Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng kinh tế thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.8 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯƠNG THỊ NGỌT

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC ĐỂ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯƠNG THỊ NGỌT

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC ĐỂ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN VIẾT QUANG

Nghệ An, 2016


3

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, tơi xin được gửi lời cảm ơn đến trường Đại học
Vinh, khoa đào tạo Sau đại học, Trung tâm Đảm bảo chất lượng, q thầy cơ
khoa Giáo dục chính trị đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn. Đặc
biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Thầy PGS. TS. Trần Viết Quang, người trực
tiếp hướng dẫn, định hướng khoa học, động viên và giúp đỡ tơi hồn thành luận
văn.
Tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, tập thể
giảng viên, các bạn sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
đã tạo điều kiện, đã hợp tác với tơi trong q trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã ln động viên, khích lệ và giúp đỡ tơi trong suốt
q trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Dù đã nỗ lực thực hiện, nhưng luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được sự thơng cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý
kiến của các nhà khoa học và q thầy cơ để cơng trình được hồn thiện hơn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2016
Tác giả


Lương Thị Ngọt


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................. 3
B. NỘI DUNG ............................................................................................. 8
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên ................................................... 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ........................................................ 8
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức được vận dụng trong giáo
dục đạo đức cho sinh viên ............................................................................... 12
1.3. Tính tất yếu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để giáo dục
đạo đức cho sinh viên hiện nay ....................................................................... 20
Chương 2: Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để
giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh ........................................................................................................ 25
2.1. Khái quát về Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh ...
..................................................................................................................... 25
2.2. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh những năm
qua .................................................................................................................. 29
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường Cao đẳng Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh .................................... 48
3.1. Quan điểm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để giáo dục đạo
đức cho sinh viên ............................................................................................ 48
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay .................................................................. 54
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 70


5

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 72


6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sinh viên là một bộ phận của thế hệ trẻ ngày càng có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển đất nước. Phần lớn trong số họ cũng chính là
thanh niên - những con người đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới, lực
lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là chủ nhân
tương lai của nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đánh giá về vai trò của
thanh niên đã nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”. Trong Di chúc thiêng liêng, một lần nữa Người căn dặn: “Đảng
phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng họ thành những người kế tục sự nghiệp
cách mạng vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”. Kế thừa và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) Đảng ta
khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của
đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Hiện nay, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với nền
Kinh tế thế giới. Bên cạnh thuận lợi cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn
thử thách, cơ cấu xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi, sự du nhập của
nhiều luồng văn hóa, lối sống bên ngồi có nhiều yếu tố khơng phù hợp với
văn hóa, lối sống người Việt, ảnh hưởng xấu đến thanh niên, sinh viên về ý
thức chính trị, tâm trạng, đạo đức lối sống… Chính vì lẽ đó, sinh viên phải
xây dựng cho mình một chuẩn mực, một thước đó, một lăng kính để phân
biệt đúng sai, chắt lọc những cái hay cái đẹp từ những luồng văn hóa bên
ngồi. Muốn vậy sinh viên phải khơng ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


7

Nghiên cứu về vấn đề thanh niên, sinh viên và đạo đức, lối sống cho
thanh niên, sinh viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã có nhiều cơng
trình khoa học có giá trị được cơng bố như:
GS Vũ Khiêu (Chủ biên) (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh
niên, Hà Nội; Đồn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Thị Quy Nhơn (2004),
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách mạng Việt Nam,
Nxb Thanh niên, Hà Nội; Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2006), Nghiên cứu
học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân; TS.
Dương Tự Đam (2008), Giáo dục thanh niên kế thừa nhân cách Hồ Chí
Minh để trưởng thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban
Tuyên Giáo Trung Ương biên (2009), Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các cuốn sách trên, các tác giả bàn đến nguồn gốc, đặc điểm tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, các giá trị chuẩn mực của đạo đức mới, con đường tu
dưỡng đạo đức cách mạng. Vai trò của thanh niên trong cách mạng Việt
Nam. Làm rõ đường lối, chính sách phát triển thanh niên của Đảng và nhà
nước ta trong thời kỳ đổi mới, trình bày nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh xây dựng nhân cách sống cho thế hệ trẻ và đưa ra một số mơ
hình giáo dục thanh niên thích hợp. Cung cấp những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam
trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, cịn có các bài nghiên cứu được cơng bố trên tạp chí
như: Đồn Văn Khiêm, Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức
cho thanh niên trong điều kiện hiện nay, Tạp chí Triết học, số 2-2001; Vi
Đức Được, Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn


8

hiện nay, Tạp chí Thanh niên, số 8-2001; Th.S Ngơ Thị Thu Ngà, Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Tạp chí Giáo
dục lý luận (tháng 5/2007), đề cập đến sự cần thiết phải giáo dục những
phẩm chất đạo đức cơ bản cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, trong những năm gần đây có khá nhiều học viên cao học đã
chọn đề tài giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên - sinh viên làm đề tài
luận văn thạc sỹ như:
Lê Thị Thủy (2000), Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân
cách của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, luận án tiến
sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Phạm Tấn Xuân Tước
(2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh; Hồng Thị Như Quỳnh (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên vào giáo dục đạo đức cho học
sinh Trung học phổ thơng tỉnh Ninh Bình hiện nay, Luận án thạc sỹ Chính trị
học, Đại học quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Dệ (2012), Nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ Khoa học giáo dục, Đại học Vinh;
Nguyễn Hải Chi (2012), Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức lối sống cho
học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay; luận văn thạc sỹ
Khoa học giáo dục, Đại học Vinh.
Những luận văn nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, tham khảo, tác giả thấy chưa có cơng trình nào trực
tiếp nghiên cứu một cách đầy đủ về giáo dục đạo đức cho sinh viên ở
Trường Cao đẳng Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó, tác giả chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao


9

đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp
nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Làm rõ những nội dung cơ bản về tư tưởng đạo đức, giáo dục đạo
đức cho thanh niên - sinh viên của Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Trường Cao
đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
để giáo dục đạo đức cho sinh viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên trên địa bàn, cụ thể
là Trường Cao đẳng Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh; với sự điều tra, khảo
sát trong thời gian từ năm 2012 đến nay.


10

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, phương pháp lơgíc, phương pháp lịch sử đồng thời sử dụng phương
pháp điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
cũng như thực trạng và giải pháp nâng cao việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức để giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.

- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu và học tập mơn “Giáo dục chính trị”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
trong các trường Trung cấp, Cao đẳng, và những ai quan tâm đến tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


11

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm và có vai trị
quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Đây là vấn đề luôn
nhận được sự quan tâm của nhiều lĩnh vực khoa học và nhà khoa học, mỗi
lĩnh vực khoa học, nhà khoa học lại đề cập đến vấn đề này ở những khía
cạnh với phạm vi nội dung khác nhau.Những tư tưởng đạo đức từ lâu đã xuất
hiện trong Triết học Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
xuất hiện rất sớm trong lịch sử, và xem xét đạo đức như một hiện tượng tinh
thần của xã hội, ln đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ với tồn tại xã hội, do
đó sự phát sinh, hồn thiện của nó được quy định bởi sự phát sinh, phát triển
và hoàn thiện con người. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Bàn về đạo đức

cộng sản chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy
xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người
cộng sản” [18; 214]. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa
học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác
không thể đạt tới. Sự ra đời và phát triển của đạo đức học mác-xít thực sự đã
tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức
học mác-xít phủ nhận tất cả những quan điểm cho rằng đạo đức đứng trên và
đứng ngoài lịch sử xã hội loài người. Đạo đức chỉ có thể bắt nguồn từ hiện


12

thực cuộc sống của chính con người và phục vụ trở lại cuộc sống đó. Đi tìm
lời giải về nguồn gốc, bản chất của đạo đức từ chính đời sống lao động của
con người là cách tiếp cận khoa học nhất của đạo đức học mác-xít mà các
quan điểm trước đây khơng có được.
Theo giáo trình “Đạo đức học” của Bộ Giáo dục và đào tạo: đạo đức
là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ
bản thân cuộc sống con người. Trong đời sống của mỗi con người, quy luật
xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải ý thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của
mình trong q khứ, hiện tại và nhu cầu phải làm gì trong tương lai. Những
hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối về mối tương quan giữa cá nhân
với cá nhân, cá nhân và xã hội cho phép tới một giới hạn nhất định trong
vòng trật tự chung của cộng đồng, của dân tộc, ... nhằm đảm bảo quyền lợi
cho tất cả các thành viên vươn lên tích cực, tự giác tạo thành động lực phát
triển của xã hội. Đó chính là những quy tắc, chuẩn mực hoàn toàn tự giác
trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các quan hệ xã hội, để từ đó
đánh giá con người có đạo đức hay phi đạo đức.
Bản chất của đạo đức là quan hệ lợi ích, biểu hiện ở sự quan tâm, tự

