Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG VĂN TRƯỞNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
__________________________________________

TRƯƠNG VĂN TRƯỞNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Lí luận và PPDH bộ mơn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.01.11

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS NGUYỄN THÁI SƠN

NGHỆ AN - 2016

1


2
LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình, tơi xin được bày tỏ lịng biết
ơn đối với: Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học Vinh, Khoa Giáo dục
chính trị; các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tơi trong q trình
học tập cũng như hoàn thành luận văn thạc sỹ. Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ
lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thái Sơn, đã hết sức quan tâm, tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành đề tài luận văn.
Tơi cũng xin được chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng
nghiệp đã hết sức động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình học tập.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, song chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót,
khiếm khuyết. Tơi kính mong sẽ nhận được nhiều sự góp ý, chỉ dẫn từ các thầy
cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 06 năm 2016
Tác giả

Trương Văn Trưởng

2



3

MỤC LỤC
Trang
Trang bìa lót ..................................................... .....................................................1
Lời cảm ơn........... ..................................................................................................2
Mục lục ........... .......................................................................................................3
Danh mục ký hiệu, các chữ viết tắt ....................................................................... 4
Danh mục các bảng ............... ................................................................................5
A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 6
B. NỘI DUNG .................................................................................................... 14
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY ............................... 14
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài................................................... 14
1.2. Nội dung cơ bản của phương thức giáo dục đạo đức, lối sống
cho sinh viên ...................................................................................................... 24
1.3. Tính tất yếu, sự cần thiết phải giáo dục đạo đức, lối sống
cho sinh viên........................................................................................................ 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐƯC, LỐI
SỐNG CHO SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY ....................................................................... 42
2.1. Khái quát về thành phố Biên Hòa, các trường đại học, Cao đẳng trên địa
bàn thành phố Biên Hòa ...................................................................................... 42
2.2. Những nhân tố tác động đến giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên .... 47
2.3. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên .................................... 50
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY ........................................................................ 70
3.1. Quan điểm .................................................................................................... 70

3.2. Một số giải pháp cơ bản ............................................................................... 80
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 90
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 92
E. PHỤ LỤC ...................................................................................................... 97

3


4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CBQL

: Cán bộ quản lý

2. CNV

: Công nhân viên

3. CNH – HĐH

: Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa

4. ĐH, CĐ

: Đại học, Cao đẳng

5. GDĐĐ, LS


: Giáo dục đạo đức, lối sống

6. GVCN

: Giáo viên chủ nhiệm

7. GV

: Giảng viên

8. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

4


5

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Nhận thức về tầm quan trọng công tác GDĐĐ, LS cho sinh viên . .. 56
Bảng 2.2. Mức độ phối hợp giữa CBQL với các lực lượng trong . .....................57
Bảng 2.3. Mức độ đánh giá vi phạm đạo đức, lối sống của sinh viên .......... 58
Bảng 2.4. Đánh giá về nội dung công tác GDĐĐ, LS cho sinh viên ............... 60
Bảng 2.5. Đánh giá về hình thức cơng tác GDĐĐ LS cho sinh viên ................ 61
Bảng 2.6. Đánh giá về chất lượng công tác GDĐĐ, LS cho sinh viên ............. 61

5



6
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế hệ sinh viên hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước
trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Cùng với công tác giáo dục chuyên
môn, nghiệp vụ, công tác GDĐĐ, LS mới cho sinh viên … sẽ đào tạo ra thế hệ
sinh viên có chun mơn, nghiệp vụ vững vàng, năng động, sáng tạo, có niềm tự
hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, trong công cuộc đổi mới đất nước toàn diện và sâu sắc về
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với quá
trình hội nhập quốc tế. Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn rất đáng
tự hào về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, vẫn cịn nhiều những hạn chế,
thiếu sót. Trên thực tế, do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, những
thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự du nhập của văn hóa
phương Tây cũng như của xu thế tồn cầu hóa. Đặc biệt do không nghiêm túc
trong rèn luyện, do thiếu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc GDĐĐ, LS cho thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng.
Ở nước ta một số sinh viên có những biểu hiện tiêu cực, đáng lo ngại như:
Suy thối đạo đức, lối sống, thiếu chí tiến thủ, thiếu ước mơ, hoài bão, lười học
tập và tu dưỡng đạo đức, ít quan tâm đến vận mệnh của đất nước, đến tương lai
của thế hệ trẻ. Mất phương hướng, mục tiêu phấn đấu, đi sai con đường của
Đảng và Nhà nước. Sự vi phạm pháp luật ngày càng tăng ở lứa tuổi học trị, bạo
lực học đường có những diễn biến phức tạp với mức độ ngày càng trầm trọng.
Bên cạnh đó, những tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào môi trường
giảng đường hủy hoại thể lực, trí tuệ và đạo đức của sinh viên làm cho các chuẩn
mực đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của nhà trường xuống cấp. Cùng với


