Mục lục
Trang
Mở đầu.................................................................................2
I.Lý do chọn đề tài...............................................................2
II. Mục đích nghiên cứu.......................................................5
III. Nhiệm vụ của đề tài........................................................5
IV. Cơ sở lý luận của vấn đề tự học.....................................5
1.Sơ lược lịch sử của vấn đề nghiên cứu..............................5
2.Lý luận chung về tự học...................................................7
V. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động tự học.........................11
VI. Phương pháp thúc đẩy hoạt động tự học.......................14
VII .Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học...................18
Kết luận...............................................................................21
1
Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Hiếu học vốn được xem là truyền thống lâu đời của con người Việt Nam, say mê
chăm chỉ tìm tịi học tập, nghị lực ý chí vươn lên và khả năng sáng tạo vốn luôn được
người dân Việt Nam coi trọng phát huy.
Khi xã hội ngày càng đổi thay, cuộc sống có nhiều biến động đổi mới, trình độ khoa
học cũng vì thế mà được nâng cao thì cuộc sống của con người ngày càng giảm thiểu khó
khăn, có nhiều điều kiện tiếp cận với máy móc trình độ khoa học cơng nghệ hơn.
Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng nhận thức được tầm quan trọng và vai trị
của nó để tự động tìm tịi và áp dụng một cách hiệu quả vào thực tiễn.
Đặc biệt khi
sự đa dạng phong phú đa phương tiện của xã hội đã ảnh hưởng chi phối đến khơng ít
những con người, những nhân lực trẻ làm nảy sinh ở họ những thói hư tật xấu, lối sống
bng thả sa đoà, thiếu nhân cách ...
Nhận thấy sự tất yếu đó, nhà nước đã sớm tìm ra biện pháp khắc phục nhằm cải tiến
hố trình độ nhận thức của tầng lớp thế hệ trẻ.
Tại văn kiện đại hội VII đã khẳng định:"Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người
mới có kiến thức khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, là người lãnh đạo tự chủ, sáng tạo và
kỹ thuật...Để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và chuẩn bị cho tương lai, chú trọng
nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục gắn với học hành".
Xác định rõ mục tiêu nhằm hình thành cho xã hội một thế hệ người mới, một năng
lực người mới đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhà nước đã vạch ra nhiều hướng giải quyết
trong đó đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục ở môi trường đại học.
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang chuẩn bị cho hoạt
động lao động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, họ là nguồn nhân lực mạnh cả về
2
sức lẫn tài. Đối với họ học tập vẫn đóng vai trị chủ đạo.Vì vậy sự hướng dẫn của giảng
viên và khả năng nhận thức cá nhân trong hoạt động tự học là vô cùng quan trọng.
Hiện nay việc dạy học ở đại học bao gồm 2 phần chính: cung cấp kiến thức và
hướng dẫn cách học. Đó là chưa nói đến một nhiệm vụ lớn ở đại học là giúp sinh viên rèn
luyện năng lực truyền thông, khả năng phương pháp lập luận phân tích tức rèn luyện khả
năng tư duy, sáng tạo. Nhưng thực tế dạy học vẫn chỉ là cung cấp kiến thức .Tuy nhiên sự
áp dụng một cách khn mẫu ,máy móc ở nhiều trường đại học đã trở thành yếu tố gây trở
ngại, làm chậm tiến tinh thần học tập sáng tạo ở sinh viên.
Qua một vài cuộc khảo sát của phóng viên Tia sáng đã có nhiều sinh viên thẳng thắn
nêu rõ quan điểm: "sinh viên chúng tôi như những cổ máy rỉ sét, chúng tơi vào lớp viết
chính tả và sau đó trả bài thuộc lòng, lắp ghép các kiến thức rời rạc. Học để đối phó, thi để
đối phó và lấy cho được mảnh bằng. Việc học của sinh viên là : học ghi, thi phải thuộc. Cả
bốn góc của tứ giác thầy, chương trình, sinh viên, cơ sở thiết bị đều có vấn đề."
Khi nói đến vấn đề này chắc hẳn bộ giáo dục khơng khỏi bàng hồng bởi có khơng
ít các trường đại học đang trong tình trạng này. Nó tất yếu ảnh hưởng đến tính sáng tạo,
khả năng tìm tòi của sinh viên. Phải chăng bộ giáo dục chưa thực sự đi sâu vào tình trạng
học tập ở các trường đại học? Và vì thế khi hỏi tới vấn đề tự học của sinh viên đã có rất
nhiều ý kiến cho rằng: "sinh viên mắc bệnh lười đọc"- một vấn đề cần được giải quyết cấp
thiết bởi lẽ việc đọc chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các khâu của tự học, nhằm lĩnh
hội nguồn tri thức nhân loại đạt hiệu quả.
Họ đã đưa ra mọi lý do bao biện cho vấn đề này ví như họ cho rằng xem phim, lướt
wed...cảm thấy dễ chịu hơn bởi trong đó có âm thanh, hình ảnh rõ nét sinh động khơng gây
sự nhàm chán, cũng có lý do cho rằng thời gian học trên trường đã chốn hết khơng cịn
thời giờ cho vấn đề tự tìm tịi sách báo...
Đã có khơng ít sinh viên khẳng định họ mắc bệnh "lười đọc". Vậy làm thế nào để
mỗi cá nhân nhận thức được vai trò của vấn đề tự đọc, tự học? Làm thế nào để hoạt động
tự học gắn liền với sinh viên, khơng cịn hình thức học thụ động, chỉ cần thấy sự cần thiết
của việc đọc, việc học lúc đó họ sẽ tìm thấy được niềm đam mê với sách.
