BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________
TRẦN THỊ THU TRANG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2016
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________
TRẦN THỊ THU TRANG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN THÁI SƠN
NGHỆ AN - 2016
2
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Giáo dục
đạo đức, lối sống cho học sinh Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn trong
giai đoạn hiện nay”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cơ
giáo, các cấp lãnh đạo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cơ giáo Khoa Giáo
dục chính trị. Tơi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới thầy giáo, PGS. TS Nguyễn
Thái Sơn đã dành nhiều thời gian, tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tơi
hồn thành luận văn này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và tất cả những người thân đã
ln động viên, khích lệ tơi trong thời gian học tập và hồn thành luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc rằng luận văn sẽ khơng tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong nhận được nhiều góp ý của các thầy giáo, cơ giáo,
các anh chị, bạn bè để luận văn hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Thu Trang
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA ...................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN............................................................................................... 2
MỤC LỤC .................................................................................................. 3
DANH MỤC BẢNG ................................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................... 5
B. NỘI DUNG .......................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC ............. 10
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ............................................. 10
1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức, lối sống với sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc ................................. 21
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh các trường Dự bị Đại học Dân tộc ......................................................... 29
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC
SINH TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN ....................... 40
2.1. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn.......................... 40
2.2. Tình hình giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ở trường Dự bị Đại
học Dân tộc Sầm Sơn .................................................................................... 52
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY ......................................................................................................... 71
3.1. Quan điểm cơ bản trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn........................................................ 71
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn giai đoạn
hiện nay.......................................................................................................... 78
C. KẾT LUẬN ........................................................................................ 102
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 105
E. PHỤ LỤC ........................................................................................... 109
4
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tổng hợp chung đội ngũ cán bộ quản lý trường Dự bị Đại học
Dân tộc Sầm Sơn ...................................................................... 53
Bảng 2.2: Tổng hợp chung trình độ đội ngũ giáo viên Trường Dự bị Đại
học Dân tộc Sầm Sơn ............................................................... 54
Bảng 2.3. Quy mô học sinh từ năm 2011 - 2015 ....................................... 55
Bảng 2.4. Kết quả phân bổ đi học đại học, cao đẳng ................................. 56
Bảng 2.5: Động cơ, thái độ học tập của học sinh ...................................... 57
Bảng 2.6: Kết quả học tập của học sinh .................................................... 58
Bảng 2.7: Đánh giá kết quả hạnh kiểm của học sinh ................................. 59
Bảng 2.8: Việc thực hiện nội quy ở trường của học sinh ........................... 61
Bảng 2.9: Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong giờ sinh hoạt ........... 64
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức, lối sống luôn là vấn đề được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành cũng như của toàn xã hội.
Đảng ta khẳng định: "Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lịng u nước,
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn,
lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản
thân và tiền đồ của đất nước".
Trong thời gian vừa qua, vấn đề đạo đức, lối sống ở nước ta đang diễn ra
hết sức phức tạp có phần bị xuống cấp. Đáng lo ngại hơn cả là “có một bộ phận
học sinh, sinh viên có tình trạng suy thối đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo
lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản
thân và đất nước”. Hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi
cử, bạo lực học đường… đang có nguy cơ trở thành một tệ nạn. Ngoài ra
những tệ nạn xã hội rượu chè, cờ bạc… cũng đang có xu hướng du nhập vào
nhà trường gây ảnh hưởng lớn đối với học sinh. Thêm vào đó, việc chấp hành
nội quy, quy chế của nhà trường, pháp luật của Nhà nước của phụ huynh và
học sinh chưa nghiêm. Điều này không những gây hoang mang cho dư luận xã
hội mà còn gióng lên hồi chng cảnh báo về đạo đức, lối sống, nhân cách của
giới trẻ ngày nay.
Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn là loại hình giáo dục chuyên biệt,
việc giáo dục tri thức và giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh đều diễn ra
trong môi trường nội trú nên cũng gặp nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, học sinh ở
đây đều là con em đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Bắc Trung Bộ nên việc
giáo dục tri thức và đạo đức, lối sống còn gặp nhiều khó khăn do trình độ dân trí
thấp, lối sống bản năng, gia đình gần như “gửi gắm” cơng việc giáo dục đạo
đức, lối sống con mình cho nhà trường. Bên cạnh đó, một số cán bộ giáo viên
6
chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri
thức khoa học, xem nhẹ môn Giáo dục công dân, thờ ơ không chú ý đến việc
giáo dục tình cảm đạo đức lối sống cho học sinh.