6


7
sinh viên cả nước, một bộ phận không nhỏ sinh viên ở các trường ĐH, CĐ nói
chung, sinh viên ở Đồng Nai nói riêng có những biểu hiện lệch lạc trong nhận
thức và hành vi đạo đức như: Thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã
hội, xa rời đạo đức truyền thống, quá coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị
tinh thần…
Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước, đẩy mạnh CNH - HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế hệ
sinh viên đã, đang và nhất định sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng vơ
cùng khó khăn phức tạp của nước nhà. Chính vì thế, Tại Đại hội XI của Đảng
chỉ rõ: “nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sức sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong
công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [11, tr.216].
Do đó, trước u cầu cấp bách của cơng cuộc đổi mới, công tác GDĐĐ,
LS cho sinh viên là nội dung quan trọng hàng đầu trong công tác rèn luyện nhân
cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập
nghiệp.
Xung quanh vấn đề về GDĐĐ, LS cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay
nói chung đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập. Các nghiên cứu này được
các tác giả trình bày dưới dạng sách, đề tài khoa học, các luận án, luận văn, tạp
chí… ở nhiều góc độ khác nhau. Có một số cơng trình tiêu biểu như:
Về sách có các cơng trình sau:
Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt (2013), Giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội đã phân tích tầm quan trọng, nội dung và thực trạng
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt

Nam hiện nay, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới
cho sinh viên hiện nay.

7


8
Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã phân tích tác
động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, đạo đức mới và những chuẩn mực
cơ bản của đạo đức mới. Đặc biệt, trên cơ sở phân tích chỉ rõ thực trạng của đạo
đức xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Huỳnh Khái Vinh (2003), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã cho thấy rõ: Lối sống, đạo đức
và chuẩn giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản trong đời sống xã hội của mỗi con
người và mỗi nền văn hóa, gắn liền với các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng và
mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Từ thực trạng lối sống, đạo
đức và chuẩn giá trị xã hội mới, tác giả đưa ra phương hướng, quan điểm và giải
pháp xây dựng lối sống mới và chuẩn giá trị xã hội mới.
Nguyễn Ngọc Hà (Chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con
người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội. Trong cơng trình này các tác giả đã trình bày một cách có hệ
thống những quan điểm khác nhau về cách định nghĩa khái niệm “tư duy” và
“lối sống”, cơng trình đã phân tích sâu sắc một số đặc điểm cơ bản của tư duy và
lối sống truyền thống của người Việt Nam, sự bất cập của các đặc điểm ấy so với
yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Khơng chỉ có ý nghĩa góp phần nâng cao
nhận thức của con người Việt Nam về con người Việt Nam, mà còn cung cấp căn
cứ lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ

biên) (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các bài viết trong cuốn sách này đã đề cập đến
giá trị truyền thống Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong xu thế tồn cầu hóa giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong xu thế tồn cầu hóa. Trong đó, các
tác giả nêu lên thực trạng các giá trị truyền thống nói chung và giá trị truyền thống