3
Ở Việt Nam, sinh viên còn nhiều hạn chế để tiếp cận với nền tri thức đặc biệt là
sinh viên vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Chịu ảnh hưởng quá lớn của vấn đề kinh tế đã dẫn
tới sự giáo dục đối với học sinh, sinh viên miền quê còn gặp nhiều khó khăn. Ngay cả ở
thành phố khi điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật đủ để đáp ứng nhu cầu học tập của
sinh viên, nhưng liệu bản thân cá nhân nào cũng nhận thức được vai trò của vấn đề tự học
chưa?
Vì vậy dù ở đâu, điều kiện kinh tế như thế nào thì yếu tố quyết định vẫn là tinh thần
tự giác tìm tịi ở mỗi người phải được đặt lên hàng đầu, khi đó xã hội mới có thể phát triển,
sự đồng đều trong học vấn sẽ được cải thiện.
Ngay tại trường Đại Học Vinh tình trạng thầy đọc trị chép, sinh viên lệ thuộc vào
giảng viên đang cịn nhiều... ảnh hưởng đến tính năng động, sáng tạo vốn có của bản thân
mỗi người. Mỗi sinh viên đều nhận thức được rằng "sách là nguồn tri thức vơ tận" nhưng
khơng phải ai cũng đi tìm nó để đọc, để học một cách ngấu nghiến. Bởi vậy kết quả đào
tạo sẽ không được như mong muốn. Đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra ở đây: làm thế nào
để sinh viên lĩnh hội được nguồn tri thức? Làm thế nào để đào tạo được năng lực người
mới cho thế hệ trẻ?... thì vấn đề tự học đã trở thành phương pháp độc đáo, đặc sắc được
chú trọng.
Như hiểu được những vấn đề đó, đội ngũ giảng viên ĐHVinh đã tìm ra những
phương pháp khắc phục trong đó có vấn đề học theo tín chỉ của sinh viên khố 48 trở đi.
Đó là một tín hiệu đáng mừng, xong do tính mới mẻ của nó đã có khơng ít sinh viên thiếu
linh hoạt trong hoạt động học tập của mình, ngay cả đội ngũ giáo viên vẫn cịn một số thầy
cơ chưa thực sự tìm ra phương hướng giảng dạy đạt hiệu quả tốt nhất.
Nhận thức được vai trò của vấn đề học tập và ý nghĩa của hoạt động tự học cũng
như tình trạng hiện nay của sinh viên ở các trường đại học tôi đã quyết định chọn đề tài
này với mong muốn được chính mình khám phá tầm quan trọng của nó, cũng mong cùng
người đọc phát hiện ra những vướng mắc cần tháo gỡ đưa vấn đề tự học trở thành ý thức
thường trực của mỗi cá nhân. Và khi họ trả lời được câu hỏi: học để làm gì? phải chăng
học để biết, học để làm, học để làm người và học để sống với nhau, thì lúc đó giá trị của
4
việc học sẽ thiết thực hơn, thấy được vai trò rõ ràng hơn, để hình thành tính tự giác học tập
một cách hồn hảo.
II.Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu ý nghĩa hoạt động tự học của sinh viên.
III.Nhiệm vụ của đề tài.
1.Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tự học.
2.Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trong vấn đề tự học.
3. Nghiên cứu về mục đích, ý nghĩa của hoạt động tự học.
4.Đề xuất một số phương pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tự học.
IV.Cơ sở lý luận của vấn đề tự học.
1.Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Ở thời kỳ Trung Cổ Tây Âu và chế độ phong kiến Phương Tây thì vai trị của người
thầy gĩư vị trí vơ cùng quan trọng, học sinh phải tn theo một cách máy móc quan điểm ,
nguồn thơng tin từ người dạy. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự trưởng thành của
người học trị, làm mất tính tư duy, sáng tạo ở người học.
Xuất phát từ vấn đề đó đã có nhiều nhà giáo dục học vĩ đại nêu tư tương, quan điểm
của mình về phương pháp dạy học đúng cách, hướng vai trò của người học làm trọng tâm
trong hoạt động lĩnh hội tri thức.
Tư tưởng nhấn mạnh vai trị tích cực, chủ động của người học, xem người học là
chủ thể của quá trình nhận thức đã có từ lâu.
Thế kỷ XVII A.Komenki đã viết:"giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy
cảm, phán đốn đúng đắn, phát triển nhân cách...hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo
viên dạy ít hơn học sinh học nhiều hơn", những tư tưởng này đã bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ
XVIII-XIX trào lưu giáo dục hướng vào người học xuất hiện đầu tiên ở Mĩ sau đó lan sang
5
Tây Âu và tiếp đó là Châu á nó thể hiện ở các quan điểm: "dạy học hướng vào người học",
"dạy học lấy học sinh làm trung tâm"
Theo Adolf Dixteevee ông cho rằng vấn đề dạy học tác động đến tư duy , tình cảm
và ý chí từ đó gây nên "tính sáng kiến cá nhân, phục vụ cái chân, thiện ,mỹ"rèn luyện ở
con người lòng tin và nhân cách...
Hay bắt gặp quan điểm của nhà vật lí Xơ Viết P.Lkpixta ơng khẳng định: "khơng cịn
nghi ngờ gì nữa, để dạy tốt thanh niên ngày nay cần phải giáo dục khả năng sáng tạo cho
họ, bắt đầu từ nhà trường phổ thơng. Đó là nhiện vụ chính của nhà trường mà nền văn
minh của nước nhà phụ thuộc vào".
Nước ta, đã có khơng ít nhà nghiên cứu, nhà giáo dục đã có nhiều bài viết, nói về
quan điểm của mình, khẳng định với người đọc vai trò, tầm quan trọng về hoạt động tự
học của mỗi cá nhân tiêu biểu như Nguyễn Kỳ, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng...hay
một đại biểu quan trọng mà vai trò của người là con đường dẫn dắt từng thế hệ tiếp bước,
khẳng định vóc dáng của Việt Nam với tồn cầu đó chính là Bác Hồ. Bác nói: "phải tự
nguyện, tự giác xem cơng việc học tập của mình là nhiệm vụ của người cách mạng phải cố
gắng hồn thành cho được, do đó cần tích cực hoạt động, tự động hồn thành kế hoạch học
tập".