Vì vậy cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân
tộc Sầm Sơn đang đặt ra nhiều vấn đề trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức,
lối sống cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn trong giai đoạn
hiện nay”, làm đề tài luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành lý luận và phương pháp
dạy học bộ mơn Giáo dục chính trị.
Giáo dục đạo đức, lối sống là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
sâu sắc. Do vậy, từ trước đến nay đã có khơng ít tác giả nghiên cứu về vấn đề
này dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây là một số tài liệu nghiên cứu về giáo
dục đạo đức, lối sống mà chúng tôi tiếp cận được.
- Đề tài “Tình hình tư tưởng đạo đức, lối sống của sinh viên các trường
Đại học, Cao đẳng thuộc các tỉnh Bắc Miền Trung” do Đoàn Minh Duệ và các
cộng tác viên chủ biên. Đề tài đã khai thác khá sâu về các vấn đề đạo đức, lối
sống, việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống... cho sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng thuộc các tỉnh Bắc Miền Trung.
- Cuốn “Giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Nghệ
An trong giai đoạn hiện nay”, NXB Nghệ An, 2015 do Nguyễn Lương Bằng
chủ biên đã đề cập đến cơ sở lý luận giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh phổ thông; thực trạng giáo dục đạo đức cho
học sinh Nghệ An hiện nay; và những định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông ở Nghệ An.
- Cuốn “Quản lý dạy học ở trường Dự bị Đại học Dân tộc quan điểm và
giải pháp” của Mai Công Khanh, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013. Trong tác
phẩm, tác giả đề cập đến cở sở lý luận về việc quản lý dạy học, thực trạng dạy
học và quản lý dạy học ở trường Dự bị Đại học Dân tộc, giải pháp quản lý dạy
7
học ở trường Dự bị Đại học Dân tộc theo yêu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ cho
miền núi; và các cơng trình của tác giả liên quan đến chun khảo.
- Các cơng trình nghiên cứu về “lối sống” của Vũ Khiêu đã tập trung vào
giới thiệu khái niệm, phân tích những biểu hiện cơ bản của lối sống và những
đặc trưng cơ bản của lối sống Xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, cơng trình chưa
nghiên cứu về lối sống cho học sinh, sinh viên trong tình hình hiện nay.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí trong nước liên quan
đến đề tài như: Lê Thị Tuyết Ba với bài viết “Chuẩn mực đạo đức trong bối
cảnh của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay”, trên Tạp chí Triết học, (số
10), tr.9-11, 2003; Phạm Trung Thanh có bài viết với nhan đề “Vấn đề nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay” trên Tập san nghiên cứu
giáo dục, số 3, 2002; Đỗ Lan Hiền với bài viết “Vấn đề xây dựng đạo đức trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” trên Tạp chí Triết học, số 4 (131), tr.1619, 2002; Nguyễn Khắc Vinh có bài viết với nhan đề “Xây dựng đạo đức, lối
sống và chuẩn giá trị xã hộ để phát triển toàn diện của con người” trên Tạp chí
Thơng tin lý luận, số 3 - 1999; Nguyễn Văn Phúc với bài viết “Về vai trò của
giáo dục đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường” trên Tạp chí
Triết học, tháng 10/1996...
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp chúng tôi tiếp
thu tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Ở trường Dự bị
Đại học Sầm Sơn, việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho học sinh hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập một cách cơ bản
và có hệ thống. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn
góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang
đặt ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đạo đức, lối sống, vai trò và thực trạng giáo dục đạo đức,
lối sống của học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn. Từ đó, luận văn
8
đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn giai đoạn
hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh các
trường Dự bị Đại học Dân tộc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức, lối sống cho học sinh giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn
- Nghiên cứu những hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp cụ thể:
- Phân tích, tổng hợp
- So sánh, đối chiếu
- Lô gic và lịch sử
- Khảo sát và điều tra xã hội học.
9
6. Giả thiết khoa học
- Việc giáo dục đạo đức, lối sống học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc
Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế. Nếu luận văn đề xuất được
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức, lối sống.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác giáo dục đạo đức, lối sống ở các trường Dự bị Đại học Dân tộc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
10
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG DỰ BỊ
ĐẠI HỌC DÂN TỘC
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Đạo đức
Từ xưa đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức. Đạo
đức là một bộ phận trọng yếu trong kiến trúc thượng tầng, là một hình thái ý
thức xã hội.
Con người là một thực thể của tự nhiên và xã hội vì thế con người có
nhiều mối quan hệ, trong đó có mối quan hệ với tự nhiên và với xã hội. Sự
nhận thức của mỗi người về những mối quan hệ tuân theo những quy định
chuẩn mực của xã hội được biểu hiện bằng những hành động cụ thể hàng
ngày. Những hoạt động đó đảm bảo quyền lợi cho các thành viên và cho sự
phát triển của cộng đồng.
