Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Sự lãnh đạo của tỉnh ủy nghệ an đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.17 KB, 119 trang )

0

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CHẾ THỊ THANH

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY
NGHỆ AN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2016


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CHẾ THỊ THANH

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY
NGHỆ AN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ

Nghệ An, 2016


2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Vinh, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của thầy, cô giáo và đồng nghiệp.
Nhân dịp bảo vệ luận văn, tơi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng biết
ơn sâu sắc đến TS. Vũ Thị Phương Lê - người hướng dẫn khoa học đã trực tiếp
hướng dẫn nhiệt tình, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Trân trọng cảm ơn các thầy, cơ khoa Giáo dục chính trị, Khoa sau đại học,
Hội đồng khoa học của trường Đại học Vinh, Trung tâm Thông tin - Thư viện
Nguyễn Thúc Hào - Trường Đại học Vinh, Tỉnh ủy Nghệ An, Hội LHPN tỉnh
Nghệ An cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm giúp đỡ tơi trong q
trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, song luận văn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo, các
anh chị và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 7 năm 2016
Tác giả

Chế Thị Thanh


3


MỤC LỤC
Trang phụ bìa…………………………………………………………………...01
Lời cảm ơn……………………………………………………………………...02
Mục lục…………………………………………………………………………03
Danh mục các chữ viết tắt……………………………………………………...04
A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………….05
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………………….11

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY ĐỐI VỚI CƠNG
TÁC PHỤ NỮ……………………………………………………………………11

1.1. Vị trí, vai trị của phụ nữ và công tác phụ nữ……………………………...11
1.2. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với công tác phụ nữ…...24
1.3. Sự cần thiết của việc tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với công tác
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay………………………………………………..32
Chương 2. THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY NGHỆ AN
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ HIỆN NAY……………………………….38
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công
tác phụ nữ………………………………………………………………………38
2.2. Tình hình lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác phụ nữ……….46
2.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm………76
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA TỈNH ỦY NGHỆ AN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY……………………………………………………………83
3.1. Quan điểm về tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công
tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay……………………………………………83
3.2. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác
phụ nữ…………………………………………………………………………..87
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………………..107
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...109

PHỤ LỤC……………………………………………………………………………….114


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nghĩa của các chữ viết tắt

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

KHKT

Khoa học kỹ thuật


LHPN

Liên hiệp phụ nữ

TNXH

Tệ nạn xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phụ nữ giữ vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, qua mọi thời kỳ, phụ nữ
ln là lực lượng hùng hậu, có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác
phụ nữ nhằm phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ. Nhiều nghị quyết và
chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhiều
chính sách của Nhà nước ban hành đã tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc
đẩy bình đẳng giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức trong hệ thống

chính trị và tồn xã hội đã có chuyển biến tích cực trong cơng tác phụ nữ. Cơng
tác phụ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Nghệ An là một tỉnh có tỷ lệ nữ chiếm hơn 51% số người trong độ tuổi lao
động. Trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơng tác phụ nữ thời kỳ đổi mới, Tỉnh uỷ
Nghệ An đã cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động phù
hợp với đặc thù của tỉnh, lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ công tác phụ nữ. Nhận thức của cấp uỷ đảng, chính quyền, đồn thể,
các ngành về vị trí, vai trị của phụ nữ và cơng tác phụ nữ đã từng bước được
nâng lên. Các tầng lớp phụ nữ đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương,
đoàn kết, sáng tạo trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành tích trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng an ninh.
Tuy nhiên hiện nay, ở Nghệ An, công tác phụ nữ vẫn cịn nhiều hạn chế,
đồng thời lại ln có những vấn đề mới đặt ra với nhiều thách thức. Phụ nữ cịn
gặp nhiều khó khăn và chưa được quan tâm đúng mức. Nhận thức của một số
cấp ủy, của xã hội về cơng tác phụ nữ cịn hạn chế. Định hướng lãnh đạo, chính
sách, phương pháp cơng tác vận động phụ nữ ở một số nơi còn thiếu cụ thể, sát


