Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

THUC TRANG NEN GIAO DUC HIEN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.18 KB, 30 trang )

Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

MỤC LỤC
Trang
A.
1.
2.
B.
1.
2.
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
3
4.
4.1
4.2
4.3.
4.4
4.5.
4.6
5.
5.1
5.1.
1
5.1.
2


5.1.
3
5.1.
4
5.1.
5
5.2
5.2.
1
5.2.2
5.2.3

PHẦN MỞ
ĐẦU.................................................................................
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................
TẦM ẢNH HƯỞNG NHÂN CÁCH NHÀ GIÁO - YẾU TỐ QUAN
TRỌNG QUYẾT ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC.......................
B.NỘI DUNG......................................................................................
THỰC TRẠNG CỦA NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY........................
ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO......................
Nghề mà đối tượng quan hệ là con người............................................
Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của mình...............................
Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội..................................
Nghề địi hỏi có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao..
Nghề lao động trí óc chun nghiệp....................................................
CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO..................
PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO .....................................
4.1.Thế giới quan khoa học.................................................................
4.2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ...........................................................
Lòng yêu trẻ.........................................................................................

Lòng yêu nghề ( yêu lao động sư phạm)..............................................
Một số phẩm chất đạo đức (nét tính cách) và phẩm chất ý chí của
.người thầy giáo...................................................................................
Thực trạng hiện nay.............................................................................
NĂNG LỰC........................................................................................
Nhóm năng lực dạy học.......................................................................
Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục..............

1
1
2
4
4
5
5
6
7
7
7
8
10
10
10
11
12
13
13
15
16
16


Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo.....................................

17

Năng lực chế biến tài liệu học tập.......................................................

18

Nắm vững kỹ thuật dạy học.................................................................

18

Năng lực ngơn ngữ...............................................................................

19

Nhóm năng lực giáo dục......................................................................
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh.............................

20
20

Năng lực giao tiếp sư phạm.................................................................
Năng lực cảm hóa học sinh..................................................................

21
22

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hồi Sen


1

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

5.2.4
5.3
6
7
C.

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

Năng lực đối xử khéo léo sư phạm......................................................
Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm........................................
SỰ HÌNH THÀNH UY TÍN CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO.................
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐÓNG GÓP....................................................
KẾT LUẬN..........................................................................................

23
24
25
26
29

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1-LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vấn đề nhân cách và sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm
lý học và cũng là “mắt lưới” của cả hệ thống khoa học về con người, vừa có ý
nghĩa về lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác,
tâm lý học đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về nhân cách như: vấn đề bản
chất tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân
cách...
Nhân cách là tài sản vô cùng quý giá của con người nói chung và của
người thầy giáo nói riêng. Nhân cách là phương tiện vạn năng mà người giáo
viên dùng để giáo dục trẻ. Hơn thế nữa, nghề đào tạo con người là một nghề lao
động nghiêm túc, cao quý mà so với vàng bạc, kim cương cũng không thể nào
sánh được với nhân cách, tâm hồn của một con người. Trên con đường phát triển
con người dù xuất hiện các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại đến đâu đi
chăng nữa thì cũng khơng thể thay đổi vai trị của người thầy giáo, bởi vì sức
mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người mà có, khơng một
điều lệ, một chương trình, khơng một cơ quan giáo dục nào có được hoặc tạo ra
một cách có khơn khéo như thế nào cũng khơng thể thay thế được nhân cách của
con người trong sự nghiệp giáo dục.
Tuy nhiên trong những năm qua “cơn bão” của thời kinh tế thị trường,
tồn cầu hóa, “net” hóa đang ào đến mọi ngõ nghách xã hội; một mặt, khẳng
định vị thế ngày càng quan trọng hơn của người thầy; mặt khác nó “định nghĩa
lại”, “quy nạp lại” hai chữ “làm thầy”. Để giáo dục nhân cách cho trẻ, người
thầy giáo phải có đầy đủ tất cả phẩm chất và năng lực sư phạm. Ngày nay với sự