Trong từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ - Viện khoa học xã hội Việt
Nam 1992, trang 297 có nêu: “Đạo đức là tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận
xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối
với xã hội”.
Đạo đức được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên thủy và biến đổi
phát triển cùng với sự biến đổi phát triển của xã hội. Quan niệm đạo đức hoàn
toàn khác nhau khi xã hội có giai cấp, có đấu tranh giai cấp, quan điểm duy vật
lịch sử về đạo đức của chủ nghĩa Mác đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm
và tơn giáo.
Cùng quan điểm, ở những góc độ khác nhau của đời sống, cách nhìn nhận
đạo đức cũng khác nhau.
11
Quan niệm đạo đức theo lý luận duy vật lịch sử: Đạo đức là những hình
thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người. Đạo đức là
tổng hợp những quan niệm về thiện, ác, trung thực, giả dối, đáng khen, đáng
chê… cùng với những quy tắc phù hợp với những quan niệm đó, nhằm điều
chỉnh hành vi con người đối với xã hội, đối với giai cấp, đối với Đảng và đối
với người khác.
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề nghiên cứu từ xa xưa. Nhà
triết học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “chân, thiện, mỹ’ trong nghiên cứu
triết học. Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt: Thể, Đức, Trí. Đặc biệt
Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người qn tử. Theo ơng,
“người quân tử phải sống theo chữ “nhân” và tôn thờ chữ “lễ”, giữ kỷ cương trật
tự của luật gia, phép nước” [45, tr.57].
Ở phương Đông, phạm trù “đạo”, và “đức” xuất hiện trong các học
thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, Lão giáo… Mở rộng phạm trù “đạo”
trong quan hệ chính trị - xã hội, Lão Tử đã đề ra thuyết “Vơ vi”, có nghĩa là con
người cần phải “hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động theo
tính chất giả tạo, gị ép trái với bản tính tự nhiên của mình”. Để làm được điều
đó, con người phải sống khoan dung, khiêm nhường, không phô trương, phải
thấu suốt mọi lẽ tự nhiên. Trong triết học Trung Quốc cổ đại, phạm trù “đạo”
luôn được xem xét trong mối quan hệ với phạm trù “đức”, đức là biểu hiện của
đạo, đức chính là “biểu hiện khát vọng được trời ban cho phước lành”. Theo
Khổng Tử, làm người thì phải “khắc kỷ tu thân”, có nghĩa là để đạt được đức
con người phải tu dưỡng, phải hoàn thiện về mặt đạo đức, làm những việc chính
đáng mà khơng gượng ép.
Ở phương Tây, đạo đức được bàn đến như là một bộ phận của hệ thống
triết học, được các nhà triết học kể cả các trường phái duy vật hay duy tâm đều
bàn đến ngay từ thời cổ đại. Chẳng hạn, Đêmôcrit khi bàn về đạo đức đã đứng
trên lập trường duy vật, ơng tìm thấy đối tượng nghiên cứu của đạo đức học
12
đúng là cuộc sống con người. Ông cho rằng nhận biết một người trung thực và
một người không trung thực, không những căn cứ vào việc làm của họ mà con
căn cứ vào ý muốn của họ. Cịn Aristote thì cho rằng, đạo đức là cái vốn có của
con người, sống trong xã hội con người phải tuân theo những quy tắc, để hướng
tới cái cao cả, cái thiện.
Các quan niệm về đạo đức, về thiện, về ác lần lượt xuất hiện trong các tác
phẩm của Heghel, Phơbach, Kant. Heghen quan niệm “ác” là những dục vọng
xấu của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”; Phơbach coi “cái
thiện tuyệt đối” là tình yêu thương đồng loại. Đặc biệt, Kant đã cho ra đời hẳn
một học thuyết về đạo đức, được gọi là “đạo đức học Kant”.
Từ đó ta thấy, các nhà triết học trước Mác cả phương Đông lẫn phương
Tây đều bàn nhiều về đạo đức nhưng nhìn chung đều rơi vào quan điểm duy tâm
khi bàn về vấn đề con người, về các mối quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ
đạo đức. Họ đã khơng thấy đạo đức được hình thành trong mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, đó chính là lao động, trong lao động con người có nhu cầu
gắn bó với nhau và chính ở đó con người ý thức được rằng bản thân cần phải
làm gì hay khơng nên làm gì để phù hợp với chuẩn mực chung của cộng đồng,
của xã hội. Thiếu xót lớn nhất của các nhà triết học trước Mác là khơng nhìn
thấy mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội nên không thấy
được các quan hệ đạo đức trong xã hội.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, ý thức xã hội của con người là sự phản ánh
tồn tại xã hội. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tùy theo phương thức phản
ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống xã hội. Đạo đức cũng
vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại
xã hội của con người. Triết học Mác - Lênin định nghĩa: “Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều
chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh
của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [32, tr.196].