6

hợp với từng đối tượng, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu mới. Tỷ lệ cán bộ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực vẫn còn thấp, chưa
tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Hiệu quả
hoạt động của Hội LHPN ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cịn hạn
chế. Trình độ văn hóa và chun mơn của một bộ phận phụ nữ cịn thấp. Tình
trạng phụ nữ thiếu việc làm hoặc chưa tạo được việc làm phù hợp còn lớn; sự
phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái vẫn xẩy ra ở nhiều nơi. Ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ phụ nữ mù chữ, nghèo còn cao, còn bị ràng buộc bởi
phong tục, tập quán lạc hậu. Phẩm chất đạo đức và một số giá trị truyền thống

tốt đẹp có phần bị mai một, lối sống thực dụng có xu hướng phát triển trong một
bộ phận phụ nữ. Tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình có chiều hướng gia tăng,...
Trước yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế nói
chung và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển của Nghệ An nói riêng,
cơng tác phụ nữ cần được tiếp tục nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc hơn trong
Đảng và trong xã hội. Để đẩy mạnh công tác phụ nữ, cần tăng cường sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác phụ nữ. Là cán bộ đang công tác tại Hội
LHPN tỉnh, tôi thấy cần thiết phải quan tâm nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn, đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với
công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay nhằm phát huy hơn nữa vai trò và tiềm
năng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; góp phần đẩy mạnh
tồn diện cơng cuộc đổi mới. Đây là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và có ý nghĩa cấp
bách.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Sự lãnh đạo của Tỉnh
ủy Nghệ An đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay”.
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên
cứu liên quan đến cơng tác phụ nữ và sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phụ
nữ. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố, trong đó có các cơng trình
tiêu biểu như sau:


7

Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2002) Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đức Hạt (2004), Nâng cao
năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội; Trường cán bộ phụ nữ Trung ương (2010), Tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội; Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
(2012), Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng về vấn đề đạo
đức và giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà nội; Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Chính trị khu vực 1 (2014), Tập bài giảng
xây dựng Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Thế Trung (chủ biên)
(2014), Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Cơng trình của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002) Phụ nữ Việt Nam
bước vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã đánh giá khá đầy đủ,
sâu sắc về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là những năm đổi mới, phụ nữ Việt
Nam đã có những bước trưởng thành và phát triển vượt bậc trong mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, gia đình và xã hội; nhằm biểu dương kịp thời những đơn vị và
cá nhân xuất sắc trong sự nghiệp phát triển, tiến bộ, nâng cao vai trò vị thế của
phụ nữ Việt Nam, làm hành trang để đi lên trong thiên niên kỷ mới.
Tác phẩm Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ
nữ và cơng tác phụ nữ của Nxb Phụ nữ (2012) đã giới thiệu những quan điểm,
chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới dạng tồn văn
hoặc trích dẫn, cung cấp những tư liệu quý, có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác phụ nữ.
Nguyễn Thị Nhật Thu (2015), Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo Hội liên
hiệp phụ nữ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động từ năm 1997 đến 2012,
Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã nghiên
cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với Hội liên hiệp phụ


8

nữ trong việc đổi mới, nội dung, phương thức hoạt động (1997-2012); khẳng
định những thành công, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân; đúc kết một số
kinh nghiệm để vận dụng vào lãnh đạo Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hải Dương
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong thời kỳ mới đạt hiệu quả hơn.
Các cơng trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã phần nào đề

cập về vai trò của phụ nữ, công tác phụ nữ, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
công tác phụ nữ, sự lãnh đạo của Đảng về cơng tác phụ nữ dưới nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên các cơng trình chưa nghiên cứu một cách hệ thống về sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với cơng tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
Ngồi ra, cịn có các bài báo, tạp chí tiêu biểu liên quan đến phụ nữ, công
tác phụ nữ, sự lãnh đạo Đảng đối với công tác phụ nữ như: Lê Thi (2004),
Nghiên cứu về người phụ nữ, về vấn đề giới và sự tham gia của các khoa học xã
hội nhân văn Việt Nam, Tạp chí Khoa học Con người (số 5); Hà Thị Khiết
(2012), Củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, nhà nước với
nhân dân - nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ
mới, Tạp chí Cộng sản, (số 831); Trần Vân Anh (2013), Bình đẳng giới - một số
vấn đề lý luận, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (số 3); Nguyễn Thị Minh Phương
(2013), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với chăm lo quyền lợi cho phụ nữ, Tạp
chí Văn hóa- Tư tưởng, (số 3); Nguyễn Thị Bình (2014), Bước tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam từ 2000-2010, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (số 2); Nguyễn Thị
Nhật Thu (2015), Một số quan điểm cơ bản của Đảng về công tác phụ nữ trong
thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 3). Phần lớn trong các bài báo, tạp
chí là những ý kiến, đánh giá, phân tích dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về
phụ nữ, công tác phụ nữ, sự lãnh đạo của Đảng về công tác phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay. Song các bài viết ngắn chưa đi sâu phân tích cụ thể về sự lãnh
đạo của Tỉnh ủy đối với cơng tác phụ nữ.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đây đã phần nào đề cập đến phụ
nữ, công tác phụ nữ và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ. Đây là