8


9
Việt Nam nói riêng trước xu thế tồn cầu hóa hiện nay, và những giải pháp nhằm
giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức tồn cầu hóa.
PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự biến đổi của thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó, các tác giả
đã gợi mở một số vấn đề đạo đức mới, luận giải sự biến đổi của thang giá trị đạo
đức trong cơ chế thị trường, từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp hình thành
thang giá trị đạo đức mới, xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Vấn đề này cũng được tiếp cận ở một số luận án, luận văn, đề tài như:
Luận án tiến sĩ triết học Cao Thu Hằng (2012), Kế thừa các giá trị đạo
đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Học
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. Trong cơng trình khoa học này, tác giả
đã trình bày một cách tương đối có hệ thống quan niệm mácxít về nhân cách, vai
trị của giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt
Nam hiện nay; đề xuất một số giải pháp kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống
trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ Triết học của Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức
truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã góp phần

xác định rõ tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, việc phát
huy các giá trị đó đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy tối đa các giá trị đạo đức trong việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ
Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học Nguyễn Thị Thanh Hà (2014) “Giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

9


10
Minh. Những luận giải của tác giả khá rõ nét về lối sống sinh viên, cũng như tầm
quan trọng, nội dung của việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học, Lê thị Thủy (2001), Vai trị của đạo đức với sự
hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong cơng trình khoa học này, tác giả góp
phần làm sáng tỏ khái niệm nhân cách; tác động qua lại giữa đạo đức và nhân
cách; những biến đổi trong lĩnh vực đạo đức và ảnh hưởng của nó tới sự hình
thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay; đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để nâng cao vai trị của đạo đức với sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam trong điều kiện đổi mới đất nước.
Luận văn thạc sĩ, Phạm Văn Hoà (2010), Những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay. Luận văn phân tích rõ thực trạng của việc
GDĐĐ, LS cho thanh niên thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp đồng thời đưa ra một
số biện pháp GDĐĐ, LS cho thanh niên.
Ngoài ra cịn có rất nhiều những bài báo, tạp chí đề cập tới việc GDĐĐ,

LS cho thanh niên, sinh viên. Các bài viết này tiếp cận ở những góc độ khác
nhau, tiêu biểu như: Phạm Kim Anh (2008), “Đạo đức học sinh – sinh viên ở
nước ta: Thực trạng và giải pháp giáo dục”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số
(9) đã chỉ rõ vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức ở học sinh, sinh viên nước ta
những năm gần đây đã trở thành điểm nóng khơng chỉ của riêng ngành giáo dục
mà của toàn xã hội. Tác giả đã đưa ra một loạt ví dụ để chứng minh thực trạng
giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng
này như: Sự buông lỏng việc quản lý giáo dục con cái trong gia đình. Việc giáo
dục đạo đức trong các nhà trường từ bậc phổ thơng đến đại học có nhiều bất ổn.
Từ thực trạng và nguyên nhân đó, tác giả đưa ra một số biện pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường hiện nay là: Kỷ luật trong

10


11
trường học cần được thắt chặt hơn; Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục đạo
đức ở các cấp học; Triển khai mơ hình “Trung tâm tư vấn các vấn đề xã hội”;
Hợp tác chặt chẽ với các lực lượng của học sinh, sinh viên; Phối hợp với gia
đình, chính quyền địa phương, cảnh sát khu vực để giúp đỡ những học sinh hư,
vi phạm kỷ luật.
Huỳnh Công Ba (2011), “Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối
sống cho sinh viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội
nhập và phát triển” Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố. Hồ Chí
Minh, số (31); Nguyễn Văn Phúc (2000), "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm
đạo đức trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Triết học, số (6); TS. Phạm Văn
Khanh (2013), “Tâm lý học và vấn đề cải thiện môi trường giáo dục hiện nay”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học tồn quốc; TS. Nguyễn Thái Sơn (2011), “Tăng
cường cơng tác giáo dục đạo đức trong bối cảnh hiện nay”, tạp chí Đại học
Vinh: Trần Văn Thụy (2013), “Tu dưỡng đạo đức cách mạng của thanh niên học

sinh theo gương Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số (1); Trần
Thị Minh Ngọc (2015), “Đạo đức sinh viên Việt Nam thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Các cơng trình nghiên cứu trên đã cho thấy
sự biến đổi của các giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam, đồng thời nêu ra các
biện pháp nhằm GDĐĐ, LS cho thanh niên, sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đã góp phần quan trọng làm sáng
tỏ thêm những vấn đề cơ bản của đạo đức, lối sống và vấn đề GDĐĐ, LS cho
sinh viên Việt Nam. Đồng thời các cơng trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tư liệu rất phong phú, thiết thực để
tác giả nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ, LS cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đề cập một cách trực tiếp, chuyên sâu đến
việc nâng cao đạo đức, lối sống cho sinh viên trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.