13
Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình
thái ý thức xã hội ra đời sớm nhất trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thủy.
Hình thái ý thức đạo đức bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, cơng bằng, lịng tự trọng… và về những
quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá
nhân với cá nhân trong xã hội.
Đạo đức bị quy định, chi phối bởi tồn tại xã hội, và cũng tác động góp
phần làm thay đổi tồn tại xã hội. Đấy chính là tính biện chứng của giá trị đạo
đức, theo cách tiếp cận của triết học.
Dưới góc nhìn của đạo đức học, đạo đức gắn với hành vi và động cơ
hành vi của con người; đạo đức chỉ được xác định dựa trên ý nghĩa “lợi” hay
“hại” của hành vi và động cơ con người. G.Banzeladze nói: “Nếu như động cơ
hành vi của con người là xu hướng đem lại ích lợi cho xã hội thì chúng ta nói
rằng động cơ này là một động cơ có đạo đức, hành vi được quy định bởi động
cơ này là hành vi có đạo đức, và chủ thể của hành vi này là người có đạo đức.
Ngược lại - có nghĩa là làm hại cho xã hội hoặc người khác - là vơ đạo đức.
Cịn nếu như hành vi không làm lợi mà cũng không làm hại cho ai thì động cơ
của hành vi, bản thân hành vi và chủ thể đó chẳng mang một giá trị đạo đức
nào cả” [5, tr.99].
Như vậy, trên cơ sở những định nghĩa hay những quan điểm về đạo đức
kể trên, khái niệm đạo đức được hiểu theo hai nghĩa:
Dưới góc độ xã hội: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng
hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người ta có thể tự điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội. Trong quan hệ con người với con người, giữa cá nhân và xã
hội…” [9, tr.4].
14
Dưới góc độ cá nhân: “Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của
con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử
của họ trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân
họ với người khác và với chính bản thân mình” [7, tr.85].
Như vậy, bản chất đạo đức mang tính lịch sử, xã hội, tính dân tộc, tính
giai cấp và tính thời đại. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu xã hội nhằm thống
nhất lợi ích chung của tồn xã hội với lợi ích riêng của mỗi cá nhân nhằm đảm
bảo trật tự xã hội, thúc đẩy cá nhân, xã hội cùng đi lên. Để giải quyết các mâu
thuẫn đó, xã hội đề ra những yêu cầu chuẩn mực giá trị được mọi người công
nhận và được củng cố bằng sức mạnh tập quán của dư luận xã hội, của lương
tâm mỗi con người. Đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển cùng với cộng đồng
nhân loại.
1.1.2. Lối sống
Lối sống là tổng thể những nét căn bản, đặc trưng cho hoạt động sống của
các cá nhân, các nhóm xã hội, các tập đoàn xã hội và các giai cấp, các dân tộc
trong những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử. Khái niệm lối sống còn
được dùng để chỉ các khuôn mẫu hành vi, ứng xử của các cá nhân, các nhóm xã
hội trong hồn cảnh, điều kiện sống, tình huống cụ thể. Lối sống được tiếp cận
bằng khái niệm nhiều cách thức khác nhau.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, để làm rõ mối quan hệ giữa con người
và hồn cảnh, điều kiện sống của nó, C. Mác đã bổ sung vào khái niệm
“Phương thức sản xuất”, khái niệm “Phương thức sinh sống”: “Không nên
nghiên cứu phương thức ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra đời
sống thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động
nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống
của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [33, tr.30].
15
Luận điểm trên đây thường được các nhà nghiên cứu Mác - xít dùng làm
luận điểm xuất phát để nghiên cứu khái niệm “Lối sống”. Các định nghĩa này có
thể quy về 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất: Xem xét lối sống như một khái niệm bao quát nhiều yếu
tố liên quan đến cuộc sống của con người và toàn xã hội như điều kiện sống, các
hình thức hoạt động, các quan hệ xã hội, các hình thức thỏa mãn nhu cầu, thế
giới quan.
Nhóm thứ hai: Mơ tả lối sống dựa vào các yếu tố bên trong, vốn có của
chủ thể, hoặc xem lối sống là sự phản ánh của nhu cầu con người, cách thức thỏa
mãn những nhu cầu đó, nghĩa là chất lượng của sự phồn vinh của con người,
hoặc coi lối sống là nếp nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm của con người.