Theo quyết định 38/2004/QĐ của Bộ GD và ĐT ở điều 10 đã nêu rõ: "người học là
tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng đào tạo của trường đại học ".
Thật vậy khi vấn đề đào tạo ở đại học là đi sâu vào chuyên ngành thì việc học của sinh
viên không chỉ đơn thuần là sự cần cù mà cịn địi hỏi cả niềm say mê, tìm tịi nghiên cứu
các vấn đề trên cơ sở có lập trường lơgic vấn đề, có như vậy mới nắm vững được lý luận
chuyên sâu của ngành, thao tác nhuần nhuyễn các nghiệp vụ chun mơn và xử lí khéo léo
các tình huống nghề nghiệp phát sinh trong q trình cơng tác. Nhưng để có niềm say mê
trong trong học tập thì điều kiện tiên quyết là tính tự giác, niềm say mê không thể xuất
phát từ sự ép buộc, miễn cưỡng.
Ngày nay để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
hệ thống giáo dục và đào tạo cần xác định lại mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục
theo định hướng mà nghị quyết Trung ương 4 khoáVII đã chỉ ra: "Đào tạo những con
6
người có năng lực thích ứng với kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác, có năng lực giải
quyết các vấn đề thường gặp, tìm được việc làm lập nghiệp và thẳng tiến trong cuộc sống
qua đó góp phần tích cực thực hiện mục tiêu lớn của đất nước là dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh"
Và tại nghị quyết TW 2 khoá VII vấn đề này đã được nhấn mạnh lại một laị nữa "tổ
chức cho người học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác tích cực và sáng tạo".
Cũng trong nghị quyết này có nêu rõ "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luỵên thành nếp tư duy của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào q trình dạy học."
Từ đó khẳng định vai trị dạy và học khơng chỉ trang bị cho học sinh những kiến
thức cần thiết về nội dung thứ yêu cầu của mục tiêu đào tạo mà cịn dần dần hình thành
rèn luyện cho học sinh tính tích cực , độc lập, sáng tạo trong q trình học tập để họ có thể
chủ động tự học, tự đào tạo, tự hoàn thiện tri thức trong thực tiễn.
2. Lý luận chung về tự học.
Khi xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề học tập đảo bảo và sự phát triển một nền
giáo dục lâu dài càng nắm giữ vị trí và vai trị quan trọng.Vấn đề giáo dục trường xun
khơng chỉ góp phần hỗ trợ tích cực cho nhu cầu công việc của những con người những cá
nhân đang phải lao động, mà cịn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội, chính trị, văn hố góp phần
tích cực xây dựng một xã hội văn minh ổn định và bền vững. Khẳng định nhu cầu ,đòi hỏi
về vấn đề học tập của con người sẽ ngày càng cao hơn. Người ta học để biết, để làm việc
và để sống tốt hơn nhằm khẳng định vai trò và vị trí của bản thân trong xã hội cũng như
thỗ mãn nhu cầu cộng đồng của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên khơng phải ở đâu cũng có những điều kiện học tập như nhau mà nó chịu
sự chi phối của rất nhiều yếu tố dẫn đến việc học tập tu dưỡng có khi được thực hiện như
mong muốn có khi chỉ là mơ ước viễn vông và không phải bất cứ ai cũng có điều kiện ngồi
trên ghế nhà trường, được sự dìu dắt hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy vấn đề học tập là nỗi
lo, bức xúc và trăn trở khơng những chỉ có số đơng cá nhân mà tồn cộng đồng xã hội đặt
sự quan tâm v đó. Và việc giải quyết hiệu quả được xem trọng vẫn là khả năng tự học,
7
tính sáng tạo của mỗi cá nhân, nó cần được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi, trên mọi phương
diện của xã hội. Nhưng tự học là gì? Tự học như thế nào? Học ra làm sao? thì khơng phải
bất cứ ai cũng nói một cách chính xác để có thể thực hiện đạt hiệu quả tối đa.
Đối với sinh viên đại học thì vấn đề tự học càng khơng chỉ đơn thuần là sự nhận
thức cá nhân mà nó địi hỏi cần có sự tổ chức học tập một cách hợp lí khoa học, nó đóng
vai trị là trách nhiệm là nghĩa vụ của cả sinh viên lẫn sự nghiệp đào tạo của nhà trường.
Tự học nghĩa là tự mình lao động trí óc, nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân
người học bằng hoạt động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định. Đó là
một hành động cá nhân do bản thân chủ thể tích cực thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học
tập trong suốt quá trình ngồi trên ghế nhà trường hay cả khi ra trường khi mọi hoạt động
sống còn được thực hiện thì cịn cần phải tiếp tục học tập
Trong chương trình đào tạo ở các trường đại học cịn mắc phải một số hạn chế như
chỉ mới tập trung vào việc cung cấp tri thức chuyên môn mà chưa quan tâm rèn luyện
phương pháp giảng dạy các kiến thức theo phương pháp phát huy tính sáng tạo của học
sinh, sinh viên. Nhiều vấn đề quan trọng như phương pháp đánh giá, kiểm tra, tự luận , kỹ
năng tổ chức lớp học khơng được đề cập đến.
Và hầu như khơng có nội dung bồi dưỡng năng lực giáo dục cho sinh viên. Nhà
trường chỉ chú ý đến năng lực giảng dạy chứ chưa quan tâm đến việc hình thành người
giáo viên với tư cách là nhà giáo dục là một người thầy, trong khi đó khi ra trường sinh
viên khơng chỉ trở thành giáo viên đứng trên bục giảng mà còn là người hướng đạo, dìu
dắt, uốn nắn giúp thế hệ sau trưởng thành.