nguyện, tự giác của mỗi người đối với lợi ích của người khác và lợi ích của
xã hội, từ đó hình thành những phẩm chất, những đức tính của cá nhân thông
qua việc thực hiện các hành vi phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc, giá trị và
yêu cầu của xã hội.
Đạo đức hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động,
lao động sản xuất, từ những quan hệ con người với con người trong quá
trình hoạt động. Sự hình thành những phẩm chất đạo đức của con người gắn
với tình cảm gia đình, với ý thức cộng đồng, giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, Ph.Ăngghen đã viết: "Xét cho đến cùng,
mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình Kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [19; 137].


13

Đạo đức của mỗi con người được thể hiện thông qua hành vi đạo đức.
Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có
ý nghĩa về mặt đạo đức. Hành vi đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhu
cầu đạo đức. Trong một điều kiện nhất định, nhu cầu đạo đức sẽ được nổi
bật lên và dần xác định đối tượng để thỏa mãn nhu cầu đó. Q trình đó diễn
ra thì nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành.
1.1.1.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng là quan điểm, ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực
khách quan. Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con
người. Vì vậy, ý thức như thế nào phụ thuộc vào đối tượng, phản ánh, mơi
trường xã hội và trình độ nhận thức, tâm sinh lý của mỗi người. Khi quan
điểm được khái quát, xây dựng thành hệ thống lý luận, phản ánh lợi ích một
giai cấp thì được gọi là hệ tư tưởng của giai cấp đó.
Khái niệm tư tưởng liên quan trực tiếp đến khái niệm nhà tư tưởng.
Một người xứng đáng là nhà tư tưởng, theo V.I.Lênin khi người đó biết giải

quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị, sách lược, các vấn đề
về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự
phát.
Trong thuật ngữ tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa
ở tầm khái quát triết học. Tư tưởng ở đây không phải dùng với nghĩa tinh
thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với
nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây
dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp luận) nhất
quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc được
hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực
tiễn, cải tạo hiện thực.
Quá trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp
đến cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.


14

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) đánh dấu một
cột mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta đă khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại
hội định nghĩa: "tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư
tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và
của cả dân tộc” [7; 37].
Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được
những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận
cứ khoa học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (tháng 4-2001) xác định khá tồn diện và có hệ thống những vấn đề

cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. "Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi" [12; 19].
Dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn
nhận với tư cách là một hệ thống lý luận, với các phương thức tiếp cận như:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh được nhận diện như một hệ thống tri
thức tổng hợp bao gồm: tư tưởng triết học; tư tưởng kinh tế; tư tưởng chính
trị; tư tưởng quân sự; tư tưởng văn hóa, đạo đức và nhân văn.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên


15

chủ nghĩa xã hội; về Đảng Cộng sản Việt nam; về đại đoàn kết dân tộc và
đoàn kết quốc tế; về dân chủ. Nhà nước của dân, do dân, vì dân: về văn hóa,
đạo đức.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức được vận dụng
trong giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.2.1. Giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc trong bối cảnh
đất nước đổi mới
Chúng ta có thể tự hào nói lên rằng, yêu nước là truyền thống có từ ngàn
đời nay của dân tộc Việt Nam, mỗi khi đất nước bị kẻ thù xâm lược thì tinh
thần ấy lại trỗi dậy trong mỗi người dân đất Việt. Tinh thần bất khuất chống

giặc ngoại xâm đã được chứng minh qua câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Dân tộc ta có lịng nồng nàn u nước, đó là truyền thống vơ cùng q báu của
dân tộc ta.
Tuy tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm thể hiện ý chí quyết chiến
với kẻ thù. Thế nhưng khi qn thù thất thủ thì tính nhân đạo của người Việt
Nam được biểu hiện rõ nét ở thái độ đối xử không phải kẻ thù, mà là giữa con
người với con người, đó là: cấp lương thực, phương tiện, quần áo để cho họ rút
về nước. Đây biểu hiện tính bản thiện của người Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam ở mỗi thời đại đều mang trong tim dòng máu yêu nước, mà tinh thần yêu
nước ấy ẩn chứa ở trong đó nội dung đạo đức cao cả. Chính vì thế, giáo dục giá
trị lịng u nước trở thành nhân tố đánh giá thang giá trị đạo đức của con
người Việt Nam và chính vì thế mà không thể không giáo dục đạo đức cho sinh
viên trong thời kỳ đổi mới của đất nước đặc biệt là đạo đức sinh viên trong nền
Kinh tế thị trường, trong quá trình hội nhập ở Việt Nam hiện nay, giáo dục
lịng u nước giúp sinh viên có nhận thức đúng và từ đó có những hành động
thiết thực sau này, giúp họ có định hướng đúng trong cơng việc của mình trong
tương lai (khi rời ghế nhà trường).
Cần quan tâm đến đối tượng sinh viên, lớp người dễ tiếp thu cái tốt,
nhưng cũng dễ ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực của xã hội, của nền kinh