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

2

Lớp: K50A – SP Tiểu học



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động khơng nhỏ tới đời sống đạo
đức nói chung và đạo đức của người thầy giáo nói riêng. Thực tiễn phát triển xã
hội đã công nhận và tôn vinh chức năng người thầy giáo thì vấn đề trau dồi,
hoàn thiện nhân cách nhà giáo là một yêu cầu cấp thiết, nhất là khi kinh tế thị
trường và sự hội nhập quốc tế luôn tạo ra những mặt trái của nó.
2. TẦM ẢNH HƯỞNG NHÂN CÁCH NHÀ GIÁO - YẾU TỐ QUAN
TRỌNG QUYẾT ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Sự học ở Việt Nam xuất hiện thì việc tiếp nhận chữ Hán và Khổng giáo
suốt 2000 năm, giáo dục Việt Nam theo nền Hán học. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX
xuất hiện nền học thứ hai đó là Tây học. Ở ngọn nguồn của nền Hán học, Tây
học và nền giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thầy dạy khơng chỉ bằng sách
vở, tư tưởng mà chính bằng nhân cách mình.
Trong xã hội phong kiến, trường cơng chỉ ở tịnh lị, còn đa phần là trường
tư của thầy đồ - một nhân vật thôn dân độc đáo ở làng quê. Tuy trình độ có thể
chênh lệch, nếu thầy giỏi có học trị thơng minh thì đỗ nhiều, thầy càng có nhiều
tiếng tăm và có nhiều học trị đến học...Thầy đồ sống rất mực thước theo cốt
cách nhà nho, từ “mô phạm” xuất hiện trong thời ấy với nghĩa thầy giáo là tấm
gương đạo đức, sống kiểu mẫu để học trò noi theo.
Trong quan hệ lễ giáo với “ quân – sư – phụ” vị trí của người thầy thật
trang trọng vì thầy giáo khơng những dạy chữ nghĩa mà cịn dạy cho học trò đạo
sống, đạo làm người, sự hiểu biết về cuộc sống về con người, cách cư xử của
con người trong gia đình trong cộng đồng và xã hội.
Trong quan hệ thầy trò, thầy là bề trên nên trò tuân thủ mọi yêu cầu, mệnh
lệnh của thầy. Cha mẹ học trị rất kính trọng và biết ơn thầy giáo tuy nghiêm
khắc nhưng dạy con họ nên người, trở thành những người có ích sau này. Trong
quan hệ ngũ luân “vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè” khơng có

ln nào nói về thầy trò nhưng trong cuộc sống người thầy là một hình ảnh đẹp
có phần nào đó thần thánh hóa.
Chúng ta biết đến thầy giáo Chu Văn An, tài năng xuất chúng nổi tiếng về
đức độ, về đạo làm người, về đạo làm quan, đạo làm thầy với tâm niệm “hạnh
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

3

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

phúc lớn nhất là được nhìn thấy học trị ngày càng vượt mình”. Tục “trọng nam
khinh nữ” rất nặng trong xã hội phong kiến, phụ nữ vốn không được coi trọng
nhưng những phụ nữ tài danh như nữ sỹ Đoàn Thị Điểm và Bà huyện Thanh
Quan đã được vua mời về dạy cho các hồng tử và cơng chúa, khẳng định truyền
thống tôn sư trọng đạo của người Việt Nam.
Sang thời Pháp thuộc, rồi sau cách mạng tháng tám thắng lợi, trước những
năm 80 của thế kỷ trước ở miền Bắc, miền Nam các thế hệ thầy giáo được đào
tạo từ các trường sư phạm về nghiệp vụ chuyên môn, khoa học giáo dục được
bồi dưỡng về đạo đức. Người thầy nhận rõ nghề của mình, tự xác định cho mình
tồn tâm tồn ý, tự tu dưỡng tự rèn luyện bản thân vượt mọi khó khăn, yêu nghề,
gắn bó với nghề coi là sự nghiệp suốt đời. Người thầy cũng nhận thức được
chính họ là tấm gương cho học sinh, dạy học trò “ tiên học lễ, hậu học văn” làm
rất tốt vai trò của giáo dục.
Ngày nay trong xã hội có nhiều tiến bộ hơn, mối quan hệ giữa người với
người trở nên bình đẳng hơn; nhưng khơng vì thế mà vai trị của thầy giáo khơng