Nhóm thứ ba: Quan niệm sống như một phạm trù xã hội học chỉ sự thống
nhất hữu cơ giữa các hình thức hoạt động sống và những điều kiện sống quan
trọng của cá nhân hay nhóm xã hội.
Ba nhóm định nghĩa này ít nhiều đều có sự phiến diện. Nhóm đầu tiên bị
phê phán mở rộng quá mức khái niệm “lối sống” và do đó đã làm mất đi những
đặc trưng của nó. Nhóm thứ hai thu hẹp lối sống vào những yếu tố bên trong của
cá nhân, loại trừ khỏi khái niệm “lối sống” những mặt khách quan, những hoạt
động quan trọng của con người như hoạt động lao động, hoạt động chính trị.
Nhóm thứ ba thì lại khơng chú ý đến vai trị của yếu tố chủ quan trong lối sống.
Định nghĩa tiêu biểu và phổ biến nhất của Liên Xơ có lẽ là định nghĩa gắn
lối sống với hoạt động của con người. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học
định nghĩa “Lối sống xã hội chủ nghĩa là những hình thức hoạt động sống của
con người vốn có của chủ nghĩa xã hội, được quy định bởi điều kiện sống của họ
trong phạm vi giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản” [49, tr.202]. Cơng trình
Lối sống Xã hội chủ nghĩa do G.E. Gledơman chủ biên định nghĩa “Lối sống là
một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các
16
dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, của các cá nhân trong những điều kiện
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [20, tr.45].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây,
khi bàn về khái niệm “lối sống”, thường nhấn mạnh vào tính chất xã hội chủ
nghĩa và xác định các tiêu chí của nó từ sự đối lập với lối sống tư sản.
Ở Việt Nam, khái niệm “lối sống” được xem xét với một góc nhìn tổng
hợp, trong đó có nói đến quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt
động sống và điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản xuất và những
hoạt động phi sản xuất.
Nhấn mạnh vào hoạt động sống của con người, trong tập bài giảng Văn
hóa Xã hội chủ nghĩa của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh thì “Lối sống là một phạm trù xã hội hoc khái quát toàn bộ hoạt động sống
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực
của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người
trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [25, tr.217-218].
Xem lối sống như những những quan hệ xã hội, tác giả Lê Như Hoa cho
rằng: “Lối sống là tổng thể các quan hệ xã hội của con người với những hình
thức và đặc trưng tiêu biểu cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã hội
trong những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể” [24, tr.10].
Nổi lên trong lối sống là hoạt động hằng ngày của con người, tổng hợp
trong đó những quan hệ về kinh tế, văn hóa, tư tưởng, đạo đức… Nội dung thực
tế của lối sống là cái mà con người nhìn thấy ở đó ý nghĩa tồn tại của mình. Lối
sống phụ thuộc vào thời đại mà người ta đang sống, với các điều kiện vật chất,
kinh tế, các quan hệ xã hội, các thói quen, tập quán, tục lệ của thời đại đó.
Như vậy, ta có thể nói rằng: Lối sống là một thói quen có định hướng, có
chất lượng lý tưởng. Lối sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu
trúc, nền văn hóa, đặc trưng văn hóa của một con người hay một cộng đồng. Lối
17
sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng văn hóa và
trí tuệ của một con người. Nó khơng chỉ là hành vi như cách đi lại, ăn nói, nó là
hành vi hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tư duy, làm việc và phương cách xử lý
các mối quan hệ. Ta có thể định nghĩa lối sống như những cách thức, phép tắc tổ
chức và điều khiển đời sống cá nhân và cộng đồng đã được thừa nhận rộng rãi
và trở thành thói quen.
Lối sống có quan hệ chặt chẽ với phương thức sản xuất của mỗi thời đại.
Theo C.Mác, phương thức sản xuất là cơ sở đầu tiên để chúng ta nghiên cứu, tìm
hiểu về lối sống. Cũng từ đó, có thể kết luận rằng mỗi tầng lớp, mỗi nhóm người
có lối sống riêng của mình. Tuy nhiên, lối sống hình thành và thể hiện không chỉ
trong lao động sản xuất, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác như hoạt động xã hội,
hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng văn hóa, thể dục thể thao...
Lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như: Cách thức lao động, làm
ăn, kinh doanh; các phong tục tập quán; cách thức giao tiếp, ứng xử với nhau;
quan niệm về đạo đức và nhân cách.
Trong xã hội hiện đại, nhờ những thành tựu khoa học kỹ thuật, sự giao
lưu của con người không chỉ khắc phục được những hạn chế cố hữu về thời gian
và không gian trước đây, mà còn diễn ra với sự đổi mới cơ bản về chất, nghĩ là
khoảng cách giữa lối sống cá nhân và lối sống cộng đồng ngày càng bị thu hẹp.