Chính vì vậy để hồn thiện về nhiều mặt, và đáp ứng được nhu cầu giáo dục xã hội,
người sinh viên phải nhận thức được vai trò của mình sau này từ đó định hướng đúng
những bước đi nhằm lĩnh hội tri thức phục vụ sự nghiệp giảng dạy và vấn đề tự học lại một
lần nữa khẳng định vóc dáng và vị trí của nó.
Trong q trình tự học bứơc đầu thường bắt gặp những khó khăn, lúng túng nhưng
chính những vướng mắc đó lại là tiền đề động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi
chúng nhờ vậy mà thành thạo lên, một khi đã thành thạo sẽ thúc đẩy sinh viên tự đặt ra
8
những câu hỏi, phát hiện ra những vấn đề và từ đó đi đến những vấn đề mới cần được tư
duy.
Hoạt động học tập có thể diễn ra dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên lúc
đó sinh viên là chủ thể tích cực phát huy làm bộc lộ phẩm chất tâm lý cá nhân để thực hiện
hoạt động học của mình và khi khơng có sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên phải tự
mình tìm ra phương hướng, xác định rõ mục đích, vai trị trong hoạt động tự học. Một khi
sinh viên lập được kế hoạch hoạt động học một cách khoa học, cụ thể thì quá trình tự học
sẽ chuyển từ mức độ tự phát sang tự giác để lĩnh hội tri thức nhân loại trong mọi lĩnh vực
của xã hội.
Trong quá trình tự học hoạt động nghiên cứu khoa học là một loại hình kỹ năng học
tập cơ bản mà sinh viên cần chú trọng bồi dưỡng và rèn luyện bởi nó chứa đựng mục đích
nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu tri thức về phương pháp và đối tượng nghiên cứu cũng
như các yếu tố kỹ thuật khác của hoạt động nghiên cứu lúc đó người thực hiện phải hồn
tồn tự giác hoạt động tìm tịi nguồn tri thức vơ tận.
Muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập trên cơ sở
phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức và có tay nghề thì việc rèn
luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
Khi bàn về vấn đề tự học tiến sỹ Chu Hảo nêu rõ quan điểm: "cần nói rõ về tự học
người ta thường nghĩ rằng: Tự học là học riêng một mình . Khơng, cách học tốt nhất là học
theo nhóm". Hay với ý kiến của tiến sỹ Lê Ngọc Trà (giảng viên ĐHSPTPHCM): "Muốn
học, muốn hiểu sâu một chủ đề nào đó, điều quan trọng là phải tự mình chạm tới nó trước,
phải tự mình khơi mở trước trong đầu như gieo mầm cho việc tiếp thu, thẩm thấu của mình
khi người học đã tự nhận thức thì vai trị của người thầy là không thể thiếu. Bản chất của
tự học là tự làm với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách
học với nhóm và được thầy hướng dẫn".
Nói chung khi bàn về vấn đề tự học của sinh viên đã có rất nhiều các đại biểu tiêu
biểu nêu ra quan điểm của mình nhằm hướng dẫn sinh viên tự tìm tịi tri thức một cách
hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện
9
vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và giúp sinh viên
tự tin vào bản thân bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực trong họat động
tự học của mình.Và khi bắt tay thực hiện quá trình học tập cho đến khi kết thúc chúng ta
phải thấy được sự biến đổi về nhận thức, tâm lý, tình cảm...hình thành một năng lực người
mới thực sự.
Trong mối liên hệ giữa người dạy và người học thì người dạy đóng vai trị là " ngoại
lực" tác động tới người học -được xem là "nội lực". Vì thế người học có ý nghĩa quyết
định, phải huy động hết mọi nguồn lực có trong tay và trong tầm tay trước khi sử dụng
sự hỗ trợ từ bên ngoài. Hiển nhiên người học cần phải tích cực hoạt động và khao khát
hiểu biết, nổ lực trí tuệ và nghị lực cao trong q trình chiếm lĩnh tri thức. Đó chính là cơ
sở hình thành tính tự học ở sinh viên.
Những nhà tư tưởng lớn như Weber, Marx đã khẳng định rằng: "trên con đường
chinh phục tri thức "người tiên phong" phải là người trị chứ khơng phải là người thầy " ,
và như vậy người thầy sẽ là người chỉ đường, làm hướng dẫn viên cho sinh viên để sinh
viên có thể thực hiện hoạt động tự học hiệu quả nhất trên tinh thần tự giác.
Vậy hoạt động tự học nó thể hiện rõ tính tư duy, khả năng tìm tịi, sáng tạo một cách
độc lập mang tính chất cá nhân, thể hiện tính tự giác cao và khả năng tìm tịi tri thức.
V.Mục đích, ý nghĩa của hoạt động tự học
Hơn lúc nào hết việc nâng cao chất lượng đào tạo là mục đích hàng đầu của các
trường đại học. Nhằm đáp ứng về yêu cầu phát triển của đất nước, của sự nghiệp " cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ", để hội nhập tồn cầu với mục đích đến năm 2010 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp, và năm 2020 là một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trong sự nghiệp phát triển và yêu cầu đặt ra đó thì con người sẽ là hạt nhân, là
yếu tố trung tâm quyết định nền phát triển đó, đặc biệt một đội ngũ lớn đóng vai trị nịng
cốt chính là lực lượng sinh viên trí thức. Vậy cần phải làm như thế nào để sinh viên có thể
chiếm lĩnh tri thức một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Thực hiện quá trình lĩnh hội tri thức nhân loại là sự phối hợp chặt chẽ giữa "ngoại
lực"-người dạy và "nội lực"-người học lúc đó q trình học tập mới thực sự hiệu quả. Đòi
10
hỏi ở mỗi sinh viên phương pháp học tập khoa học khơng cịn tồn tại lối học thụ động phụ
thuộc quá nhiều vào giảng viên.
Theo L.N.Tolxtoi: "kiến thức chỉ thực sự là kiến thức khi nào nó là thành quả của
những cố gắng tư duy chứ khơng phải là trí nhớ ".