9

những tư liệu quý báu, giúp tác giả nghiên cứu kế thừa, chọn lọc những phương
pháp tốt nhất khi tiếp cận nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể vấn đề

“Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện
nay”. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa
thực tiễn. Đề tài nghiên cứu của tác giả khơng trùng lặp với các cơng trình đã
cơng bố.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với công tác phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối với công tác
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
Nghệ An đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Nghệ An đối
với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
Nghệ An đối với công tác phụ nữ trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn
2007 - 2015, định hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: phương


10

pháp lịch sử - lôgic; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích,

tổng hợp,...
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đề tài đã góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cấp uỷ Đảng, Hội liên hiệp phụ nữ các cấp ở Tỉnh Nghệ An nhằm
nâng cao chất lượng cơng tác phụ nữ. Đồng thời đề tài có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Chính trị và những ai quan tâm tìm hiểu
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương, 08 tiết.


11

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ
1.1. Vị trí, vai trị của phụ nữ và cơng tác phụ nữ
1.1.1. Khái niệm phụ nữ và nội dung công tác phụ nữ
1.1.1.1. Khái niệm phụ nữ
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu về phụ nữ, giới và phát triển thì:
“Phụ nữ là một phần nửa xã hội gồm những người mà về mặt sinh học thuộc
giống cái, phân biệt với nửa kia của xã hội thuộc giống đực” [2, tr.21].
Theo Quyền của phụ nữ và trẻ em trong một số văn bản pháp lý quốc tế
và pháp luật Việt Nam khẳng định: “Phụ nữ là một nhóm xã hội hết sức quan
trọng, đặc biệt dễ bị tổn thương nhưng trong thời kỳ dài của lịch sử đã không
được quan tâm bảo vệ” [8,tr.12].

Ở nhiều nước trên thế giới, phụ nữ là một bộ phận quan trọng của xã hội,
dân tộc. Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là bộ
phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội.
Phụ nữ là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của xã
hội trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ
đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống. Phụ nữ luôn thể
hiện vai trị khơng thể thiếu của mình trong lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là:
Trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp
sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ tái sản xuất ra của cải
vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra bản thân của con người để duy trì và
phát triển xã hội.


12

Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trị sáng tạo nền văn
hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có
sự tham gia bằng nhiều hình thức của đơng đảo phụ nữ.
Song song với những hoạt động góp phần sáng tạo ra mọi của cải vật chất
và tinh thần, phụ nữ cịn tích cực tham gia đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải
phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại.
Tóm lại, phụ nữ là một nửa xã hội gồm những người mà về mặt sinh học
thuộc giống cái, đặc biệt họ rất dễ bị tổn thương, họ là một nhóm người hết sức
quan trọng trong xã hội, thuộc mọi giai cấp, dân tộc, mọi tầng lớp xã hội; tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc;
trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội; có vai trị to lớn đối với sự
phát triển của xã hội.
1.1.1.2. Nội dung công tác phụ nữ
Ở Việt Nam, công tác phụ nữ là hệ thống các hoạt động của tổ chức Đảng
và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và tồn xã hội tác động đến phụ nữ,

nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tập hợp, phát huy vai trị của phụ nữ thực hiện nhiệm
vụ chính trị của Đảng và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chủ thể công tác phụ nữ ở Việt Nam bao gồm: Tổ chức Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội LHPN và các đoàn thể nhân dân khác,
các tổ chức xã hội và mỗi công dân. Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó Hội LHPN
là tổ chức nịng cốt, chuyên trách công tác vấn đề phụ nữ, trực tiếp tiến hành vận
động, tập hợp phụ nữ. Đối tượng công tác phụ nữ bao gồm mọi tầng lớp phụ nữ.
Mục đích của cơng tác phụ nữ là giáo dục, bồi dưỡng, tập hợp, phát huy vai trò
của phụ nữ thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và góp phần xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Nội dung công tác phụ nữ bao gồm:


