị chu đáo như vậy, ngay từ bước đầu đã đứng vững được ở Đài Loan nên
trước khi bố trí đường rút lui ra Đài Loan Tưởng từng nói “Trước sự xâm
lược của đế quốc Nga, thà mất tất cả Đại Lục, cịn Đài Loan thì khơng thể
khơng giữ”, “Chỉ cần có Đài Loan, Đảng Cộng sản sẽ khơng làm được gì
chúng ta, ngay cả khi tồn bộ Đại Lục bị Đảng Cộng sản chiếm, chỉ cần giữ
được Đài Loan thì ta có thể khơi phục được Đại Lục”
Ngày 21 – 9 1949, Hội nghị hiệp thương chính trị đã họp phiên họp
đầu tiên thông qua “Cương lĩnh chung”, có tính chất như cương lĩnh tạm
thời, bầu các thành viên của Trung ương do Mao Trạch Đông làm chủ tịch,
các bên là chủ tịch là Chu Đức, Lưu Thiếu Kì, Tống Khánh Linh, Lý Tế
Thâm, Trương Lan, Cao Cường, quyết định lấy Bắc Bình( đổi tên Bắc
Kinh) cờ đỏ năm sao là quốc kì của nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa.
16
Ngày 1 – 10 – 1949, tại cuộc mít tinh hơn 30 vạn nhân dân Bắc Kinh
lên quảng trưởng Thiên An Môn lịch sử, chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh
trọng tuyên bố thế giới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa – một quốc gia rộng lớn. Đây thực sự là một sự kiện
ý nghĩa lịch sử trọng đại của nhân dân các dân tộc Trung Quốc trong cuộc
đấu tranh chống chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân và các thế lực phản
động khác, vì độc lập dân tộc dân chủ nhân dân, mở đương đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Cuối tháng 12 – 1949, sau khi cuộc nội chiến ở Trung Quốc kết thúc,
chính quyền Tưởng Giới Thạch rút khỏi Đại Lục chạy ra Đài Loan; bắt đầu
từ đây Đài loan trở thành vấn đề nhức nhối trong việc thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Trung Quốc và nếu khơng có sự ca thiệp của các nước lớn
đối với cơng việc giải phóng Đài Loan của Trung Quốc thì vấn đề Đài
Loan sẽ khơng có gì để bàn luận và không trở thành vấn đề nhạy cảm trong
quan hệ giữa Trung Quốc – Đài Loan và các cường quốc khác can thiệp
vào đây.
Sau khi rút chạy ra Đài Loan, Quốc dân Đảng gặp phải rất nhiều khó
khăn tuy có một số của cải rất lớn như: qn đội yếu kém, phần lớn là tàn
binh, khơng cịn ý chí chiến đấu. Kinh tế Đài Loan vốn có xuất phát điểm
rất thấp, nay phải gánh thêm hơn hai triệu người từ Đại Lục tràn ra nên
“vấn đề phản cơng đất liền” là hồn tồn vơ vọng. Chính quyền Tưởng lúc
đó rất cần viện trợ để giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội cũng như nuôi
dưỡng quân đội đủ sức chiến đấu chống lại sự tiến công của quân giải
phóng Trung Quốc và các mối đe dọa tiềm lực bên trong khác. Do biết
không thể chiến thắng quân đội lục địa bằng quân sự, Đài Loan đã lựa chọn
con đường phát triển kinh tế, ổn định xã hội và coi đây là con đường duy
nhất trong cuộc chiến “ai thắng ai”. Để có thể thực hiện mục tiêu trên,
17
chính quyền của Tưởng Giới Thạch cần một “cái ơ” che chở. “Cái ơ” hi
vọng đó là Mỹ. Được sự giúp đỡ của Mỹ, ngày 10 – 10 – 1949, Tưởng Giới
Thạch đã tuyên bố thành lập nước Trung Hoa dân quốc ở Đài Loan.
Như vậy, sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc
quân Tưởng rút chạy ra Đài Loan. Sự ra đời và tồn tại của Trung Hoa dân
quốc đặt ra vấn đề thống nhất của người Trung Quốc. Từ hồn cảnh lịch sử
nói trên đã đưa đến việc hình thành “vấn đề Đài Loan”.