11


12
Chính vì lý do đó nên tác giả chọn đề tài “Giáo dục, đạo đức, lối sống
cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn GDĐĐ, LS cho sinh viên
trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ, LS cho sinh viên các trường ĐH, CĐ
trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những nội dung cơ bản về GDĐĐ, LS và vai trò của GDĐĐ, LS
cho sinh viên hiện nay.
Phân tích thực trạng GDĐĐ, LS của sinh viên và thực tiễn GDĐĐ, LS cho

sinh viên các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu để tiếp tục tiến hành GDĐĐ, LS cho đối
tượng sinh viên các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề GDĐĐ, LS cho sinh viên hiện nay là vấn đề lớn và bao gồm nhiều
phương diện khác nhau. Trong khuôn khổ đề tài này, luận văn chỉ tập trung vào
GDĐĐ, LS cho sinh viên các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về giáo GDĐĐ, LS cho sinh viên các trường ĐH, CĐ
trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Cụ thể qua khảo sát ở một số
trường sau: Đại học Công nghệ Đồng Nai, Đại học Đồng Nai, Cao Đẳng nghề
Đồng Nai, Cao Đẳng Công nghệ & Quản trị Sonadezi.

12


13
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đạo đức sinh viên và phương thức GDĐĐ, LS cho sinh viên hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn còn sử dụng các phương pháp logic học, phương pháp lịch sử - cụ thể,
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn, điều
tra xã hội học…

Đối với phương pháp khảo sát, tác giả khảo sát sinh viên tại một số
trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đối với phương pháp điều tra xã hội học, tác giả đã chọn mẫu điều tra là
các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Với mỗi
trường mà tác giả tiến hành khảo sát có những đặc điểm sau: Về loại hình
trường và đối tượng: Có cả cơng lập, dân lập, sinh viên năm thứ nhất và năm
cuối.
Về ngành học có đủ các lĩnh vực khoa học khác nhau như: Kinh tế, khoa
học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật...
6. Giả thuyết khoa học của luận văn
Công tác GDĐĐ, LS cho sinh viên trên địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh
Đồng Nai cịn có những hạn chế, nếu thực hiện được các giải pháp hợp lý thì sẽ
nâng cao hiệu quả phương thức GDĐĐ, LS cho sinh viên trong điều kiện của đất
nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

13


14

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một vấn đề rất quen thuộc và gần gũi với mỗi chúng ta. Nó gắn

liền với bản chất con người và đời sống xã hội, đồng thời nó được xem như một
biểu tượng đặc trưng về nhân cách văn hố. Cho nên người ta thường nói đến
văn hóa đạo đức. Nếu một cá nhân thiếu đạo đức thì mọi phẩm chất, năng lực
khác sẽ khơng cịn ý nghĩa; và xã hội cũng không thể phát triển bình thường.
GS.VS Phạm Minh Hạc đã viết: “Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, là
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng
trong điều kiện hiện nay chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo
đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con
người, với công việc, với bản thân kể cả với thiên nhiên và môi trường sống…
Theo nghĩa rộng khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị,
pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ
mặt nhân cách đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh
thần lành mạnh, trong sáng ở hành động góp phần giải quyết hợp lý có hiệu quả
những mâu thuẫn của cuộc sống. Khi thừa nhận đạo đức là một phạm trù thuộc
hình thái có ý thức xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn
đề đang tồn tại” [21; 66].
Như vậy, Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất, là một phạm trù
thuộc hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm,
nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá
cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người,