16

tế thị trường có nguy cơ ảnh hưởng xấu về mặt đạo đức của sinh viên, có thể
do quá tự mãn, say sưa trong chiến thắng bởi bề dày lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc mà qn đi phía trước cịn bao nhiêu khó khăn,
thử thách phải vượt qua. Trong chiến đấu, chúng ta đã mất mát khá nhiều sức
người và sức của, nhưng trong xây dựng đất nước, chúng ta cũng không phải
vượt qua dễ dàng những khó khăn, thử thách đang gần kề trước mắt của chúng
ta nếu như ta chủ quan, lơ là, thiếu cảnh giác thì nó sẽ thâm nhập vào ta ngay.

Đó là chủ nghĩa cá nhân, là diễn biến hồ bình của các thế lực thù địch, là tham
nhũng, tiêu cực, sống xa đoạ, thực dụng, bẻ cong cán cân công lý, xem thường
kỷ cương phép nước, đây là hiện tượng xuống cấp về đạo đức, lối sống, vô tình
tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Điều này địi hỏi mỗi sinh viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, biết
tự hào với truyền thống hào hùng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nhưng
cũng phải có tư tưởng vững vàng, quyết tâm đồn kết, cùng nhau xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
sự thể hiện tinh thần yêu nước của mình trong giai đoạn mới. Ngoài nhà trường
phải thường xuyên quan tâm đến giáo dục đạo đức cho sinh viên, bằng nhiều
hình thức và tổ chức phù hợp, trong đó yếu tố gia đình cũng khơng kém phần
quan trọng để giáo dục lịng u nước cho sinh viên. Có lịng u nước mới
dám xả thân mình bảo vệ và xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, để
đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói. Có u nước mới khắc phục mọi khó khăn cùng nhau ra sức dựng
nước nhằm mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh, có u nước mới tạo được niềm tin ở tương lai xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Ngày nay, trong bối cảnh đổi thay của dân tộc và thế giới thì vấn đề này
lại càng phải được quan tâm hơn. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào
dân tộc để làm cho các em có thêm niềm tin ở sự lãnh đạo của Đảng, sự quản


17

lý của Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, làm cho sinh viên có
thêm niềm tin để các em ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện bản thân để sau
này phục vụ quê hương đất nước, phục vụ nhân dân được tốt hơn.
1.2.2. Giáo dục đức tính cần cù, siêng năng, sáng tạo trong học tập

cho sinh viên
Hoạt động chính của sinh viên khi cịn ngồi trên ghế nhà trường đó là
hoạt động học tập. Người thầy giáo cần phải dạy cho sinh viên của mình cách
học và mục tiêu học tập đúng đắn sẽ làm cho họ có động cơ học tập tốt hơn,
khi học tập tốt, trở thành người có năng lực, tài năng thì khi đó họ có nhiều khả
năng cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân. Học ở trường học hay ở trường
đời, học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi, khơng ai trong cuộc đời của mình mà
khơng trải qua quá trình học tập.
Việc học tập, nâng cao trình độ có vai trị hết sức quan trọng, điều này
đã được Bác đề cập đến ngay trong buổi họp đầu tiên của hội đồng Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người chủ trương mở chiến dịch chống
nạn mù chữ, tiêu diệt giặc dốt, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. Hồ Chủ tịch nói "Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu" [23; 64] và nhấn mạnh "Dốt là dại, dại thì hèn. Vì vậy, khơng chịu
dại, khơng chịu hèn, cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc
cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới" [23; 65].
Thực tế, chúng ta cũng thấy rằng, đối với các nước phát triển cao trên
thế giới như Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc... không thể đi lên từ một
dân tộc ngu dốt, thiếu trình độ học vấn, thiếu tri thức. Ngày nay khoa học và
cơng nghệ phát triển như vũ bão, địi hỏi tương ứng với nó là một trình độ học
vấn cao mới có thể vận dụng những thao tác kỹ thuật và quy trình cơng nghệ
vào các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là vận dụng vào trong lĩnh vực sản xuất
vật chất. Việc giáo dục đạo đức mới trong học tập cho sinh viên là một vấn đề
không thể thiếu được đối với sinh viên của trường.