Việc lựa chọn chính sách theo Mỹ của Tưởng Giới Thạch không chỉ
tranh thủ sự hỗ trợ của Mỹ để phát triển kinh tế, cũng cố chính quyền... mà
cịn theo đuổi một ý đồ khác đó là lơi kéo Mỹ vào cuộc xung đột Quốc –
Cộng, khoét sâu mâu thuẫn Mỹ Trung để buộc Mỹ có sự lựa chọn đối với
Đài Loan. Ngược lại nhìn vấn đề từ góc độ Mỹ, Mỹ cũng muốn rắp tâm
phá hoại nước xã hội còn non trẻ và trong thâm tâm Mỹ chưa bao giờ muốn
Trung Quốc được thống nhất theo đúng nghĩa của nó.
1.3.2: Quan điểm của các nƣớc đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài
Loan trong Chiến tranh lạnh
Ngay sau khi vấn đề Đài Loan xuất hiện, liền sau đó các nước lớn đã
có những phản ứng với vấn đề này tuy ở các mức độ khác nhau. Mỗi nước
đều có những quan điểm thái độ khác nhau đối với vấn đề Đài Loan.
Đối với Trung Quốc: Với lập trường Đài Loan là một tỉnh của Trung
Quốc nên Trung Quốc Đại Lục ln muốn thu hồi Đài Loan. Vì khơng
muốn có chiến tranh và đổ máu nên Trung Quốc vẫn ln kiên trì chính
sách thu hồi bằng con đường hịa bình giống như Hong Kong hay Ma Cao
“một nước hai chế độ”. Tuy nhiên, đã có nhiều lần sóng gió cũng như một
số cuộc khủng hoảng và tưởng chừng như chiến tranh có thể nổ ra và Đại
Lục có thể kéo quân ra đảo Đài Loan, ấy thế nhưng lại được dàn xếp ổn
18
thỏa ngay sau đó, cơn sóng gió lại qua đi. Trong Chiến tranh lạnh đã có
nhiều quan điểm của các cường quốc đối với vấn đề Đài Loan.
Đối với Mỹ:
Để thực hiện mục tiêu chiến lược của mình, ngay sau chiến tranh thế
giới thứ hai, Mỹ từng bước can thiệp vào Đài Loan. Những chính sách,
quan điểm của Mỹ ngày càng tăng lên sau khi Mỹ trở thành siêu cường số
một thế giới về mọi mặt.
Sau khi cách mạng Trung Quốc thành cơng, nước Cộng hịa Nhân
dân Trung Hoa ra đời, Mỹ cho rằng việc viện trợ cho Đài Loan có thể ngăn
chặn được “Đài Loan lọt vào tay Cộng sản”. Chính vì vậy, tháng 10/1949,
Mỹ đã tài trợ cho Quốc dân đảng 75 triệu USD để đủ sức tấn cơng lại Đại
Lục. Bên cạnh đó giới cầm quyền Mỹ đã sử dụng biện pháp ngoại giao,
thông qua Liên Hợp Quốc để giải quyết vấn đề Đài Loan theo lập trường
của Mỹ.
Đầu năm 1950, nhằm thực hiện mục đích cơ lập Liên Xô, lúc này
Tổng thống Truman tuyên bố coi Đài Loan là công việc nội bộ của Trung
Quốc mà khơng liên quan gì tới Mỹ. Điều đó có nghĩa nếu Đảng Cộng sản
Trung Quốc tấn cơng Đài Loan thì Mỹ sẽ không can thiệp và không tham
chiến. Tuy nhiên, sau hiệp ước hữu nghị Xô – Trung năm 1950 Mỹ cho
rằng giao Đài Loan cho Trung Quốc thì cũng như giao cho Liên Xơ nên từ
sau đó quan điểm của Mỹ đối với Đài Loan luôn luôn thay đổi. Mỹ đã tăng
viện trợ đưa cố vấn tới Đài Loan, các tướng lĩnh của Mỹ cũng bí mật đến
Đài Loan.
Khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Mỹ lại một lần nữa chú ý
tới Đài Loan “Chiến tranh Triều Tiên là một cái cớ để can thiệp vào Đài
Loan” . Sau khi Chiến tranh kết thúc, tại Hội nghị Gionevo, hầu hết các vấn
đề Đông Dương được giải quyết chỉ còn lại vấn đề Eo biển Đài Loan vẫn là
khu vực nhạy cảm. Chỉ trong vòng 4 năm từ năm 1950 đến năm 1954 Mỹ
19
đã viện trợ cho Đài Loan 1,4 tỉ USD, bên cạnh đó là chính sách ngăn chặn
và bao vây tồn diện Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đài Loan trở thành một
bộ phận hữu cơ khơng thể thiếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Ngay sau khi Kennodi lên cầm quyền thì Mỹ đã đẩy mạnh chính
sách kiềm chế bao vây Trung Quốc và có những biện pháp cứng rắn hơn
trong vấn đề Đài Loan, sau đó ít năm Mỹ thay đổi chính sách ngoại giao là
Mỹ vừa muốn quan hệ với Trung Quốc nhưng vừa không muốn mất đi ảnh
hưởng cũng như lợi ích của mình ở Eo biển.
Tuy nhiên, khi Nichxon lên làm Tổng thống thì đã lộ rõ âm mưu chia
cắt hai nước Trung Quốc đến cùng vì vậy Mỹ vẫn giữ lập trường hai mặt,
trong những năm 70, 71 Mỹ cơng khai thay đổi chính sách với Trung Quốc,
chuyển từ “bao vây, cấm vận” sang “đàm phán”. Mỹ đã khéo léo lôi kéo
được Trung Quốc tham gia vào Liên hợp Quốc tuy nhiên không ngừng theo
đuổi “ hai nước Trung Quốc”
Sự thay đổi liên tục trong quan điểm của các nhà lãnh đạo Mỹ làm
cho vấn đề Đài Loan trở nên phức tạp. Chưa bao giờ Mỹ muốn bất kì nước
nào trong phe xã hội chủ nghĩa được hịa bình nên Mỹ rắp tâm chống đối
đến cùng. Bề ngoài Mỹ thừa nhận “một nước Trung Quốc” nhưng bên
trong ngấm ngầm ủng hộ Đài Loan thông qua việc bn bán vũ khí cho Đài
Loan.
Đối với Nhật Bản:
Nhật Bản liên tục ủng hộ Đài Loan độc lập dưới các hình thức cơng
khai hoặc khơng cơng khai bởi Đài Loan có vị trí chiến lược hết sức quan
trọng với Nhật. Một khi Eo biển Đài Loan thống nhất, vùng biển Đài Loan
sẽ thuộc chủ quyền của Trung Quốc, yết hầu của Trung Quốc sẽ bị Trung
Quốc thu hồi.
Lợi ích quốc gia là vấn đề hàng đầu của Nhật trong chính sách đối
với Đài Loan. Nói cách khác nếu có chiến tranh xảy ra thì mức độ can thiệp
20
của Nhật vào Eo biển cũng mạnh mẽ không thua kém gì Mỹ. Tất nhiên
chúng ta khơng thể so sánh mức độ ảnh hưởng của Nhật ở Đài với Mỹ
được, nhưng nếu xem xét tất cả các yếu tố từ lịch sử, địa lý, hiện thực, động
cơ thì khả năng Nhật Bản can thiệp là rất lớn.
Nhật Bản có những hành động cụ thể với Đài Loan như: việc xác lập
“quan hệ với Đài Loan” đã sớm xác định về mặt chính trị và pháp luật.
Nhưng Nhật Bản đã khơng ngừng vượt qua giới hạn với phương thức tiên
tiến đã phát triển quan hệ chính trị và an ninh với nhà cầm quyền Đài Loan,
tăng thêm sự trở ngại cho công cuộc thống nhất của Đại Lục, tạo ra mối đe
dọa đối với an ninh của Trung Quốc.