Khi xã hội ngày càng phát triển, sự bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật và công
nghệ, con người cần phải tìm ra phương thức học tập mới thay thế cách học cũ khơng cịn
hiệu quả. Với hoạt động tự học, con người sẽ tự tin hơn khi gặp khó khăn và thách thức
giúp con người gia nhập cộng đồng xã hội dễ dàng hơn. Như vậy tự học sẽ là con đường
cơ bản nhất, là nhiệm vụ quan trọng nhất để đạt mục đích giáo dục. Và khi đó khái niệm
"xã hội học" xem như là điều tất yếu, cần thiết của nhân loại.
Trong môi trường đại học vấn đề dạy và học là vô cùng quan trọng bởi ở bất kỳ một
giai đoạn lịch sử nào thì vai trị của lớp thế hệ tri thức trẻ ln là nịng cốt cho xã hội. Vì
vậy cần tạo điều kiện cho sinh viên theo đuổi con đường học vấn, tạo cho sinh viên niềm
tin vào sự lựa chọn của mình, giúp họ thực hiện ý tưởng, hồi bão. Nhà trường cần cải tạo
hệ thống các môn học cho phù hợp với yêu cầu thực tế, giảm nhẹ các mơn học lí thêt
tăng cường cho sinh viên khả năng thực hành, kinh nghiệm thực tế trong khi học , phát huy
tính sáng tạo và làm việc độc lập ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường .
Phương pháp học tập chiếm lĩnh tri thức của sinh viên của bậc đại học là vấn đề
quan trọng cần được quan tâm. Thực tế cho thấy những sinh viên học tập một cách tự giác,
chủ động, tích cực, hợp lí ln ln có năng lực chun mơn vững vàng và làm việc hiệu
quả hơn nhưng sinh viên có lối học thụ động.
Vì vậy vấn đề tự học của sinh viên đạt hiệu quả chính là sự nổ lực, tính sáng tạo tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm nắm vững tri thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
Theo R.Retxkê "tất cả những điều kiện thuận lợi, tất cả những lời khuyên, tất cả
những sự giúp đỡ trong học tập có thể phát huy được tác dụng khi có sự nổ lực của bản
thân người học ".
Trong quá tình học tập cũng như làm việc hãy tự đẩy mình vào tình thế khơng thể
thối lui, nhiệm vụ càng nặng nề càng cần phải cố gắng, cố gắng nhiều thì tiến bộ nhanh,
11
chính thói quen suy nghĩ và làm việc độc lập sẽ khiến cho người học và người làm khoa
học tự tin hơn khi gặp phải khó khăn , cũng chính những khó khăn đó sẽ giúp cho người
thực hiện cơng việc tập trung cao độ hơn.
Chúng ta luôn nhận thức được rằng vấn đề học tập sẽ không thực hiện được nếu
như chỉ có sự nổ lực từ một phía người dạy hoặc người học, và dù người dạy có kiến thức
uyên thâm đến đâu mà người học cứ mặc nhiên khơng chịu đào bới thì mọi nổ lực từ phía
người dạy sẽ dẫn tới vơ nghĩa. Như vậy vấn đề học tập có hiệu quả phải là sự phối kết hợp
một cách chặt chẽ từ hai phía "nội lực" và "ngoại lực". "Nội lực "-người học phải có niềm
đam mê , say sưa học hỏi, phải thường xuyên rèn luyện phương pháp học tập, và việc học
ở mọi nơi , mọi lúc là tiền đề đầu tiên tích cực giúp giải quyết tốt vấn đề học tập.
Với sự phát triển mạnh như vũ bảo của xã hội trong giai đoạn cơng nghiệp hố hiện
đại hố đất nước vai trị của giáo dục đã được xác định rõ ràng với mục đích đào tạo ra
những nhân lực người mới có năng lực thực sự đáp ứng nhu cầu của xã hội, tiếp thu kiến
thức áp dụng một cách hiệu quả vào thực tiễn, đồng thời cũng là nguồn nhân lực chính
hình thành và sáng tạo những phát minh khoa học có giá trị phục vụ cho cuộc sống của con
người.
Giáo dục cũng nhằm mục đích đào tạo ở con người mới nhân cách, phẩm chất, đạo
đức hoàn thiện hơn và phải là những con ngưịi khơng chỉ biết vận dụng kiến thức mà cịn
có khả năng truyền đạt thơng tin tri thức một cách sáng tạo khoa học. Bởi chính họ sẽ là
người chỉ đường cho thế hệ sau, chính họ tiếp bước sự nghiệp giáo dục trồng người bồi
dưỡng tri thức cho mầm non tương lai.
Giáo dục phải là nơi thực sự an toàn để thế hệ trẻ, thế hệ sinh viên an tâm tìm đến,
phải là nơi định hướng và truyền thơng tốt nhất để khơng chỉ có thể nâng đở nhữnhg người
biết tìm đến khát khao và hồi bão mà cịn phải biết dạy cho những con người chưa có
niền đam mê đến khi họ phải hiểu được rằng chỉ có học vấn, chỉ có con đường giáo dục
mới giúp họ trưởng thành tốt nhất từ đó hình thành nên những khát khao và hứng thú trong
hoạt động học tập của mình. Vì vậy con đường giáo dục hiệu quả sẽ định hướng thế hệ trẻ
khả năng tự học, tự tìm tịi, sáng tạo và hành động học tập một cách độc lập. Đó cũng
chính là mục đích cần đạt tới của nước nhà.
12
Nói đến ván đề giáo dục thì vấn đề tự học cị ý nghĩa vơ cùng quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thế hệ trẻ, thế hệ học sinh, sinh viên hình thành nên ở
họ nhu cầu học tập, khám phá nhằm đảm bảo tốt việc giảng dạy ở nhà trường. Tự học là
sự thể hiện đầy đủ nhất vai trị chủ thể trong q trình nhận thức của sinh viên. Trong q
trình đó người học hồn tồn chủ động và độc lập, tự lực tìm tịi, khám phá và lĩnh hội tri
thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên.