Cũng như hành vi cá nhân, lối sống cá nhân không tuyệt đối. Lối sống cá
nhân bị lệ thuộc rất nhiều vào lối sống cộng đồng. Cộng đồng sống với cá nhân
đó, được định nghĩa như là một thói quen, một tiêu chuẩn được chấp nhận bởi
cộng đồng sống thường xuyên mà người ta gọi là lưu trú, cư trú. Mật độ thời
gian đi lại, giao lưu với các cộng đồng khác ngày càng lớn hơn do nhu cầu làm
ăn phát triển, hội nhập, giao lưu… Như vậy, các cá nhân khơng những va chạm
với cộng đồng mình mà còn va trạm với cộng đồng khác và các cộng đồng cũng
va chạm với nhau. Điều này tạo ra sự hình thành các tiêu chuẩn về lối sống, về
giao lưu rất đặc biệt trong thời đại hiện nay.
18
Từ phân tích như trên có thể hiểu, lối sống là các chiều cạnh chủ quan của
văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thơng qua hoạt động sống
của con người trong những điều kiện sống xác định.
Như vậy, phạm trù lối sống có thể định nghĩa như sau: Lối sống bao gồm
tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được
một bộ phận lớn hoặc tồn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực
hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện
chứng của các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ hiện hữu của
chúng ta.
Công trình nghiên cứu này đề cập vấn đề lối sống của học sinh trường Dự
bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn được nhận thức trên nội dung: Lối sống trước hết
được coi là một kiểu sống; lối sống là tổng hợp những quan niệm của cá nhân về
lợi ích vật chất, tinh thần và những hành vi thực hiện lợi ích đó. Nhận thức này
gần trùng hợp với khái niệm lối sống mà Tiến Sỹ triết học Tolsstykh nêu ra:
“Lối sống là những hình thức cố định điển hình (đối với những quan hệ xã hội
cụ thể lịch sử) các hoạt động của cá nhân và tập đoàn của con người, những nếp
nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt và
giải trí” [27, tr.27].
Lối sống, đạo đức là những yếu tố cơ bản, gắn liền với mọi mặt của đời
sống vật chất và tinh thần của con người và các nhóm xã hội. Giữa đạo đức và
lối sống có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Đạo đức có tác động quan trọng chi
phối lối sống, cịn lối sống có tác động hai mặt tích cực và tiêu cực đến quá trình
củng cố đạo đức.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Đảng, những đức tính của con người
Việt Nam cần phải xây dựng, phát triển trong giai đoạn cách mạng mới là: có
tinh thần u nước; bản lĩnh chính trị vững vàng; phẩm chất đạo đức trong sáng
phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì Chủ nghĩa xã hội.
19
Xây dựng con người Việt Nam hoàn thiện về nhân cách, lối sống là một
công việc vừa rất cơ bản, chiến lược, vừa rất cấp bách. Trong đó, bốn giá trị lớn
gồm: lý tưởng sống; năng lực trí tuệ; vẻ đẹp đạo đức; bản lĩnh văn hóa, trở thành
nền tảng nhân cách vững chắc của con người Việt Nam thời kỳ Cơng nghiệp
hóa, Hiện đại hóa và hội nhập Quốc tế. Trong bối cảnh có nhiều tác động phức
tạp hiện nay, truyền thống và bản lĩnh văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng
vững chắc để xây dựng và vun đắp những giá trị truyền thống tốt đẹp trong đời
sống xã hội. Vì vậy, để làm được điều đó, cần phải có sự đồng thuận trong nhận
thức và hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội.
1.1.3. Giáo dục đạo đức, lối sống
Giáo dục là một quá trình tác động đến đối tượng để hình thành trong
họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng… đạo đức và được thể hiện ở hành vi
đạo đức.
Giáo dục đạo đức là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự nhận thức và hành động theo những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đạo đức và giáo
dục đạo đức trong quá trình đào tạo con người. Người nói: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [39, tr.310].
Đạo đức là một nội dung cơ bản của giáo dục, là mục tiêu của giáo dục.
Giáo dục đạo đức là phương thức truyền tải đạo đức của thế hệ trước cho thế hệ
sau. Giáo dục là nền tảng của đạo đức. Giáo dục là nơi giữ gìn, truyền thụ và
phát huy hệ thống giá trị chung của loài người. Thơng qua giáo dục mà tri thức
lồi người được sáng tạo, con người thích nghi nhanh với cuộc sống, cá tính
sáng tạo phát triển nhanh, góp phần thúc đẩy đạo đức phát triển. Đạo đức phát
triển tạo điều kiện cho giáo dục thực hiện được mục tiêu, cải tiến nội dung,
phương pháp, nâng cao chất lượng của giáo dục.