được trân trọng, vị trí của người thầy giáo vẫn được đánh giá rất cao trong xã
hội hôm nay: “nghề giáo là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”.
Không những thế người thầy của xã hội hiên đại lại rất cởi mở và gần gũi.
Không những là người truyền đạt kiến thức từ sách vở, người thầy đóng vai trị
là người đi trước, truyền đạt kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm sống và cả kinh
nghiệm ứng xử cho học trò của mình. Người thầy của thời đại mới khơng nhồi
nhét mớ kiến thức khơ cứng từ sách vở vào học trị, người thầy của ngày hôm
nay là người mở đường để người học tự thân vận động nhiều hơn. Thầy sẽ là
người gieo hạt, nhưng muốn vươn tới thành cơng thì phải dựa vào chính sức
mình. Điều đó khơng có nghĩa là thầy khơng thương học trị của mình, thầy
thương lắm chứ! Vì vậy muốn học trị phải đi trên chính đơi chân của mình thì
người học sẽ biết cách tự đứng lên sau những lần vấp ngã, tự tin và bản lĩnh hơn
khi đối mặt với những khó khăn thử thách.
Nói như vậy để thấy rằng người thầy trong xã hội nào cũng đóng một vai
trị quan trọng, và cũng được sự đón nhận trân trọng của xã hội. Đứng trên góc
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hồi Sen

4

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

nhìn của một người trong xã hội hiện đại, tơi đề cao vai trò của người thầy trong
thời đại ngày nay. Và vì thế tơi càng biết ơn sâu sắc những người thầy người cơ
của mình - những người đã đặt vào hành trang của tơi chiếc chìa khóa và đào tạo
tơi có bản lĩnh, niềm tin và nghị lực để mở cánh cửa vào đời.

B. NỘI DUNG
1.THỰC TRẠNG CỦA NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY
Hiện nay việc giáo dục ở nước ta mới dừng ở cung cấp kiến thức, mà
chưa coi trọng giáo dục thái độ, hành vi – hai yếu tố cơ bản của giáo dục. Khi sự
việc bị lơi ra ánh sáng, nhiều người muốn đi tìm ngun nhân. Nhưng dường
như chưa có câu trả lời thật sự đầy đủ và thỏa đáng cho hiện tượng xuống cấp
của một số hoạt động giáo dục cũng như xói mịn của truyền thống tôn sư trọng
đạo.
Trong thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra một số vụ việc tiêu cực liên quan
đến nhân cách của nhà giáo. Một số giáo viên đã không giữ được phẩm chất
người thầy nên bị tha hóa. Vì vậy, điều mà nhiều phụ huynh khơng an tâm là con
em họ đang được giáo dục bởi chính những người thầy đang sa sút về đạo đức
và ai sẽ là người đảm bảo an toàn cho các em?
Trong số những câu chuyện đau lịng, có lẽ nên bắt đầu từ việc các cháu
một số trường mầm non bị ăn bớt khẩu phần, bị cho ăn cơm nguội của ngày hơm
trước. Thử hỏi, làm sao phụ huynh có thể yên tâm khi hằng ngày khẩu phần ăn
đáng lẽ đầy đủ dinh dưỡng của con bị bớt xén. Ngoài ra, có trường mầm non, cơ
giáo cịn dùng hình thức dọa cho học sinh vào bao tải buộc lại, dán băng dính
vào miệng...Đây là những việc làm phản sư phạm vi phạm đạo đức người thầy.
Ở cấp học cao hơn lại xảy ra chuyện “đổi tình lấy điểm”, trị bị thầy xâm hại tình
dục. Vết nhơ mà người đàn ơng mang trên mình danh từ cao quý “thầy giáo” Đỗ
Tư Đơng ở trường Cao đẳng phát thanh truyền hình trung ương 1 ( Hà Nam) gây
ra sẽ khó mờ trong các thế hệ thầy trò của nhà trường. Tệ hại hơn và cũng là gần
đây nhất dư luận cả nước lại choáng váng trước một sự thật khủng khiếp: Giáo