Trong thời gian này, Mỹ và Nhật ra tuyên bố chung lần đầu tiên xác
định rõ sẽ coi hợp tác bảo vệ vùng biển Đài Loan sẽ là “mục tiêu chiến
lược chung”. Cục phịng vệ Nhật Bản từ lâu vì vấn đề Đài Loan tranh chấp
ở đảo Điếu Ngư và tranh cãi về mỏ dầu khí ở Đơng Hải. Trung – Nhật sẽ
thơng qua một cuộc chiến mới có thể phân chia thắng bại. Chính phủ Nhật
thể hiện lập trường cứng rắn của họ. Nhật Bản và Mỹ đã thống nhất tăng
cường liên minh hai nước theo hướng một loạt các mục tiêu an ninh chung
mới nhằm đối phó với sự thay đổi và bất ổn ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương.
Nhật Bản xúc tiến và tăng cường quan hệ hợp tác với Đài Loan và
coi đó là lá chắn trong việc bảo vệ lợi ích của mình. Việc duy trì nguyên
trạng hai bờ Eo biển là phù hợp với Nhật. Vì nếu Đài Loan trở về với Đại
Lục thì Nhật sẽ khó khăn trong việc giải quyết đảo Điếu Ngư; hơn nữa, Đài
Loan nằm trên tuyến đường giao thông vận tải chiến lược của Nhật vì vậy
việc tăng cường quan hệ với Đài không những giúp Nhật bản kiềm chế
Trung Quốc mà còn phát triển kinh tế.
21
CHƢƠNG 2: LẬP TRƢỜNG, QUAN ĐIỂM CỦA MỸ - NHẬT VÀ
CÁC BÊN LIÊN QUAN VỀ VẤN ĐỀ GIỮA HAI BỜ EO BIỂN ĐÀI
LOAN SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
2.1. Vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan từ sau Chiến tranh lạnh tới nay
Sau tuyên bố ngày 7 tháng 11 năm 1989 của tổng bí thư Đảng Cộng
sản Liên Xơ Goocbachop và tiếp đó là sự tan rã của chế độ xã hội ở Đông
Âu (1989 – 1990) và sự sụp đổ của Liên Xô (1991) đã làm thay đổi cục
diện của thế giới. Mỹ khơng cịn nhu cầu dùng Trung Quốc để kiềm chế
Liên Xô nữa, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất có tiềm năng kinh tế và
quân sự, nổi trội nhất so với các quốc gia khác trên thế giới nhưng Mỹ cũng
khơng cịn đủ sức mạnh để chi phối các nước kia. Trong khi đó sự trỗi dậy
của Trung Quốc đang trở thành vật cản đối với vị trí lãnh đạo thế giới của
Mỹ. Với dân số hơn một tỉ người và với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân 10% / năm, nhiều chuyên gia kinh tế, chính trị và quân sự trong tương
lai gần và sẽ là một đối tác thách thức của Mỹ trong trật tự thế giới mới.
Sau Chiến tranh lạnh xu hướng liên kết và li khai trên thế giới bắt
đầu tác động mạnh mẽ tới quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh đó nhiều nhóm
sắc tộc ở nhiều nước đã làm sống lại chủ nghĩa quốc gia, thúc đẩy các yêu
sách li khai: Liên Xô tan rã thành 15 nước, Tiệp Khắc bị phân chia thành
hai quốc gia riêng rẽ, Nam Tư cũng bị chia thành 3 nước nhỏ, Trung Quốc
và Đài Loan cũng khơng nằm ngồi guồng xốy đó, cũng chịu sự ảnh
hưởng chung của xu hướng này – xuất hiện khuynh hướng độc lập Đài
Loan.
Sau Chiến tranh lạnh vấn đề Đài Loan càng trở nên phức tạp, nổi
cộm hơn đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 19951996 mà vẫn thường gọi là cuộc khủng hoảng lần thứ ba.
22
Trung Quốc tiến hành diễn tập bắn tên lửa hàng loạt vào vùng lãnh
hải quanh Đài Loan, nhằm đe dọa ứng cử viên Tổng thống Đài Loan Lý
Đăng Huy đang có chính sách hướng đến độc lập cho lãnh thổ này.