14


15
giữa cá nhân và xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức
mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội nhằm hướng con người
đến chân, thiện, mỹ…. Hay nói cách khác đạo đức là một dạng ý thức xã hội
gồm những nguyên tắc, chuẩn mức giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng
chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ xã hội, gia đình, tập

thể.
Cùng quan điểm, ở những góc độ khác nhau của đời sống, cách nhìn nhận
đạo đức cũng khác nhau.
Quan niệm đạo đức theo lý luận duy vật lịch sử: Đạo đức là những hình
thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người. Đạo đức là tổng
hợp những quan niệm về thiện, ác, trung thực, giả dối, đáng khen, đáng chê, ...
cùng với những quy tắc phù hợp với những quan niệm đó, nhằm điều chỉnh hành
vi của con người đối với xã hội, đối với giai cấp, đối với Đảng và đối với người
khác.
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề được nghiên cứu qua các thời
đại lịch sử khác nhau. Nhà triết học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “chân,
thiện, mỹ” trong nghiên cứu triết học. Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt:
Thể, Đức, Trí. Đặc biệt Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người
quân tử. Theo ông, “người quân tử phải sống theo chữ “nhân” và tôn thờ chữ
“lễ”, giữ kỷ cương trật tự của luật gia, phép nước” [49; 57].
Ở Phương Đông, phạm trù “đạo” và “đức” xuất hiện trong các học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo, Lão giáo… Mở rộng phạm trù “đạo” trong quan
hệ chính trị - xã hội, Lão Tử đã đề ra thuyết “vơ vi”, có nghĩa là con người cần
phải “hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, khơng hành động theo tính chất
giả tạo, gị ép trái với bản tính tự nhiên của mình”. Để làm được điều đó con
người phải sống khoan dung, khiêm nhường, không phô trương, phải thấu suốt
mọi lẽ tự nhiên. Trong triết học Trung Quốc cổ đại, phạm trù “đạo” luôn được
xem xét trong mối quan hệ với phạm trù “đức”, đức là biểu hiện của đạo, đức

15


16
chính là “biểu hiện khát vọng được trời ban cho phước lành”. Theo Khổng Tử
làm người thì phải “khắc kỷ tu thân”, có nghĩa là để đạt được đức con người

phải tu dưỡng, phải hoàn thiện về mặt đạo đức, làm những việc chính đáng mà
khơng gượng ép.
Ở Phương Tây, đạo đức được bàn đến như là một bộ phận của hệ thống
triết học, được các nhà triết học kể cả trường phái duy vật hay duy tâm đều bàn
đến ngay từ thời cổ đại. Chẳng hạn, Đêmôcrit khi bàn về đạo đức đã đứng trên
lập trường duy vật, Ông tìm thấy đối tượng nghiên cứu của đạo đức học đúng là
cuộc sống con người. Ông cho rằng “nhận biết một người trung thực và một
người không trung thực, không những căn cứ vào việc làm của họ mà còn căn
cứ vào ý muốn của họ” [22; 65].
Các quan niệm về đạo đức, về thiện, ác lần lượt xuất hiện trong các tác
phẩm của Hegel, Phơbach, Kant. Heghen quan niệm “ác” là những dục vọng xấu
của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”; Phơbach coi “cái thiện
tuyệt đối” là tình yêu thương đồng loại. Đặc biệt Kant đã cho ra đời hẳn một học
thuyết về đạo đức, được gọi là “đạo đức học Kant”
Từ đó ta thấy, các nhà triết học trước Mác cả phương Đông lẫn phương
Tây đều bàn nhiều về đạo đức nhưng nhìn chung đều rơi vào quan điểm duy tâm
khi bàn về vấn đề con người, về các mối quan hệ xã hội trong đó có quan hệ đạo
đức. Họ đã khơng thấy đạo đức được hình thành trong mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, đó chính là lao động, trong lao động con người có nhu cầu
gắn bó với nhau và chính ở đó con người ý thức được rằng bản thân cần phải
làm gì hay khơng nên làm gì để phù hợp với chuẩn mực chung của cộng đồng,
của xã hội. Thiếu sót lớn nhất của các nhà triết học trước Mác là khơng nhìn
thấy mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội nên không thấy
được các quan hệ đạo đức trong xã hội.