13

- Tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của phụ nữ như: giáo
dục chính trị - tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, giáo dục phẩm chất đạo đức và lối sống, nâng cao trình độ văn hố, khoa
học kỹ thuật. Đồng thời vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Tập hợp phụ nữ vào các loại hình tổ chức và hoạt động như: Các đồn
thể chính trị - xã hội (chủ yếu là tham gia vào Hội LHPN), các tổ chức xã hội,
các hoạt động đa dạng như câu lạc bộ, các hoạt động phong trào...Vận động, hỗ
trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển kinh tế, giảm nghèo bền
vững.
- Phát huy tiềm năng và vai trò của phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội và quốc phòng an ninh, thực hiện thắng lợi mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị ở

địa phương.
- Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp
phụ nữ: cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao vị trí xã hội cho phụ nữ,
phát huy quyền làm chủ, tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng về vị trí, vai trị của phụ nữ và công tác phụ nữ
1.1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vị trí, vai trị của phụ nữ và cơng tác phụ nữ
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Trong lịch sử nhân
loại khơng có một phong trào to lớn nào của những người áp bức mà lại khơng
có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là người bị áp bức nhất trong tất
cả những người bị áp bức”[33, tr.60]. Qua đó thể hiện các nhà kinh điển đã đánh
giá rất cao về vị trí, vai trò của phụ nữ trong các cuộc cách mạng. Lịch sử phong
trào giải phóng của những người nơ lệ trên thế giới, đã ghi công hàng trăm, hàng


14

ngàn liệt sĩ nữ và anh hùng. Trong hàng ngũ những người đấu tranh giải phóng
nơng nơ cũng có hàng vạn phụ nữ lao động. Trong cuộc chiến đấu để xóa bỏ chế
độ quân chủ chuyên chế thiết lập nền cộng hịa tư sản thì lực lượng phụ nữ
chiếm một vị thế không nhỏ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã ca ngợi Phurie - nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng vĩ đại người Pháp thế kỷ XIX đã có tư tưởng tiến bộ
trong việc phê phán quan điểm phản động, phản tiến bộ của giai cấp tư sản về
vấn đề phụ nữ và giải phóng phụ nữ. Ph.Ăngghen viết: “Tuyệt diệu hơn nữa là
những lời ơng phê phán hình thức tư sản của quan hệ nam nữ và địa vị xã hội
của phụ nữ trong xã hội tư sản” [33, tr.92]. C.Mác đã khái quát: “Ai đã biết lịch
sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà khơng có phụ nữ giúp vào thì chắc
chắn khơng làm nổi, xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội
tiến bộ như thế nào” [34, tr.217].

V.I.Lênin khi nói về chính quyền Xơ viết và địa vị của người phụ nữ đã
khẳng định: “Khơng thể có và sẽ khơng bao giờ có tự do thực sự chừng nào phụ
nữ chưa được giải phóng khỏi đặc quyền mà luật pháp giành riêng cho nam giới,
chừng nào phụ nữ không những chưa được quyền tự do tham gia đời sống chính
trị nói chung, mà cũng chưa được quyền gánh vác một công việc thường xuyên
và chung cho hết thảy mọi người, thì chừng ấy, khơng những chưa nói đến chủ
nghĩa xã hội được, mà cũng chưa có thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ đầy
đủ và bền vững được” [31, tr.129].
Do xuất phát từ nhận thức, hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác- Lênin, về
vai trò của phụ nữ trong thế giới, đặc biệt là vai trò của phụ nữ Việt Nam trong
lịch sử dựng nước và giữ nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm có tư tưởng về giải
phóng phụ nữ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người đã gắn nhiệm vụ giải
phóng phụ nữ với giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Với quan điểm rất
cách mạng và khoa học, đầy tính nhân văn, người đã đánh giá đúng vai trò của
phụ nữ Việt Nam và quan tâm đặc biệt đến công tác phụ nữ. Người đã từng