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

5

Lớp: K50A – SP Tiểu học



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

viên Phan Văn Vân, trường Tiểu Học Kỳ Sơn huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh nhẫn tâm
cưỡng bức chính cơ học trị 9 tuổi của mình... Ngồi ra, cịn rất nhiều vụ việc
giân lận thi cử, văn bằng, chứng chỉ và khơng ít giáo viên ngang nhiên “đạo” cả
luận văn, kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trên đây chỉ là những vụ
việc được đưa lên báo chí.
Từ góc độ khác, khi sự việc xảy ra, hiếm học sinh, sinh viên nào dám
dũng cảm tố cáo hành vi sai trái của thầy giáo mọi chuyện chỉ được biết khi các
em khơng chịu đựng được nữa, tìm đến cái chết và trước khi tự tử thì kể cho một
người nào đó. Ở bậc đại học nhiều sinh viên chọn giải pháp im lặng để an tồn,
có tấm bằng ra trường. Khi chữ “trọng” trong quan hệ thầy trò mất đi thì thầy
khó ra thầy, trị khó ra trị! Ơng Vũ Xuân Huyên – nguyên giáo viên trường
chuyên Lê Hồng Phong ( Nam Định) nói: “Với những tác động từ nhiều phía
của cơ chế thị trường, một số giáo viên khơng thường xuyên rèn luyện bản thân,
dễ dàng quên đi ý thức nghề nghiệp (sư phạm) của mình, dẫn tới vi phạm đạo
đức. Các nhà quản lý giáo dục cũng cần thấy trách nhiệm của mình ngay từ khi
thấy những biểu hiện bất thường của cấp dưới. Nếu kỷ cương được tăng cường
và mọi người quan tâm đến nhau thì ngay từ thay đổi nhỏ nhất cũng bị phát hiện
đồng thời có thể ngăn chặn kịp thời”.
Cần khẳng định những vụ việc đó chỉ là cá biệt, cịn đại đa số giáo viên
đang hết lịng vì học sinh. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cần gióng lên tiếng
chng báo động...
2. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
Để tìm thấy đặc trưng của một loại hoạt động nghề nghiệp nào, ta có thể
dựa vào các mặt như đối tượng của hoạt động, cơng cụ của hoạt động, tính chất

của hoạt động... Dựa trên cơ sở đó, ta có thể nêu lên đặc điểm lao động cơ bản
của người thầy giáo như sau:
2.1. Nghề mà đối tượng quan hệ là con người
Như ta đã rõ, nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp của mình. Có
nhà khoa học đã dựa vào tiêu chuẩn này để chia thành 4 loại sau đây:
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

6

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Nghề quan hệ với kỹ thuật: như thợ lắp máy, sữa chữa máy...
* Nghề quan hệ với tín hiệu: như thợ săp chữ, sửa bản in...
* Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên: nghề chan nuôi, thú y...
* Nghề quan hệ trực tiếp với con người: quản lý, tuyên huấn, thầy thuốc,
thầy dạy học...
Vì đối tượng quan hệ trực tiếp với con người, nên đòi hỏi người hoạt động
trong nghề đó phải có những yêu cầu nhất định trong quan hệ giữa con người va
con người, chẳng hạn sự tơn trọng, lịng tin, tình thương, sự đối xử công bằng,
thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị là những nét tính cách khơng thể thiếu được của
loại hình nghề nghiệp này.
Cũng là đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, nhưng con người với tư
cách là đối tượng của thầy giáo cũng khơng hồn tồn giống với con người trong
quan hệ thầy thuốc... đó là con người trong thời kỳ chuẩn bị, đang ở buổi bình
minh của con người. Hoạt động chính của người thầy giáo là điều khiển và tổ

chức trẻ lĩnh hội, thông thái những kinh nghiệm, những tinh hoa mà là lồi
người tích lũy được và biến chúng trở thành những net nhân cách của mình.
Khơng ai trong xã hội ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi nữa cũng không thể thay
thế được chức năng của người thầy giáo. Nghề thầy giáo có ý nghĩa chính trị kinh tế to lớn.
2.2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của mình
Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để
tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, sự giác ngộ về lý tưởng đào
tạo thể hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về
nghề nghiệp và lối sống, cách cư xử và kỷ năng giao tiếp của người thầy giáo ....
Đó là lý do ma K.D.usinxki đã khẳng định: “Dùng nhân cách đẻ giáo dục nhân
cách”
Hơn nữa, nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không
được tạo ra thứ phẩm, chứ nói gì đến phế phẩm. Vì cơng cụ chủ yếu của của lao
động người thầy giáo là bản thân ơng thầy, là nhân cách chính mình, cho nên
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