16


17
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, ý thức xã hội của con người là sự phản ánh

tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tùy theo
phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống xã
hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng
biệt trong tồn tại xã hội của con người. Triết học Mác - Lênin định nghĩa: “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [31; 196]
Những hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẫm mỹ, ý thức tôn giáo và triết
học.
Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình
thái ý thức ra đời rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thủy. Hình thái ý
thức đạo đức bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc
cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm,
trách nhiệm, hạnh phúc, cơng bằng, lịng tự trọng, ... và về những quy tắc đánh
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân
trong xã hội.
Đạo đức bị qui định, chi phối bởi tồn tại xã hội, và cũng tác động góp
phần làm thay đổi tồn tại xã hội. Đấy chính là tính biện chứng của giá trị đạo
đức, theo cách tiếp cận của triết học.
Dưới góc nhìn của đạo đức học, đạo đức gắn với hành vi và động cơ hành
vi của con người; đạo đức chỉ được xác định dựa trên ý nghĩa “lợi” hay “hại”
của hành vi và động cơ con người. G.Banzeladze nói: “Nếu như động cơ hành vi
của con người là xu hướng đem lại ích lợi cho xã hội thì chúng ta nói rằng động
cơ này là một động cơ có đạo đức, hành vi được qui định bởi động cơ này là

17



18
hành vi có đạo đức, và chủ thể của hành vi này là người có đạo đức. Ngược lại có nghĩa là làm hại cho xã hội hoặc người khác - là vơ đạo đức. Cịn nếu như
hành vi khơng làm lợi mà cũng khơng làm hại cho ai thì động cơ của hành vi,
bản thân hành vi và chủ thể đó chẳng mang một giá trị đạo đức nào cả” [16;
99].
Tóm lại, từ những định nghĩa hay những quan điểm về đạo đức kể trên, ta
có thể hiểu đạo đức theo hai nghĩa như sau:
Dưới góc độ xã hội: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp
những quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người ta có thể tự điều chỉnh hành
vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã
hội. Trong quan hệ con người với con người, giữa cá nhân và xã hội…" [9; 4].
Dưới góc độ cá nhân: “Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách
của con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng
xử của họ trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản
thân họ với người khác và với chính bản thân mình” [4; 85].
1.1.2. Lối sống
Hiện nay, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về lối sống, cũng có
nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cách hiểu về lối sống, tùy theo góc tiếp
cận của mỗi nhà nghiên cứu. Từ lối sống trong tiếng Pháp là mode de vie, trong
tiếng Anh là mode of life hoặc way of life. Mặc dù có nhiều tác giả, nhiều tài liệu
đề cập đến khái niệm lối sống, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa
thống nhất về vấn đề này.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph. Ăngghen viết: “Không
nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái
sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương
thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của
hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [5; 30].

18



19
Như vậy, thông qua phương thức sản xuất C.Mác đã cho chúng ta thấy
con người muốn sống được, nghĩa là muốn tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của
mình, trước hết phải sản xuất, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của thể xác
cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người,
là phương thức sinh sống, là mặt cơ bản của lối sống.
Phương thức sản xuất là điều kiện kinh tế - xã hội của lối sống, là cơ sở
đầu tiên để chúng ta tìm hiểu lối sống. Tuy nhiên, không thể đồng nhất phương
thức sản xuất và lối sống, vì những lẽ sau đây: Trong xã hội có giai cấp, khơng
thể có một lối sống cho tất cả mọi người. Lối sống hoàn toàn khác nhau giữa hai
giai cấp đối lập trong cùng một phương thức sản xuất: Khác nhau giữa giai cấp
chủ nô và nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, ở chế độ phong kiến, giữa giai cấp
cấp phong kiến và nông dân, giữa giai cấp tư sản và vô sản trong chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Rútkêvích cho rằng “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc
điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội,
các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”
[58; 45].
Còn G.Glezerman cho rằng: “Lối sống là tổng hịa những nét cơ bản, nói
lên những đặc điểm của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các
nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [55;18].
Theo tiếng Việt, lối sống là một danh từ ghép gồm lối và sống. Lối là lề
lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động
sinh vật và xã hội của con người. Trong từ điển tiếng Việt và Hán - Việt cũng
chỉ đề cập khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ minh họa cho từ “lối” và dẫn
“nếp sống” khi đề cập đến khái niệm “sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và
nếp sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng
thuật ngữ khác để dịch một thuật ngữ nước ngoài.