15

nghiên cứu và rút ra kết luận “Xem trong lịch sử cách mạng chẳng có lần nào
khơng có đàn bà, con gái tham gia” [36, tr.504]. Ngay từ những năm 20 của thế
kỷ XX, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn thế giới
cách mệnh thành cơng, thì phải vận động đàn bà, con gái cơng nơng các nước”.
Người đánh giá cao vai trò và những cống hiến của phụ nữ Việt Nam trong cách
mạng dân tộc, dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thư gửi phụ
nữ nhân kỷ niệm ngày quốc tế phụ nữ 8/3 và khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm
1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ
nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ”. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chú trọng cơng tác phụ

vận, nhằm lơi cuốn phụ nữ tham gia cách mạng và xác định một trong những
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của cách mạng là giải phóng phụ nữ. Người khẳng
định “Nói phụ nữ là nói một nửa xã hội, nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [36, tr.458].
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, để phụ nữ tiến bộ thì trước tiên phải vận
động và làm cho họ thực hiện quyền bình đẳng về chính trị. Phải vận động và làm cho
phụ nữ được tham gia các hoạt động chính trị như quyền bầu cử, ứng cử, trở thành cán
bộ lãnh đạo, tham gia quản lý nhà nước một cách bình đẳng như nam giới, có quyền tự
do ngơn luận, đi lại, cư trú và bình đẳng trước pháp luật. Trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ ngày mồng 3 tháng 9 năm 1945, Bác đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong
đó có tổng tuyển cử, xây dựng hiến pháp, có đoạn: “Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả cơng
dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tơn
giáo, dịng giống”[35, tr.8]. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử, toàn
thể phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên được cầm lá phiếu trên tay trực tiếp bầu cử
những người có đức có tài đại diện cho mình trong chính quyền cách mạng. Lần đầu
tiên, phụ nữ nước ta đi thực hiện quyền cơng dân của mình. Như vậy có thể nói, đàn
bà đã bình đẳng với đàn ơng về mặt chính trị.


16

Trong lời phát biểu tại phiên họp bế mạc Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I nước
Việt Nam dân chủ cộng hịa, Hồ Chí Minh viết: “Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế
giới phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung
mọi quyền tự do của một công dân” [35, tr.440]. Đây là một trong những cơ sở pháp
lý cao nhất để bảo đảm tự do trong cuộc sống của phụ nữ. Bằng rất nhiều các chỉ đạo,
mở rộng và phát triển trong Hiến pháp sửa đổi năm 1959, tại một số điều như điều 24 chương III, điều 56, 57, 58 đã chứng tỏ hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người rất quan tâm
tới sự tiến bộ cho phụ nữ trên phương diện chính trị.
Trên cơ sở Hiến pháp, Người chỉ đạo, triển khai quyền lợi cho phụ nữ trong

thực tế đời sống. Người một mặt ghi nhận những việc làm mang lại quyền lợi chính trị
cho chị em, mặt khác luôn động viên phụ nữ ở mọi nơi phải cố gắng, phải vươn lên vì
cơng việc, vì bình quyền: “Nước ta đã được độc lập, nam nữ được bình quyền, việc
lớn, việc nhỏ đều cần cân nhắc phụ nữ, nên phụ nữ phải cố gắng” [37, tr.336]. Người
cho rằng “Phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ
nữ” [39, tr.451], chỉ có như vậy về phương diện chính trị phụ nữ mới có thể “bình
quyền” với nam giới được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trị của phụ nữ, là do Người thấu
hiểu rất rõ khả năng làm việc to lớn của phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội. Người đã chỉ rõ: Đảng ta muốn thật sự giải phóng phụ
nữ thì phải bằng pháp luật, chính sách, biện pháp cụ thể và từ nay, các cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ, phải căn cứ trình
độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn, phải thật sự
giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”.
Hồ Chí Minh ln cho rằng: Khơng ai hiểu phụ nữ bằng phụ nữ. Do vậy,
muốn vận động, bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ phải thành lập tổ chức của phụ nữ. Theo
Hồ Chí Minh, mỗi Đảng Cộng sản phải có Bộ phụ nữ trực thuộc phụ nữ Quốc
tế. Người đề cao vai trò của phụ nữ Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội. Phụ nữ Việt Nam được tạo điều kiện tham gia vào bộ máy điều