Cuộc viếng thăm 1995 của Ông Lý Đăng Huy đến Hoa Kỳ
Khủng hoảng bắt đầu khi Tổng thống họ Lý theo lời mời đến trường Đại
học Cornell của Mỹ để trình bày về “kinh nghiệm dân chủ hóa Đài Loan”.
Trung Quốc đã phản đối và tố cáo ông đang thực hiện kế hoạch độc lập cho
Đài Loan. Trung Quốc được ngoại trưởng Hoa kỳ lúc bấy giờ Warren
Christopher đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ khơng có một quan hệ chính trị chính
thức nào với Đài Loan. Qua chuyến thăm “bị hạ thấp” của Tổng thống họ
Lý, đã gây chú ý cho nhiều nhân vật thân Đài Loan có có thế lực trong
Quốc hội Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1995, Quốc hội Hoa Kỳ ra một nghị quyết
áp đảo cho phép Tổng thống Đài Loan được thăm Hoa Kỳ, Tổng thống Lý
Đăng Huy đã thăm Mỹ từ ngày 9 - 10 tháng 6 năm 1995. Trung Quốc đã tố
cáo
Ông
là
kẻ
phản
bội
và
chia
rẻ
nhân
dân.
Trung Quốc diễn tập quân sự đe dọa Đài Loan. Ngày 7/ 7/1995, Tân
Hoa Xã loan tin từ ngày 21 - 26 tháng 7, Trung Quốc sẽ tiến hành thử 6 quả
tên lửa (4 tên lửa tầm ngắn, 2 tên lửa tầm trung; có khả năng mang đầu đạn
hạt nhân) tại vị trí phía bắc cách đảo Pengchiayu (Đài Loan) chừng 60 km
và cảnh báo các tàu thuyền tránh xa khu vực. Cùng lúc Trung Quốc cũng
điều động quân đội tại Phúc Kiến và phóng máy bay chiến đấu Jian - 8 dọc
bờ biển. Vào cuối tháng 7 đầu tháng 8, Tân Hoa Xã liên tục tố cáo Tổng
thống Đài Loan và chính sách của ơng. Sau đó, từ ngày 15 - 25 tháng 8
năm 1995, một cuộc tập trận khác diễn ra ở vùng biển Đơng Hoa, lần này
có qn đồn pháo số 2, một số lượng lớn chiến đấu cơ F7, F8 đóng cách
Đài Loan 460 km tham dự bắn đạn thật. Cơ quan tình báo Đài Loan cịn
cho biết Trung Quốc muốn phát động một cuộc tổng hợp đồng thao diễn
không – hải – bộ. Trung Quốc cho rằng đây là những cuộc thao dượt quân
23
sự bình thường, nhưng nó đã được cố ý cơng bố rộng rãi.
Hoa Kỳ đáp trả yếu ớt, hàng không mẫu hạm USS Nimitz chạy qua Eo biển
Đài Loan tháng 12/1995, vài tháng sau cuộc thao dượt của Trung Quốc.
Đây cũng là lần đầu tiên tàu chiến Hoa Kỳ hành động như vậy kể từ năm
1976, chuyến đi này chỉ được công bố sau 6 tuần lễ. Tuy nhiên, Tướng
Trung Quốc Xiong Guangkai đã nói với đặc sứ Mỹ rằng “Tận cùng vấn đề,
Hoa Kỳ nên quan tâm đến Los Angeles hơn là Đài Bắc” (ý nói Trung Quốc
có thể tấn công nguyên tử đến lãnh thổ Hoa Kỳ - Los Angeles). Những hoạt
động phía quân đội Trung Quốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế
Đài Loan: thị trưởng chứng khoán Đài Bắc giảm 1/3 điểm, gây thiệt hại
hơn
10
tỷ
USD.
Nhận thấy chiến thuật đe dọa quân sự mang đến tác động tâm lý
thuận lợi, Trung Quốc lần này quyết tận dụng tối đa cách hành xử này.