19


20
Khái niệm “lối sống” bắt đầu được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng và tiếp tục được đề cập đến ở các kỳ đại hội tiếp
theo. Đại hội XI khẳng định: “Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước” [11; 173]. Sự suy thoái về đạo đức không chỉ
diễn ra ở một bộ phận cán bộ, đảng viên mà còn diễn ra ở nhiều tầng lớp dân cư,
đặc biệt là trong giới trẻ.
Ở đây, GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con
người” đã định nghĩa: “Lối sống là phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực
của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người,
trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [28; 514].
Từ định nghĩa này đã khái quát được những nét đặc trưng cơ bản của lối
sống, từ phương diện vật chất của lối sống: phương thức sản xuất vật chất và
hình thái kinh tế - xã hội đến phương diện sinh hoạt tinh thần của lối sống. Lối
sống được hiểu chính là phương thức, là dạng hoạt động của con người, nó chịu
sự quyết định của phương thức sản xuất. Do đó, ở những hình thái kinh tế - xã
hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau.
Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và gắn với một
hình thái kinh tế - xã hội, thì Giáo sư Thanh Lê đã định nghĩa: “Lối sống là một
hệ thống những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các
tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định” [29; 24].

Ở góc độ xem xét tổng hịa các mặt cơ bản, khắc họa những đặc điểm cá
nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên khẳng định:

20


21
“Lối sống là tổng hợp tồn bộ các mơ hình, cách thức và phong thái sống của con
người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất,
tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với
con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện và mục đích
sống” [26; 29]. Tiến sĩ Nguyễn Viết Chức cho rằng: “Lối sống là tổng hịa những
dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn định của con người được vận
hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [8; 66].
Như vậy, lối sống còn được dùng để chỉ các khuôn mẫu hành vi, ứng xử
của các cá nhân, các nhóm xã hội trong hồn cảnh, điều kiện sống, tình huống cụ
thể. Bên cạnh đó, lối sống bắt nguồn từ văn hóa. Lối sống gắn liền với hoạt động
hàng ngày của con người, tổng hợp trong đó những quan hệ về kinh tế, văn hóa,
tư tưởng, đạo đức,… Nội dung thực tế của lối sống là cái mà con người nhìn
thấy ở đó ý nghĩa tồn tại của mình. Lối sống phụ thuộc vào thời đại mà người ta
đang sống, với các điều kiện vật chất, kinh tế, các quan hệ xã hội, các thói quen,
tập quán, tục lệ của thời đại đó.
Từ đó chúng ta có thể đưa ra một số đặc điểm cơ bản của lối sống:
Lối sống là tổng hòa những hoạt động sống của con người trong sự thống
nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng lý tưởng. Lối
sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hóa, đặc
trưng văn hóa của một con người hay một cộng đồng.
Lối sống là tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các

hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc tồn thể các nhóm, các cộng đồng
người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định.
Lối sống là sự tổng hòa các mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, cá
nhân và xã hội, dân tộc và quốc tế. Do đó, các đặc điểm của lối sống được thể
hiện qua tất cả các hình thức hoạt động sống của con người.

21


22
Lối sống nói chung đều mang tính văn hóa bởi nhận thức, tình cảm, hành
động của con người là đặc thù của xã hội loài người nên những hành động xã
hội, các quan hệ xã hội cho đến khuôn mẫu ứng xử... Trong lối sống đều mang ý
nghĩa văn hóa, đạo đức, luôn hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp - chân, thiện,
mỹ của cuộc đời.
Như vậy, lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức
tiến hành các hoạt động sống của con người thì lối sống đều lấy các lĩnh vực
hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng cho cơ sở của lối sống, trong đó ta
có thể thấy các lĩnh vực cụ thể như: Lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã
hội và văn hóa - xã hội.
1.1.3. Giáo dục đạo đức, lối sống
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là q trình tác động có mục đích có
kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và
phát triển tâm lý, ý thức nhân cách.
Theo nghĩa rộng: Giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường,
xã hội, bao gồm cả dạy học và các hoạt động khác đến con người.
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư
tưởng, đạo đức, hành vi của con người (giáo dục đạo đức, lao động giáo dục lối
sống...).
Bên cạnh đó, “mục đích của giáo dục là làm cho các thành viên của xã hội