17

hành và quản lý đất nước, vì vậy phụ nữ phải ý thức vai trị, vị thế của mình để
phấn đấu cho bản thân và dân tộc. Người đã chỉ cho phụ nữ Việt Nam thấy rằng,
muốn có bình đẳng thực sự, không nên chỉ trông chờ vào người khác mà bản
thân chị em phải có chí khí tự cường, tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi
của mình.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trị của phụ nữ và công tác phụ nữ
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã nhận thức đúng vai trò, vị trí, tầm quan

trọng của phụ nữ và cơng tác phụ vận. Đảng đã coi trọng mục tiêu giải phóng
phụ nữ, thực hiện nam, nữ bình đẳng, đặt sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền
với sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng đã tổ chức những đoàn thể phụ nữ mang tên gọi khác nhau: Hội phụ
nữ giải phóng (1931 - 1935); Hội Phụ nữ phản đế (1936 - 1938); Hội Phụ nữ dân
chủ (1939 - 1940); Đoàn Phụ nữ cứu quốc. Bác Hồ đã Chỉ thị thành lập Hội
LHPN Việt Nam tập hợp thống nhất mọi phụ nữ Việt Nam gia nhập liên đoàn
phụ nữ quốc tế (20/10/1946). Tờ báo “Tiếng gọi” là tiền thân của Báo Phụ nữ
Việt Nam ngày nay ra đời đầu năm 1948. Ngày 12-01-1960, Luật Hôn nhân và
gia đình được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành.
Trong Nghị quyết 153- NQ/TƯ ngày 10-1-1967 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã khẳng định: “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung
của tồn Đảng, của Nhà nước, của xã hội. Lực lượng phụ nữ, trong đó đội ngũ
xung kích là lực lượng cán bộ phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực, phải phát huy vai trị
chủ động của mình”. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta cũng khẳng định:
“Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và cơng tác phụ nữ là trách nhiệm của đảng và
các toàn thể nhân dân, của toàn xã hội và trong gia đình; Đường lối giải phóng
phụ nữ phải được thể chế hoá, cụ thể hoá trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính
sách của Đảng và Nhà nước, Hội LHPN Việt Nam là tổ chức đại diện cho lợi ích
của phụ nữ, là trung tâm tập hợp, đoàn kết phụ nữ Việt Nam, hướng dẫn và vận
động chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, vì sự phát triển và hạnh


18

phúc của phụ nữ, vì sự nghiệp đổi mới thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn luôn quan tâm
đến công tác phụ nữ và coi đó là một nhiệm vụ quan trọng. Ngày 27/3/1990, tại
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Nghị quyết

08B/NQ-HNTW đã khẳng định Hội LHPN Việt Nam là một trong những đồn
thể chính trị - xã hội của giai cấp và tầng lớp nhân dân do Đảng lãnh đạo; là
người đại diện, bảo vệ lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân, là trường học xã
hội chủ nghĩa của hội viên và là nịng cốt của phong trào cách mạng. Bộ Chính
trị đã ra Nghị quyết 04/BCT, ngày 12/7/1993 về: “Đổi mới và tăng cường cơng
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”. Trong đó, Nghị quyết đã đưa ra 3
quan điểm lớn là:
- Phụ nữ Việt Nam có truyền thống lịch sử vẻ vang, có những tiềm năng to
lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế xã
hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy
đầu tiên của con người.
- Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam
nữ bình đẳng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng
người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, có kiến thức, năng động sáng tạo, biết làm
giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích cộng đồng, có lịng nhân hậu.
- Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình.
Đồng thời, Nghị quyết 04 đã đề ra 6 công tác lớn về công tác phụ nữ trong
thời kỳ mới: Giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm
xã hội, bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi của phụ nữ; giáo dục, bồi dưỡng phẩm
chất, năng lực, nâng cao trình độ mọi mặt của phụ nữ, xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; cơng tác cán bộ nữ của Đảng: đổi mới nội dung,


19

tổ chức và phương hướng hoạt động của Hội LHPN Việt Nam; tăng cường công
tác phụ nữ của đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội.
Ngày 16/5/1994, Ban Bí thư tiếp tục ra Chỉ thị số 37/CT/TW “Một số vấn

đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Trong đó nhấn mạnh: Tiếp tục nâng
cao nhận thức, quan điểm của Đảng về vấn đề cán bộ nữ; có quy hoạch tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp, các
ngành; xây dựng chính sách tạo điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến
khích tài năng nữ phát triển; đẩy mạnh cơng tác phát triển đảng viên trong phụ
nữ”.
Mục tiêu, nhiệm vụ công tác phụ nữ của Đảng trong thời kỳ mới, đã được
Nhà nước thể chế hố thơng qua hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách nhằm
đảm bảo lợi ích chính đáng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực. Một số quyền
của phụ nữ Việt Nam đã được quy định rất cụ thể, vấn đề bình đẳng nam nữ tiếp
tục được khẳng định. Ngày 5/7/1994, Bộ luật Lao động đã được ban hành trong
đó chương X ghi rõ những quy định riêng đối với lao động nữ, thể hiện rõ tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đối với lao động nữ nói riêng và
với cơng tác phụ nữ nói chung. Đây là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên và
tương đối hồn thiện đối với lao động nữ.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội LHPN Việt Nam, phát huy vai trị
đại diện của phụ nữ trong q trình tham gia quản lý Nhà Nước, xây dựng chính
quyền vững mạnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2003/NĐ-CP, trên cơ
sở sửa đổi, bổ sung Quyết định 163/HĐBT về qui định trách nhiệm của cơ quan
hành chính Nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội LHPN Việt
Nam tham gia quản lý Nhà nước.
Ngày 7/11/1994, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 646/TTg về việc thành lập
tổ chức Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các bộ ngành, địa phương. Chính phủ đã xây
dựng chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, gồm 2 giai đoạn:
Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000 và Chiến lược quốc


20

gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Các chiến lược này có vai trị

cốt yếu trong khn khổ chung của Chính phủ nhằm thực hiện và duy trì bình
đẳng giới, tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, nâng cao vai trò, tăng cường sự
tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội; nâng cao chất
lượng cuộc sống cho phụ nữ, cũng như tạo điều kiện cần thiết để phụ nữ được
hưởng các quyền cơ bản của mình một cách bình đẳng và đầy đủ.
Tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ của Liên hiệp quốc (tại Bắc Kinh
- Trung Quốc, tháng 5 - 1995), Việt Nam đã cơng bố Chiến lược “Vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000”. Văn bản này đã trở thành cam kết quốc tế
quan trọng của Việt Nam về vấn đề phụ nữ. Quan hệ quốc tế của phụ nữ Việt
Nam ngày càng mở rộng, Việt Nam là thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ
quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ khu vực ASEAN.
Tới Đại hội VIII (tháng 7-1996), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh một số nhiệm
vụ chủ yếu trong công tác vận động phụ nữ: Xây dựng và thực hiện chiến lược
vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000; đặc biệt coi trọng đào tạo nghề, tạo việc
làm, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khoẻ phụ nữ, trẻ
em; quan tâm phát triển đảng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tăng tỷ lệ cán
bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo của đảng và Nhà nước ở các cấp, các ngành
[13, tr.66].
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục đổi mới tư duy về công tác vận động phụ
nữ, cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương cho phù hợp với tình hình mới, nhất là
việc thực hiện chính sách, pháp luật bình đẳng giới nhằm nâng cao năng lực,
trình độ mọi mặt cho phụ nữ: Đối với phụ nữ thực hiện tốt luật pháp, chính sách
bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo nghề, nâng cao học vấn, có cơ chế, chính sách
để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các
cấp, các ngành; chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực
hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc [15, tr.126].


21


Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình
đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trị của người cơng dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào
tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan
lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ
sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai
sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và
các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.
Để đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, Đảng ta đặc biệt coi trọng và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, động viên sự nỗ lực vượt bậc của toàn dân, trong đó
có phụ nữ. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác
phụ nữ, phát huy vai trò ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn của phụ nữ tham
gia đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng, đất
nước và thực hiện bình đẳng giới, ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 11- NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, trong đó nhấn mạnh các quan điểm sau:
- Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực
hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là một
trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ mới.
- Công tác phụ nữ phải sát với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được
tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của
các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để
phát triển đất nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan
tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực



22

hiện tốt vai trị người cơng dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người.
- Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò
của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công
tác cán bộ của Đảng.
- Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã hội
và từng gia đình, Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp uỷ đảng, trách nhiệm
trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ
nữ mà nòng cốt là các cấp Hội LHPN Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI lại một lần nữa khẳng định: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại
đồn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực
hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, giáo
giục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối
liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước” Đảng đã chỉ rõ các đồn thể nhân dân
(trong đó có Hội LHPN Việt Nam) tùy theo tính chất, tơn chỉ và mục đích đã được xác
định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách, chăm lo,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, giúp đoàn
viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới, tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng cũng đã nhấn mạnh việc xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng bn bán
phụ nữ và bạo lực trong gia đình.
Qua 30 năm đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm làm sâu
sắc hơn quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với công tác phụ nữ. Đây là
những vấn đề chiến lược, thiết thực mà cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các



23

đồn thể trong đó trước hết và trực tiếp là Hội LHPN Việt Nam phải thực hiện để tạo
điều kiện cho phụ nữ quyền bình đẳng và phát triển tồn diện.
Cụ thể hố chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ, Nhà nước cũng đã ban
hành, bổ sung nhiều văn bản nhằm bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của phụ nữ, tạo điều
kiện để phụ nữ vươn lên phát triển về mọi mặt. Cụ thể là:
+ Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000; Luật Bình đẳng giới năm
2006; Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam.
+ Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 20112020;
+ Ngày 26/2/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 295/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 -2015”.
+ Ngày 12/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 343/QĐTTg về việc phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức Phụ nữ Việt
nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.
+ Ngày 19/5/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 704/QĐTTg về việc phê duyệt Đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy con tốt” giai đoạn
2010- 2015.
+ Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ quy
định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho Hội
LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước.
Thực tế đã ghi nhận những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong q trình thực
hiện bình đẳng xã hội nói chung và bình đẳng giới nói riêng. Những nỗ lực này được
thể hiện qua những văn bản mang tính pháp lý. Các báo cáo, nghị quyết của Đại hội
Đảng qua các thời kỳ cũng xem công tác phụ nữ là một trong những mục tiêu cần lãnh
đạo, chỉ đạo cụ thể, thiết thực. Trong Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5
năm ( 2011-2015), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X



24

tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: “Xây dựng và triển khai
chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng
và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng bn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng u cầu cơng việc, nhiệm vụ”. Từ
những quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng và các chính sách của nhà nước
thực sự đã và đang thay đổi diện mạo đời sống xã hội nói chung và đời sống người
phụ nữ nói riêng. Vị thế của người phụ nữ cả về kinh tế lẫn chính trị ngày càng được
khẳng định, từng bước rút ngắn khoảng cách con đường đi tới mục tiêu bình đẳng giới.
Những chủ trương, Nghị quyết của Đảng và chính sách, luật pháp của Nhà
nước đã tạo sự chuyển biến quan trọng về nhận thức cho các cấp, các ngành và
toàn xã hội về công tác phụ nữ, đồng thời tạo cơ sở và hành lang pháp lý cần
thiết để các tổ chức trong hệ thống chính trị và tồn xã hội thực hiện nhiệm vụ
cơng tác phụ nữ ngày càng có hiệu quả.
1.2. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với công tác phụ nữ
1.2.1. Khái niệm lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, do Nguyễn Như Ý chủ biên, định nghĩa:
“Lãnh đạo là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể” [59, tr. 979].
Lãnh đạo, hiểu theo nghĩa chung nhất, là q trình tác động có định hướng, có
mục đích giữa con người với con người, giữa tổ chức với cá thể và giữa tổ chức
với tổ chức, nhằm huy động tiềm năng sáng tạo, sự nỗ lực của khách thể vào
việc giải quyết mâu thuẫn, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phong trào tiến lên vì lợi
ích chung đã xác định. Do đó, đặc điểm của lãnh đạo là:
Thứ nhất, lãnh đạo là hoạch định chủ trương, đường lối có nghĩa là xác
định các nội dung, nhiệm vụ cần phải làm, những yêu cầu, mục đích cần đạt
trong một thời kỳ hay một giai đoạn; là nêu lên các quan điểm, nguyên tắc và
các phương sách tiến hành để đạt mục tiêu. Tất cả đều nhằm điều khiển định



×