Quá trình tự học giúp sinh viên nâng cao chất lượng học tập và hiệu quả nghề
nghiệp bản thân, làm tăng khả năng tư duy độc lập hình thành những kỹ năng, kỹ xảo
khơng cịn lúng túng trước những khó khăn, thách thức mới và hình thành nên những con
người của thời đại khơng cịn tụt hậu trước sự đổi thay của xã hội.
Không những thế q trình tự học của mỗi sinh viên cịn là tiền đề cho sự phát triển
một xã hội hội nhập theo cùng với sự phát triển toàn cầu. Bởi sự phát triển khơng ngừng
của xã hội đó là kết quả của cả một quá trình nổ lực phấn đấu lâu dài trong nền giáo dục
hình thành những nguồn nhân lực xuất sắc nhất phục vụ xã hội mà nhân tố quan trọng, tất
yếu ảnh hưởng đến thành cơng đó phải nói đến vấn đề nhận thức cá nhân, khả năng tự tìm
tịi sáng tạo... hay chính xác hơn đó là khả năng tự học của mỗi cá thể trong xã hội.
VI. Phương pháp thúc đẩy hoạt động tự học
Hoạt động học tập của người sinh viên đạt hiệu quả tối đa bao giờ cũng phải gắn
liền với những phương pháp học tập hợp lí và khoa học.
Phương pháp cũng chính là cách thức để thực hiện mục đích của cá nhân chủ thể
bởi vậy nó gắn liền với nội dung của vấn đề và nhu cầu của chủ thể đó.
Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn luyện
phương pháp tự học, đây không chỉ là phương pháp nâng cao hiệu quả học tập mà còn là
mục tiêu quan trọng của qúa trình học tập. Có như vậy hoạt động tự học mới thực sự là cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Nó sẽ trở thành cốt lõi trong quá trình học tập.
Xưa nay trong sự nghiệp giáo dục ở các nước thì sách giáo khoa, giáo trình ln
đóng vai trị nịng cốt. Với lối trình bày khoa học, chặt chẽ...nó là một phương tiện khơng
thể thiếu được trong quá trình giáo dục.
13
Theo nhà tốn học Mĩ G.Polya đã nói: "sự kích thích tốt nhất cho việc học là sự
hứng thú mà tài liệu học tập gợi cho học sinh, còn phần thưởng tốt nhất cho hoạt động trí
óc căng thẳng là sự sảng khoái đạt được nhờ vào hoạt động như vậy"
Tuy nhiên vấn đề biên soạn giáo khoa, giáo trình cũng có nhiều vấn đề đặt ra đối
với nhà quản lí giáo dục cũng như sự quan tâm khơng nhỏ của cộng đồng xã hội.
Liệu có nên giảm bớt kiến thức giáo trình? có nên trình bày tài liệu một cách ngắn
gọn, đặc trưng với lối ra nhiều câu hỏi để người đọc bắt buộc phải tư duy? Song cũng phải
quan tâm đến kết quả bài tốn nhưng khơng trình bày theo kiểu máy móc và chi tiết từ đó
hình thành nên nhiều con đường đi tìm lời giải khác nhau ở những khả năng và mức độ tư
duy hoàn toàn khác nhau của mỗi cá nhân chủ thể.
Đặc biệt hơn nữa do đặc thù giảng dạy ở các trường đại học là không giống nhau
nên nhà nước cũng cần quan tâm và đặt vấn đề cho câu hỏi: có nên tạo điều kiện cho các
trường đại học quyền chủ động biên soạn giáo trình, và tổ chức hình thành mảng kiến thức
đặc trưng của từng trường.
Song song với vấn đề đổi mới tài liệu thì việc dạy và học của người giảng viên và
sinh viên là vô cùng quan trọng. Trong vấn đề dạy học người thầy phải hiểu được rằng
khơng có một phương pháp nào là vạn năng mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và mục tiêu đặt
ra, người giảng viên phải biến đổi một cách linh hoạt hoặc kết hợp nhiều phương pháp
nhưng vẫn giữ được cái cốt yếu là phát huy tính tự học ở sinh viên.
Đặc biệt phải hình thành khả năng tư duy độc lập trong nhà trường và xã hội, làm
cho trường đại học trở thành trung tâm chất xám, nơi bồi dưỡng tinh thần dân chủ, dám
nghĩ, dám phát minh, có ý kiến, trở thành một môi trường mở về tri thức và tư tưởng, trung
tâm giao lưu khoa học và sáng tạo.
Trong môi trường đại học sinh viên phải biết tự chăm lo cho mình năng lực hoạt
động trí tuệ, khả năng tư duy khoa học, tư duy nghề nghiệp... phương pháp học tập của
sinh viên đạt hiệu quả khi người học phải biết cách chuyển một vấn đề học tập thành một
đề tài nghiên cứu khoa học từ đó hình thành nên những năng lực tư duy mới. Vấn đề sinh
viên quan tâm cần được giải quyết có thể thực hiện ở 3 giai đoạn:
14
Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu: Người học phải biết tự tìm tịi, quan sát, mơ tả, giải
thích, phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết vấn đề, tự tìm ra cho mình những kiến thức
mới và tạo ra sản phẩm ban đầu có tính chất cá nhân.
Giai đoạn 2: Tự thể hiện: Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói,
tự trình bày bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự
đối thoại hay giao tiếp với bạn bè, thầy cơ, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng
đồng lớp học.
Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác
trao đổi với bạn bè, thầy cô, người thầy kết luận, người học tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm
ban đầu của mình, tự sữa sai, tự điều chỉng thành sản phẩm khoa học.
Quá trình dạy học phải hạn chế được tình trạng thầy đọc, trị chép, tăng cường tính
chủ động của người học, đó là một trong những hướng đi chiến lược góp phần giải quyết
một cách dây chuyền những hạn chế có liên hệ với nhau trong đó có bệnh lười học của
sinh viên.