20
Vì vậy, nói tới đạo đức là phải nói tới giáo dục. Con người khi sinh ra
chưa có đạo đức, muốn có đạo đức con người phải được sống, giáo dục trong
môi trường xã hội, nhà trường, để lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động của chủ thể giáo dục tới đối tượng
giáo dục để hình thành cho họ ý thức đạo đức; tình cảm, niềm tin đạo đức; và
quan trọng hơn cả là hình thành cho họ hành vi và thói quen đạo đức. Giáo dục
đạo đức về bản chất là quá trình biến hệ thống chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội
thành đòi hỏi bên trong, thành tình cảm, niềm tin, nhu cầu, hành vi và thói quen
đạo đức của đối tượng giáo dục.
Đạo đức và lối sống có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Giáo dục đạo đức,
lối sống là hình thành cho con người những quan điểm cơ bản, những nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức, lối sống cơ bản của xã hội. Dựa trên các quan điểm,
nguyên tắc cơ bản ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng
đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà trường có quan hệ chặt chẽ với giáo
dục tư tưởng, chính trị, giáo dục truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, giáo
dục pháp luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm cung cấp cho học sinh những
phương thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội. Mục đích cao nhất của giáo
dục đạo đức, lối sống chính là hình thành ở học sinh thói quen, hành vi đạo đức
tiến bộ trong cuộc sống.
Trước sự tác động của khoa học, công nghệ đang làm cho đời sống kinh tế
- xã hội có những chuyển biến mau lẹ. Để có thể thích nghi với hồn cảnh đó,
địi hỏi học sinh ln có tinh thần tự chủ, nhạy bén, chấp nhận hy sinh, dám
đương đầu và khẳng định mình. Vì thế, một trí tuệ, ý chí mạnh mẽ chủ động
trong công việc là những phẩm chất của thanh niên, học sinh, phải coi đó là
những điều kiện để sau khi ra trường, các em có thể hồn thành nhiệm vụ do
cuộc sống đặt ra.
21
Giáo dục đạo đức, lối sống là nhiệm vụ bao trùm và xun suốt tồn bộ
q trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trường Trung học phổ
thơng nói chung và học sinh các trường Dự bị Đại học Dân tộc nói riêng, là vấn
đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục - đào tạo vì sự nghiệp phát triển của
con người và sự phát triển của xã hội.
1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức, lối sống với sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc
1.2.1. Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần quan trọng trong việc hình
thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa
Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm thốt khỏi một trong bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra, đó là nguy cơ tụt
hậu. Để thực hiện mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Một trong những yếu tố có tính
quyết định, đảm bảo sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước chính là nguồn nhân lực. Chúng ta chỉ có một lối ra duy nhất là phát
huy nhân tố con người “Sự đi lên của chúng ta phải dựa vào thế mạnh duy nhất
của mình đó là con người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam, tiềm năng chất xám Việt
Nam” [6], mà trước hết lực lượng học sinh, thanh niên có đủ trình độ học vấn
cao. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của
Đảng đã chỉ rõ: “Sự nghiệp cơng nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất
nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
khơng, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay
không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng học sinh, thanh niên, sinh viên, vào việc
bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ” [14, tr.82].
Để đào tạo nên những con người có đủ trình độ học vấn, có sự phát triển
tồn diện về nhân cách thì cơng tác giáo dục đạo, đức lối sống cho thế hệ trẻ
thanh niên, học sinh, sinh viên là hết sức cần thiết.
22
Sự hình thành nhân cách của mỗi người là quá trình thâm nhập và chiếm
lĩnh các quan hệ xã hội của bản thân nó. Nhân cách là một sản phẩm xã hội gắn
liền với hoạt động sống của từng cá thể và thuộc về giá trị xã hội mà cá thể
chiếm lĩnh. Mặt khác, trong các yếu tố để hình thành và phát triển nhân cách,
môi trường tự nhiên và xã hội là điều kiện quan trọng.
Trong nhân cách, giáo dục có tác dụng hết sức to lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh, là con đường đặc trưng cơ bản để loài người
tồn tại và phát triển. Nhiều giá trị, trong đó có giá trị đạo đức, lối sống được
hình thành chủ yếu bằng con đường giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời
đã nói rằng: Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh
tế, văn hóa… tất cả đó chứng tỏ rằng, giáo dục giữ một vai trò hết sức to lớn
trong đời sống xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Là một trong những nội dung giáo
dục học sinh trong nhà trường, theo phương châm: “tiên học lễ, hậu học văn”.