Trung Quốc muốn gửi một thông điệp đến dân chúng Đài Loan, nếu bầu
cho Ông Lý Đăng Huy nghĩa là chiến tranh. Cuộc tập trận thứ 3 diễn ra từ
ngày 8 - 15 tháng 3 năm 1996, (kết thúc trước cuộc bầu cử diễn ra ngày 23
tháng 3), các tên lửa được bắn trong phạm vi 40 - 55 km (vừa lọt lãnh hải
Đài Loan), ngồi khơi cảng Keelung (phía bắc đảo Đài Loan) và Cao Hùng
(phía nam đảo Đài Loan Ngày 8 tháng 3, Hoa Kỳ tun bố triển khai nhóm
hàng khơng mẫu hạm chiến đấu Independance, đang neo đậu ở tây Thái
Bình Dương, tiến vào vùng biển quốc tế ngoài khơi Đài Loan. Những ngày
sau, từ 12 – 20/3, Trung Quốc tiến hành tập trận gần quần đảo Bành Hồ.
Ngày 11 tháng 3 Hoa Kỳ triển khai nhóm hàng khơng mẫu hạm thứ
2 Nimitz, được điều động khẩn cấp từ vùng vịnh Ba tư (Persian) về
Ngày 15 tháng 3, căng thẳng lên cao, khi Trung Quốc tuyên bố từ 18/25
tháng 3 sẽ diễn tập đổ bộ. Việc phái 2 nhóm hàng khơng mẫu hạm tới
khơng chỉ mang tính biểu tượng ủng hộ Đài Loan, mà còn cho thấy Hoa Kỳ
sẵn sàng lâm trận. Chính quyền Đài Loan và đảng Dân Tiến chào mừng sự
24
có mặt của Hoa Kỳ cịn những nhóm chống đối và Trung Quốc thì cho rằng
đây là “sự can thiệp của nước ngoài”. Cuộc diễn tập của Trung Quốc lại
gây ra phản tác dụng. Người dân Đài Loan cảm thấy phẩn nộ hơn là lo sợ.
Phiếu bầu cho Ông Lý Đăng Huy tăng thêm 5% và chiếm đa số trong Quốc
hội. Đài Loan cũng tăng lượng mua vũ khí từ Hoa Kỳ, tăng cường mối
quan hệ quân sự với Hoa Kỳ và Nhật Bản, cũng như tăng cường vai trò của
Nhật
Bản
đối
việc
phòng
thủ
Đài
Loan.
Tuy vậy cuộc khủng hoảng đã để lại hậu quả khủng khiếp cho nền kinh tế
địa phương. Thị trường chứng khoán Đài Loan giảm 17% trong suốt cuộc
khủng hoảng. Sau đó, chính phủ Đài Loan phải bỏ ra hơn 18 tỷ USD để
phục hồi nền kinh tế.
Từ đó đến nay vấn đề Đài Loan vẫn tiếp tục diễn ra phức tạp, mà các
diễn biến của nó diễn ra lại phụ thuộc vào thái độ, quan điểm và lập trường
của các nước lớn và các nước trong khu vực. Đài Loan và Trung Quốc đã
có những va chạm với nhau và xảy ra những sóng gió nhưng rồi lại được
dàn xếp ổn thỏa ngay sau đó. Trong khi đó các nước lại lên tục điều chỉnh
chỉnh sách của mình với Đài loan để cho phù hợp với lợi ích dân tộc mình.
Đây chính là vấn đề mấu chốt nan giải trong việc giải quyết vấn đề Đài
Loan.
Gần đây có những dấu hiệu chuyển biến tích cực giữa quan hệ hai bờ
Eo biển Đài Loan, mới dây nhất có cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Đại Lục và
Đài Loan vào ngày 11/02/2014. Mở ra một tương lai chính trị mới cho cả
hai bờ Eo biển. Cuộc đàm phán ngày 11/02/2014 là lần đầu tiên trong lịch
sử, giữa hai bên kể từ khi cuộc nội chiến kết thúc 65 năm trước. Cuộc gặp
gỡ cấp cao mở ra một khả năng to lớn đối với mối quan hệ hai bờ Eo biển.
Và qua những hợp tác trên lĩnh vực kinh tế thì giống như một sợi dây vơ
hình gắn chặt quan hệ Đài Loan với Đại Lục.
25