Trong qúa trình tự học của sinh viên, vai trị của người giáo viên là không thể thiếu
được, định hướng cho con đường nghiên cứu của sinh viên. Họ phải không ngừng tìm hiểu
sinh viên có nhu cầu học cái gì, học như thế nào thì sinh viên mới có thể đạt được những
kỷ năng, kiến thức như mong muốn.
Cách thức thảo luận theo nhóm, thực hành bằng cách làm bài, ghi lại, chép lại,
giảng giải lại cho người khác, ứng dụng những gì được học vào thực tiễn cũng là cách thức
nhằm tiến hành cơng việc nâng cao vai trị của người thực hiện và ý thức tự giác cao hơn.
Nói chung có rất nhiều phương pháp để hình thành nên tính tự học của sinh viên
và điều quan trọng là phải hình thành nên ở họ khả năng nhận thức được vai trị và ý nghĩa
của nó vào cuộc sống từ đó nâng cao tính tự học một cách chủ động của sinh viên.
Chúng ta cũng không quên sử dụng cơng nghệ thơng tin vào q trình thực hiện
cơng việc bởi nó là phương tiện hữu ích nhất giúp chúng ta tìm tịi tài liệu, khám phá tri
thức, xác định mục tiêu phù hợp với nhu cầu cần thiết của nó đối vơí xã hội .
Hiện nay nhằm đáp ứng mục đích đào tạo đạt hiệu quả cao đã có nhiều trường đại
học thực hiện phương pháp học theo tín chỉ, sinh viên có thể chủ động trong vấn đề học
15
tập và nghiên cứu của mình. Tại trường ĐHVinh cũng đã bắt đầu thực hiện chủ trương đó
và đã áp dụng cho khoa 48, do đây là năm học đầu tiên thực hiện cơ chế mới này đòi hỏi
cả sinh viên lẫn từ phía nhà trường phải có những đổi mới nhất định.
Xét về nhà trường bắt buộc phải có sự thay đổi về cách kiểm tra, đánh giá...Còn
sinh viên phải có sự tự giác trong học tập, tự nghiên cứu...để thực hiện được những vấn đề
đó mỗi cá nhân phải lập cho mình một kế hoạch học tập riêng. Nhưng khơng phải ai cũng
có khả năng đó và vì vậy việc lập kế hoạch cịn gặp nhiều khó khăn. Sau đây là một số
bảng kế hoạch tham khảo :
Bảng kế hoạch:
Bảng 1: Kế hoạch học tập trong 1 tuần:
Nên xác định mục tiêu học tập trong 1 tuần, những cơng việc chính cần làm trong 1
ngày như: học trên giảng đường, đọc tài liệu tham khảo, làm bài tập theo nhóm, bài tập cá
nhân,...và hoạch định thời gian cho mỗi công việc mà bạn định thực hiện.
Bảng 2: Lập kế hoạch trong 1 kì, xác định mục tiêu học tập trong cả kì, những cơng
việc chính cần giải quyết trong từng tuần và tổng thời gian thực hiện cho từng công việc.
Sau khi lập kế hoach sinh viên cần có sự nổ lực thực hiện nghiêm túc nếu khơng thì
khi khơng thu được kết quả sẽ trở nên chán nản, thấy việc lập kế hoạch khơng có ý nghĩa
gì.
Có thể nói khi xã hội ngày một phát triển, kiến thức của nhân loại là vơ vàn mà thời
gian thì ln có hạn bởi vậy con người muốn lĩnh hội tri thức đạt kết quả tối đa thì cách
thức, phương hướng thực hiện kế hoạch học tập và làm việc một cách khoa học là rất quan
trọng, mỗi cá nhân phải biết tận dụng thời gian học mọi lúc, mọi nơi, học trên mọi hình
thức lúc đó chúng ta mới có thể làm chủ được bản thân, có khả năng thích ứng và thực
hiện vai trị cá nhân trong cộng đồng xã hội một cách tốt nhất.
VII.Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học
Cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng nói :"mỗi người đều có một cái sở trường (tiềm
năng) trời cho, con người có cái vốn có sẵn, người ta cần có cơ hội để phát triển nó". Thật
16
vậy mỗi cá nhân ai ai cũng có quyền sở hữu trong mình một tiềm năng bẩm sinh, và để
làm bộc lộ rõ tiềm năng đó địi hỏi chúng ta phải tích cực hoạt động.
Sinh viên là một đội ngũ quan trọng trong xã hội bởi hơn ai hết họ có những cơ hội
được quyền phát triển những tiềm năng đó, có mơi trường để thể hiện. Bởi vậy ta ln nói
sinh viên là lực lượng nịng cốt quyết định sự thịnh suy nền kinh tế, chính trị của một quốc
gia.
Điều đáng quan tâm , lo ngại ở đây là làm cách nào để mỗi sinh viên khi đã ngồi
trên ghế giảng đường đại học thì phải nhận thức được rằng mình cần phải làm gì, làm như
thế nào để đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi sự phát triển của xã hội.
Thực tế cho thấy rất nhiều sinh viên khi ra trường với nền tảng kiến thức tích lũy
trong suốt quá trình học tập chưa thực sự đáp ứng u cầu của cơng việc. Đó là ngun
nhân chính làm cho xã hội khó ra nhập cộng đồng quốc tế.
Tại các trường đại học tình trạng những sinh viên lơ là trong vấn đề học tập cịn khá
nhiều, điển hình là những trường hợp sinh viên trốn tiết, bỏ học,...trong suốt quá trình rèn
luyện họ chỉ thực sự "được học" khi mùa thi đến. Họ chưa nhận thức được rằng khi ra
trường họ chính là những con người mà cộng đồng xã hội đặt niềm tin vào đó, và chỉ có tự
học, tự nghiên cứu mới có thể hình thành nên những năng lực thực sự làm tiền đề cho sau
này.