18

Nhiệm vụ học tập là chính, các hoạt động khác sẽ phục vụ cho nhiệm vụ
học tập, nhưng không phải chỉ học tập giỏi là có đạo đức tốt, bởi thực tiễn cũng

đã chứng minh, đem cái tài của mình để phục vụ cho những công việc, những
hành động phi đạo đức sẽ trở thành kẻ phá hoại, có hại cho quốc gia, dân tộc
và nhân loại. Do đó học tập và rèn luyện là hai mặt có mối quan hệ mật thiết,
gắn bó và tác động qua lại với nhau một cách biện chứng. Vì vậy cần rèn luyện
cho sinh viên ý thức học tập tự giác, có tính cần mẫn, siêng năng và phải có
cách học sáng tạo cho mình, tránh rập khn, máy móc theo sách vở mà học
phải hành, bởi lẽ, học tập cũng là hoạt động lao động trí óc một cách sáng tạo,
trong học tập, cần giáo dục cho sinh viên định hướng cho mình mục tiêu, thái
độ, động cơ, nhu cầu cần đáp ứng cho xã hội. Luật Giáo dục Việt Nam cũng đã
đề cập mục tiêu học tập của sinh viên là: Học để biết, học để làm người, học để
chung sống. Sản phẩm của người thầy làm ra phải đáp ứng được nhu cầu của
xã hội. Dạy cái gì sinh viên và xã hội cần, không phải dạy cái người thầy có
mà người học khơng thể dùng được trong tương lai, khi tốt nghiệp ra trường
không được xã hội chấp nhận, như thế là xa rời mục tiêu giáo dục của nước ta.
Ơng bà ta thường nói: Có cơng mài sắt, có ngày nên kim, điều đó nói lên
tính cần cù, siêng năng, sáng tạo của con người trong cuộc sống nói chung và
trong học tập của sinh viên nói riêng. Do đó, trong học tập, dứt khốt phải học
thực chất, học tự giác, xác định thái độ học cho ai, học để làm gì, học như thế
nào. Nếu cần cù lao động, khơng ỷ lại, trơng chờ, cầu tồn ắt sẽ có một kết quả
tốt. Tính kiên nhẫn là đức tính cần phải rèn luyện đối với sinh viên, khơng nên
gặp khó tỏ ra chán nản. Bác Hồ của chúng ta đã từng dặn rằng: khơng có việc
gì khó, chỉ sợ lịng khơng bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên. Mặc
dù đã là sinh viên nhưng cũng nên nhớ điều thứ hai trong năm điều Bác Hồ dạy
thiếu niên nhi đồng rằng: Học tập tốt, lao động tốt. Chỉ có học tập tốt mới có
nhiều khả năng cống hiến sức mình cho sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Do vậy, việc rèn luyện, giáo dục đạo đức trong học tập cho sinh
viên sẽ làm cho họ xác định đúng đắn động cơ, thái độ học tập của mình, từ đó
sinh viên có sự quyết tâm, kiên nhẫn vượt qua khó khăn, thử thách, trung thực,