nắm được tri thức, kỹ năng, hình thành được các thái độ để phát triển nhân cách,
làm cho con người trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội” [14; 16].
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển đạo đức, lối sống của con
người là quá trình tác động giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên
tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức – xã hội thành những phẩm chất cá
nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức đáp ứng yêu cầu của xã
hội, có thể hiểu q trình GDĐĐ, LS là một hoạt động có tổ chức, có mục đích,
có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức, lối sống của

22


23
cá nhân nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy phát
triển tiến bộ của toàn xã hội. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là đào tạo
những con người vừa có đức, vừa có tài những cơng dân biết làm chủ để đóng
góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hồ Chí Minh chủ
chương bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ một cách tồn diện: đức, trí, thể, mỹ.
Người yêu cầu trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: Đạo
đức cách mạng, giác ngộ cách mạng.
“Giữa đạo đức và lối sống có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Đạo đức có
tác động quan trọng chi phối lối sống. Ngược lại, lối sống có tác động hai mặt
tích cực và tiêu cực đến q trình củng cố đạo đức. Do đó, nghiên cứu lĩnh vực
đạo đức và lối sống cần đặt trong mối quan hệ đó và tất cả lại có quan hệ với
lĩnh vực tư tưởng, chính trị” [24; 16].
Do đó, GDĐĐ, LS là q trình tác động có mục đích, kế hoạch đến tư
tưởng, nhận thức, hành động của người được tác động nhằm đưa đến sự phát
triển về đạo đức, lối sống ý thức, nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội.
1.2. Nội dung cơ bản của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
1.2.1. Giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng cho sinh viên làm cơ

sở cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống
Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên là một trong những định
hướng giáo dục cơ bản và quan trọng của xã hội chủ nghĩa và là cơ sở cho
những hành vi ứng xử của sinh viên trong cuộc sống. Bồi dưỡng sinh viên có
nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý chí phấn đấu, lối sống vì lý
tưởng cao cả là độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta. Trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên năm 1965 tại
Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln nhắc nhở: “Người cộng sản chúng ta không một chút nào được quên lý

23


24
tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa
xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới” [38; 374].
Dựa trên quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung của đạo đức
cách mạng, đặc biệt là dựa trên quan điểm của Đảng ta về những phẩm chất cơ
bản của con người Việt Nam trong giai đoạn mới, Luật giáo dục Việt Nam năm
2005 về mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục Đại học nói riêng,
điều 2 xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển
tồn diện, có đạo đức tri thức sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc” và “mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người
học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức
và năng lực thực hành tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”(điều 39). Sinh thời Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà yếu
hay mạnh, thịnh hay suy một phần lớn là do các thanh niên” [35;123].

Đạo đức, lối sống là một vấn đề tiên quyết của việc xây dựng con người
mới, theo Người cần giáo dục thế hệ trẻ những nội dung sau:
Thứ nhất, làm cho thế hệ trẻ nhận thức được đạo đức cách mạng, trung với
nước, hiếu là hiếu với dân, Hồ Chí Minh đã dùng đạo đức của Nho giáo. Theo
quan niệm của Nho giáo, nước có nghĩa là nước của vua, trung với nước là trung
thành với vua. Hiếu là hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu chăm sóc cha mẹ. Ở
đây, Hồ Chí Minh đã nâng cao hơn chuẩn mực đó, trung là trung với nước, hiếu
là hiếu với dân, phải có lịng u thương nồng nàn, suốt đời phấn đấu hi sinh vì
lợi ích của nhân dân “Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Hiếu không dừng ở hiếu với nhân dân, mà
còn hiếu với đồng bào, gia đình và xã hội. Vì vậy cần thương yêu nhân dân,
sống lao động chiến đấu vì nhân dân. Thường xuyên chăm lo bảo vệ lợi ích

24


×