Và không thiếu những sinh viên cần cù, chăm chỉ nhưng độ linh hoạt chưa cao vì
thế dù có cố gắng đến đâu mà khơng có khả năng hình thành cho mình kế hoạch học tập
khoa học kết quả cuối cùng cũng khơng đạt như mong muốn, dẫn tới tình trạng chán nản,
khơng tìm được niền tin và cho rằng chăm chỉ học tập cũng khơng có được kết quả thiết
thực.
Những con người này chính là nguyên nhân dẫn tới những khó khăn mà nền giáo
dục ở các trường đại học gặp phải .
Đáng mừng là chúng ta cịn có thể bắt gặp nhiều sinh viên tích cực hoạt động và
khơng ngừng tìm kiếm ra những phương pháp học tập đạt hiệu quả cao, đây là đội ngũ lao
động tích cực nhất của xã hội, họ chính là cơ sở của những cơ hội phát triển, là tiềm năng
của nền kinh tế nước nhà .
17
Hơn bao giờ hết nền giáo dục phải tạo mọi điều kiện cho sinh viên có cơ hội phát
huy, cơ hội học tập cao nhất, đảm bảo là trung tâm bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp, là cái
nôi của nền học vấn, là chỗ dựa tinh thần và vật chất, là môi trường định hướng nghề
nghiệp tốt nhất để họ có thể giác ngộ được vai trị, nhiệm vụ và ý nghĩa của vấn đề tự học.
Taị trường ĐHVinh tình trạng sinh viên lười biếng học tập còn nhiều, kết quả từ
các kì thi cho thấy họ chưa có năng lực thực sự, chưa có kiến thức chuyên sâu, khả năng
nắm bắt, tư duy cịn hạn chế, khơng ít thầy cô phản ánh về vấn đề này, và thực sự thất vọng
khi năng lực tự học của sinh viên hầu như rất ít.
Cũng nói ln tới vấn đề đào tạo tín chỉ, có thể nói rằng đây là một xu hướng đào
tạo mới mẽ giúp cho sinh viên có cơ hội thể hiện mình hơn, cơ hội phát triển năng lực học
tập độc lập chủ động cao hơn. Nhưng không khỏi bàng hồng trước kết quả kì thi học
phần vừa qua có thể nhận định lại rằng chế độ học tập tín chỉ cũng là cơ sở cho sinh viên
được quyền chơi hơn học, được có nhiều thời gian rãnh mà khơng phải băn khoăn cho rằng
mình nhác học. Phải chăng do tính mới mẻ của hoạt động này mà sinh viên chưa kịp thích
nghi...Cần cơng nhận rằng bất cứ một sự đổi mới nào cũng không ngoại trừ những khó
khăn bất cập của nó, chúng ta phải thực sự hiểu rằng mọi sự đổi mới ln ln địi hỏi cần
có thời gian thích nghi, khơng thể nhìn thấy kết quả trong chốc lát.Và vì vậy càng cần hơn
nữa sự nổ lực không ngừng kể từ đội ngũ giảng viên đến sinh viên, Nhà trường phải tạo
mọi điều kiện học tập đồng thời phải là nơi tư vấn hữa ích cho sinh viên hiểu rõ về các
hính thức, quy chế trong vấn đề đào tạo tín chỉ, khơng cịn những băn khoăn thì sinh viên
mới có thể tập trung học tập đạt hiệu quả cao.
Có thể nói rằng giáo dục sinh viên ở mơi trường đại học gặp khơng ít những khó
khăn bởi khơng phải ai cũng nhận thức rõ vai trị và nhiệm vụ học tập của mình để hình
thành khả năng tự học và nghiên cứu khoa học.
Bản thân cá nhân tôi nhận thức được rằng vấn đề học tập là yếu tố quyết định, là cơ
sở, nền tảng hình thành năng lực nghề nghiệp, khả năng hội nhập cùng xã hội cao hơn, và
điều kiện tiên quyết chính là năng lực tự học, tự nghiên cứu. Nhưng cũng phải thừa nhận
rằng bản thân chưa thể vượt qua những khó khăn ban đầu bởi vậy cịn gặp nhiều trở ngại
trong suốt quá trình học tập.
18
Qua đề tài nghiên cứu này cá nhân tôi thấy rõ những ưu điểm nỗi trội khi tích cực
hoạt động tự học, ý nghĩa thiết thực của nó, cũng nhận thấy được đâu là yếu tố làm phát
sinh những khó khăn trong suốt quá trình học tập và phương hướng khắc phục nó. Đề tài
chính là cơ sở, là nền tảng cho sự nhận thức về cách học, kế hoạch thực hiện hoạt động tự
học đạt hiệu quả cao hơn.
Kết luận.
Có thể nói khơng phải bất cứ hoạt động nào cũng thực hiện được dễ dàng và nhanh
chóng, dù nổ lực đến đâu để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó cũng cần có thời gian của
nó. Đặc biệt vấn đề học tập trau dồi kiến thức lại càng cần thời gian mới có thể thấy được
kết quả thực sự.
Vấn đề mà đề tài nêu ra chính là cơ sở cho mỗi cá nhân định hướng, nhận thức sự
ảnh hưởng, và ý nghĩa của hoạt động thực tiễn để mỗi cá nhân tìm những hướng đi riêng
19
cho mình tìm cơ hội được làm chủ nền tảng kiến thức nhân loại. Và càng khơng nên nóng
vội mà cần lập rõ kế hoạch, không ngừng học hỏi, không được phép nản lòng, phải học ở
mọi lúc, mọi nơi sẽ có lúc chúng ta thấy được ý nghĩa của hoạt động tự học, tự nghiên cứu,
đó cũng chính là lúc chúng ta khẳng định mình trước mọi người, hãy luôn đặt niền tin vào
hoạt động học của bản thân bởi nó ln có cơ sở thực tiễn nhất định.
20