19

tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân để sau này trở thành một người có ích cho
quốc gia, xã hội.
Lao động chăm chỉ kích thích tư duy sáng tạo của con người. Qua lao
động chăm chỉ, mỗi con người càng hồn thiện hơn về trí tuệ, tình cảm và đạo
đức. Trong thời đại khoa học - kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, người
lao động cần phải học tập, rèn luyện khơng ngừng để có được kỹ năng nghề
nghiệp ở trình độ cao cùng với những hiểu biết mới về khoa học - kỹ thuật, văn
hoá, nhân văn nói chung thì mới khơng bị tụt hậu.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII Đảng ta đã
xác định, đối với nước ta hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước thì học tập phải trở thành nhu cầu bức xúc, trách nhiệm,
nghĩa vụ đạo đức của mỗi người.
Đây cũng là tiêu chuẩn có giá trị định hướng cho sinh viên phấn đấu trở
thành con người tốt, để họ tự điều chỉnh hành vi của mình và để có một tư
tưởng đạo đức, lối sống trung thực, đích thực của một con người tốt ở cả ba
mơi trường: gia đình, nhà trường và xã hội.
1.2.3. Giáo dục đức tính khiêm tốn, ý thức tổ chức kỷ luật trong học
tập, sinh hoạt tập thể
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" Hồ Chí Minh cũng từng nhắc đến
một số bệnh thường xảy ra, như là thói ba hoa. Trong sinh viên cũng không
ngoại lệ. Ba hoa thể hiện sự không khiêm tốn, tự cho mình là hay là tài giỏi,
hay khoe khoang trước bạn bè, cần hết sức tránh căn bệnh này. Giáo dục đạo
đức cho sinh viên nên cần quan tâm giáo dục đức tính khiêm tốn, khơng kiêu
ngạo, tự phụ, học giỏi nhưng lại thiếu tính khiêm tốn khơng biết giúp đỡ bạn bè
cùng tiến bộ, không chấp hành tổ chức kỷ luật của lớp, của trường trong học
tập, sinh hoạt tập thể là hành động thiếu đạo đức. Giáo dục đạo đức cách mạng
cho sinh viên sẽ tránh được sự kiêu ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, cho ta đây tài
giỏi hơn người, mẫu sinh viên như thế sẽ dễ bị bạn bè chán ghét, xa lánh.

Trong học tập cũng như trong sinh hoạt tập thể, nếu quan tâm giáo dục cho


20

sinh viên ý thức tổ chức, kỷ luật, thì sinh viên nhận thức được ý thức trách
nhiệm của mình đối với mọi người, thấy được ý thức trách nhiệm công dân của
mình, biết sống vì mọi người vì cộng đồng, thực hiện nếp sống văn minh, hiện
đại, biết đoàn kết giúp đỡ bạn bè trong học tập, biết giúp đỡ mọi người khi gặp
khó khăn. Biết quan tâm giúp đỡ mọi người, giúp sinh viên có nếp sống văn
minh dễ thơng cảm với cuộc sống khó khăn của người khác, xây dựng ý thức
vì tập thể, biết sống vì mọi người. Có định hướng trong học tập tốt sẽ làm cho
sinh viên thêm quyết tâm học tập thực chất, đưa mình vào khn mẫu nhất
định cần cù, kiên trì và kiên nhẫn học tập để trở thành người tài giúp ích cho xã
hội mai sau. Chính vì thế cần phải giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
trong học tập để họ có động cơ, thái độ học tập đúng đắn hơn. Điều này vẫn có
giá trị cao khi nhìn lại thời phổ thơng, sinh viên cũng đã được Bác Hồ dạy:
Học tập tốt, lao động tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Lời dạy này đúng cả cho mọi
lứa tuổi.
Người Việt Nam từ xưa đến nay ln có ý thức cộng đồng "Thương
người như thể thương thân', "Lá lành đùm lá rách", "Một cây làm chẳng nên
non...".
Cố kết cộng đồng ấy nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chung của cả dân tộc
và tính cộng đồng ấy là cơ sở hình thành chủ nghĩa tập thể. Đây có thể xem là
một đức tính hết sức cần thiết để xây dựng đất nước. Thông qua tập thể, sinh
viên sẽ có điều kiện bộc lộ, phát huy các đức tính của mình (cả đức và tài) và
được học hỏi những điều cá nhân mình chưa đạt được từ tập thể. Chính vì vậy
khơng phải chỉ ở lớp học mới truyền đạt, giáo dục đạo đức cho sinh viên, mà
thông qua các cuộc sinh hoạt ngoại khoá, tham quan các khu di tích lịch sử,
tham gia chiến dịch mùa hè xanh, phong trào thanh niên tình nguyện, sinh hoạt

văn nghệ, tổ chức các cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các buổi toạ đàm chủ đề, tổ chức thăm các gia đình chính
sách... sẽ là điều kiện, là môi trường giáo dục đạo đức cho sinh viên rất tốt.
1.2.4. Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa


21

Trong cuộc sống, con người bao giờ cũng muốn vươn tới cái chân, thiện,
mỹ, yêu nhân nghĩa, đấu tranh chống cái sai, cái ác, cái xấu.
Chủ nghĩa nhân đạo xuất hiện rất sớm trong lịch sử, tuy nhiên lúc mới
xuất hiện chỉ mới là tự phát bằng những hành vi đấu tranh chống áp bức, bất
công trong cuộc sống hàng ngày. Chủ nghĩa nhân đạo thể hiện rõ nét sự ý thức
trong những hành vi chống lại bất cơng, bóc lột của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ nét nhất mục tiêu của
mình là giải phóng con người, mà giải phóng con người cũng chính là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, trong đó, giải phóng dân tộc được xem là
nấc thang giải phóng con người ở cấp độ cao nhất.
Trong giáo dục đạo đức cho sinh viên, điều cần thiết là phải giáo dục
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa cho họ, bởi lẽ, nó khác với các loại chủ
nghĩa nhân đạo của các chế độ xã hội ra đời trước đó ở chỗ nó có nội dung tồn
diện, sâu sắc hơn, nó thủ tiêu tất cả mọi hình thức áp bức, bóc lột trong xã hội,
nó tạo cho con người có điều kiện tự do bình đẳng trong việc phát triển mọi
mặt của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế (cả đời sống vật chất, lẫn tinh thần).
Đây mới thật sự là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực không phải chỉ trên khẩu
hiệu, lời nói sng. Chính vì thế cần phải giúp cho sinh viên có được sự nhận
thức một cách đầy đủ nhất chủ nghĩa nhân đạo, để đem lại tình yêu thương con
người với nhau, dám đấu tranh cho sự tự do, bình đẳng, bác ái, cho tồn thể
nhân dân lao động có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, giải phóng con người

khỏi sự áp bức, bóc lột, thống trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sống động nhất trong thực hiện
hành vi nhân đạo xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ truyền thống yêu nước, lại
mang trong mình tấm lịng u nước, u dân vơ bờ bến. Chứng kiến sự thống
trị áp bức bóc lột người dân lao động của dân tộc Việt Nam, sự áp bức bóc lột
các dân tộc trên thế giới của chủ nghĩa đế quốc, Người đã ra đi, bôn ba xa xứ


22

tìm đường cứu nước, cứu dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới ra
khỏi cảnh tối tăm, ngu dốt do chủ nghĩa đế quốc gây ra.
Nếu thừa nhận chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là như thế thì chủ
nghĩa nhân đạo là thái độ tốt về tình yêu thương đối với con người. Cho nên
cần thiết là phải giáo dục chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa cho sinh viên để
họ có thái độ và hành vi đúng mực đối với con người, đặc biệt là biết quý trọng
và yêu thương người lao động chân chính, u lao động, ghét bất cơng, dám
bảo vệ lẽ phải, chống cái sai, cái ác, cái xấu, chống hành vi và biểu hiện của
những hành vi vơ nhân đạo, xâm phạm đến quyền và lợi ích của nhân dân lao
động.
Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên không phải chỉ trên lý
thuyết, mà phải bằng hành động, không chỉ là lý luận đạo đức, mà còn là thực
tiễn đạo đức.
Việc giáo dục chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong sinh viên
không phải cái gì đó chung chung, trừu tượng, mà là cái cụ thể, gần gũi hàng
ngày, đó là yêu nước, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu thương và vâng lời cha
mẹ, giúp đỡ bạn bè khi gặp khó khăn, kính trọng và q mến thầy cơ giáo, đó
cũng là giá trị đạo đức cao cả ở mỗi con người Việt Nam chúng ta. Mọi hành vi
phi đạo đức, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân đều là sự phản bội Tổ quốc,
phá hoại thành quả cách mạng trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện

nay của đất nước ta.
Việc giáo dục một con người có đạo đức, có lối sống vì mọi người, biết
lo lắng quan tâm đến người khác là vấn đề không phải một sớm một chiều, mà
nó cịn phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều môi trường giáo dục và mối quan hệ giữa
các yếu tố, môi trường ấy tác động lẫn nhau.
Thế giới đang hàng ngày, hàng giờ có những sự đổi thay, đặc biệt là
sự phát triển như vũ bão của lĩnh vực khoa học - công nghệ. Ảnh hưởng cả
về mặt tích cực cũng như tiêu cực trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố ở nước ta, chẳng hạn như vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu


23

cầu đổi mới với khả năng đào tạo hiện có của nhà trường, nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao với tính tự nguyện tự giác của sinh viên. Để
giải quyết các mâu thuẫn trên một cách hợp lý, khoa học, đây là vấn đề có
tính cấp thiết cần đặt ra đối với cơng tác giáo dục nói chung và giáo dục đạo
đức cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế thành phốHồ Chí Minh hiện nay,
để có định hướng đúng đắn, từ đó có thái độ tích cực, tự giác trong các hoạt
động học tập, rèn luyện và sinh hoạt tập thể lành mạnh.
1.3. Tính tất yếu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để
giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay
1.3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo dục lý tưởng
và đạo đức cách mạng cho mọi người. Đồng thời, Người còn là hiện thân của
đạo đức cách mạng, nêu gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, tồn qn.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề đạo đức ln là vấn đề được
Hồ Chí Minh quan tâm. Người xác định đạo đức là cái gốc của người cách
mạng. Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: "Cũng

như sông thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải
có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân" [22;
252]. Chính vì vậy, những vấn đề cơ bản về đạo đức cách mạng, như cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân,… đã hàm chứa trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự gương mẫu “lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” và nói đi đơi với làm
là một yêu cầu trước hết trong thực hiện đạo đức cách mạng mà bất cứ người
cán bộ, đảng viên nào trong mọi điều kiện, hoàn cảnh cũng phải phấn đấu
thực hiện. Người cho rằng: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước” [24; 84]. Bằng chính tồn bộ cuộc đời mình,


24

trong suốt hành trình tìm đường cứu nước cũng như khi giữ cương vị đứng
đầu Nhà nước, Người luôn là tấm gương mẫu mực về đời tư trong sáng, đức
sống giản dị, khiêm tốn, đồng thời nghiêm khắc với tệ quan liêu, tham
nhũng, tiêu cực,… Vượt lên trên tất cả, ở Hồ Chí Minh là hiện thân của sự
phấn đấu qn mình vì dân, vì nước, là cơng bộc tận tụy, trung thành của
nhân dân và thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững
vàng trong mọi thử thách. Người viết: "Có đạo đức cách mạng thì gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại khơng rụt rè, lùi bước"; "khi gặp thuận lợi, thành
công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn", mới "lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ"; "lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không cơng thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo,
khơng hủ hố" [26; 236].
Tuy đã đi xa, nhưng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay vẫn là

ngọn cờ dẫn đường, cổ vũ nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phấn đấu xây dựng một chế độ
xã hội tốt đẹp hơn. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một phần quý báu
nhất trong di sản tư tưởng của Người, giống như những hạt kim cương đa
diện, nhiều màu sắc. Cho dù chặng đường cách mạng mới có thể và nhất
định sẽ hình thành những giá trị đạo đức mới, thì những giá trị đạo đức Hồ
Chí Minh vẫn cịn nguyên giá trị, vẫn là nền tảng vững chắc cho các quan hệ
xã hội mới.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng giữ vị trí quan trọng trong
cơng cuộc xây dựng đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam; đã và đang góp phần quan trọng điều chỉnh hành vi của mỗi người
Việt Nam theo hướng chân, thiện, mỹ khi mà vẫn tồn tại đâu đó những thế
lực và phần tử thù địch tìm mọi thủ đoạn để xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận tư
tưởng, đạo đức của Người.


25

Không chỉ dừng lại ở tư tưởng mà tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng, một người
cộng sản vĩ đại, đồng thời đó cũng là tấm gương đạo đức của một người
bình thường, ai cũng có thể học theo để làm một người cách mạng, một
người công dân tốt.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là lời giải về bài toán
đạo đức của nhân loại mà giá trị của nó khơng hề phai mờ.
Trong tầm nhìn của nhân loại tiến bộ, Hồ Chí Minh là một trong
những tấm gương sáng nhất về cuộc đời của một con người “đầy tình yêu
nhân dân, đầy yêu thương con trẻ, dạt dào tình yêu Tổ quốc, yêu những
người lao động, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa” [34; 120].

Đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng nói riêng và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nói chung hiện nay. Nó là phương hướng đúng đắn và là yếu tố trọng yếu
đảm bảo cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
trong mọi thời kỳ và hiện nay vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng và dân tộc ta.
1.3.2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đối với việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay
Ngày nay, dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi xa nhưng tư tưởng đạo đức của Người vẫn cịn ngun giá trị, vẫn
cịn có ý nghĩa rất quan trong đối với việc giáo dục đạo đức cho mọi thế hệ
người Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp sinh viên trong thời kỳ mới.
Với tư chất thiên tài và tư duy sáng tạo, trên cơ sở kế thừa những giá
trị tư tưởng tinh hoa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã đóng góp cho nền văn
minh thế giới tư tưởng đạo đức mới có tính cách mạng và tiến bộ vượt trội.
Chính bản thân Hồ Chí Minh đã là hiện thân mẫu mực về đạo đức của con


×