Bác Hồ đã dạy “Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức”.
Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc quan trọng “đạo đức là cái gốc quan
trọng của con người phát triển tồn diện mà nhà trường có trách nhiệm đào tạo,
do đó cơng tác giáo dục đạo đức phải được xem là then chốt trong nhà trường.
Nếu công tác này được quan tâm đúng mức sẽ có tác dụng thúc đẩy việc nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện” [8, tr.23].
Giáo dục đạo đức, lối sống hình thành nên nhân cách con người mới Xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với giai đoạn lịch sử mới, góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển. Vì đạo đức, lối sống được đúc kết từ tinh hoa văn hóa dân tộc và được lưu
truyền qua nhiều thế hệ kế tiếp. Đạo đức, lối sống được xem là một chuẩn mực
xã hội mà dựa vào đó là thanh niên, học sinh thực hiện tốt những bổn phận đạo
đức của bản thân đối với việc học tập, có trách nhiệm với gia đình, xã hội; phù
23
hợp với những chuẩn mực truyền thống của dân tộc và của nhân loại; giúp thanh
niên, học sinh chống đỡ được những cám dỗ tiêu cực của cơ chế thị trường.
Học sinh, sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước. Vận mệnh
tương lai đất nước nằm trong tay những học sinh, sinh viên hơm nay. Xã hội
địi hỏi thanh niên, học sinh, sinh viên phải là những con người mới Xã hội chủ
nghĩa: phát triển trí tuệ, về đạo đức, lối sống, tâm hồn và thể chất. Nói cách
khác, thanh niên, học sinh, sinh viên phải phát triển toàn diện: vừa hồng vừa
chuyên; và hồng được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, giáo dục đạo đức, lối sống là
nhiệm vụ quan trọng nhất trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách
học sinh.
Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học. Sự
nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng gắn liền với cơ chế thị trường đang
tạo ra những điều kiện thuận lợi chưa từng thấy về nhiều mặt cho thế hệ trẻ,
trong đó có thanh niên, học sinh. Trước hết đó là sự quan tâm, chăm lo, tạo điều
kiện cho thanh niên, học sinh được học tập, rèn luyện. Kết quả của những năm
đổi mới đã tạo ra sự ổn định chính trị, đời sống vật chất tinh thần được nâng cao
chưa từng có, chủ trương mở cửa, hội nhập đã tạo ra cơ hội cho thế hệ trẻ tiếp
cận với những thành tựu mới của nhân loại.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước, cơ chế
thị trường còn tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức của dân tộc, đặc biệt là
thế hệ trẻ. Đó là những giá trị đạo đức đang bị xói mịn bởi chủ nghĩa thực dụng,
duy vật chất. Hơn nữa, thanh niên, học sinh ngày nay chạy theo lối sống hưởng
thụ mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền
tảng cốt yếu của con người; một số ít bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động
chống sự nghiệp cách mạng; tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ
diễn biến phức tạp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng
hội nhập của thanh niên, học sinh còn nhiều hạn chế...
24
Đứng trước những tiêu cực thách thức đó, cơng tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành nhân
cách, lối sống tốt đẹp của các em. Học sinh các trường Dự bị Đại học Dân tộc là
lứa tuổi mới lớn, rất nhạy cảm với mọi vấn đề của cuộc sống, thích khám phá,
tìm hiểu những cái mới lạ nên dễ bị tác động trực tiếp của mặt trái cơ chế thị
trường. Do đó, việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết và là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đạo đức là vấn
đề cốt lõi và phải đặt ở vị trí trung tâm trong việc xây dựng con người mới. Cho
nên, học sinh cần phải nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt để không ngừng
tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu thành những con người toàn diện, có đủ đức và tài
phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
1.2.2. Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần quan trọng xây dựng đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tương lai
Đào tạo nguồn cán bộ cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi là một
chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn. Văn kiện Hội nghị
lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nêu: “Đối với miền núi,
vùng sâu, vùng khó khăn, xóa điểm trắng về giáo dục ở ấp, bản. Mở thêm các
trường dân tộc nội trú và các trường bán trú ở cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho
các trường chuyên nghiệp và đại học để đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước
hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý” [13, tr.193].
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Ưu
tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triền nông nghiệp và nông thôn miền núi,…
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số” [15, tr.203]. Chủ
trương mang tính chiến lược của Đảng, Nhà nước trong việc đào tạo nguồn cán
bộ cho miền núi đang được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương
đặc biệt quan tâm.
Để đưa những chủ trương của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, đồng
thời góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho miền núi, vùng dân tộc, đáp ứng yêu