7

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

nghề giáo đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất cao. Nhưng làm
sao có thể làm được điều đó? Một giáo viên đã trả lời câu hỏi: “Thế nào là một
giáo viên tốt?”. Theo tôi để trở thành một giáo viên tốt, trước hết phải sống một
cuộc sống chân chính vẹn tồn nhưng đồn thời phải có ý thức và kỹ năng tự
hồn thiện mình. Tâm hồn nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để sau này có khả

năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ. Người giáo viên một mặt là cống hiến,
mặt khác họ như một thứ bọt biển, thấm hút vào mình mọi tinh hoa của dân tộc
và của thời đại, của cuộc sống và của khoa học và rồi họ lại cống hiến những
tinh hoa này cho trẻ.
2.3.Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội.
Để tồn tại và phát triển xã hội loài người cần phải sản xuất và tái sản xuất
của cải vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra của cải vật chất và của cải tinh
thần cần phải có sức lao động. Sức lao động là toàn bộ sức mạnh vật chất hay
tinh thần có ích cho xã hội. Cho nên chức năng của giáo dục chín là bồi dưỡng
và phát huy sức mạnh đó ở trong con người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu
tạo ra sức lao động đó. Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước,
bất khuất, kiên cường, là tình thương đồng bào, đồng loại, là đức tính cần cù
sáng tạo, là trí thức, lịng u lao động, lao động có tổ chức. có kỹ thuật và năng
suất cao.
2.4. Nghề địi hỏi có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao
Người thầy giáo tồi là người đem chân lý sẵn còn người thầy giáo giỏi là
người biêt dạy học sinh đi tìm chân lý. Thực hiện cơng việc dạy học theo tinh
thần đó, rõ ràng địi hỏi người thầy giáo phải dựa trên những nền tảng khoa học
giáo dục và có kỹ năng sử dụng chúng và từng tình huống sư phạm cụ thể thích
ứng với từng cá nhân. Quan niệm của nhà giáo như vây và yêu cầu người giáo
viên thực hiện chức năng xã hội của mình theo yêu cầu đó thì cơng việc của họ
địi hỏi tính khoa học cao và tính khoa học cao đến mức khi thể hiện nó như một
người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ, một nhà thơ của quá trình sư phạm.
2.5. Nghề lao động trí óc chun nghiệp
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

8

Lớp: K50A – SP Tiểu học



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

Lao động trí óc có hai đặc điểm nổi bật: Phải có một thời kỳ khởi động.
Nghĩa là thời kỳ để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra hệ quả. Có “qn tính”
của trí tuệ. Do những đặc điểm của lao động trí óc chun nghiệp như trên cho
nên cơng việc của người thầy giáo khơng hẳn đóng khung trong khơng gian lớp
học, thời gian xác định...
Tóm lại, thông qua những đặc điểm lao động của người thầy giáo, chúng
ta thấy đặt ra nhiều đòi hỏi trong phẩm chất và năng lực của người thầy giáo,
càng minh chứng tính khách quan trong yêu cầu đối với nhân cách nhà giáo dục.
Nhưng mặt khác nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho nhà giáo một vị trí tinh
thân và sự ưu đãi vật chất xứng đáng như V.I. Lênin đã từng mong ước “chúng
ta phải làm cho giáo viên ở nước ta có một địa vị mà từ trước đến nay họ chưa
bao giờ có”.
3. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lưc tạo
nên bản sắc (nét đặc trưng) và giá trị tinh thần (giá trị làm người) của mỗi người.
Như vậy cấu trúc của nhân cách là một hệ thống gồm hai bộ phận: phẩm chất
(đức) và năng lực (tài).
Nói đến phẩm chất là nói đến thái độ của con người đó với hiện thực (tự
nhiên, xã hội, người khác và cả bản thân) có nghĩa nó là hệ thống những thuộc
tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của người đó. Nhưng mối
quan hệ xã hội cụ thể đó thường được thể hiên qua hành động, hành động và
cách xử sự đối vơi con người, công việc, tổ chức...
Nói đến năng lực là nói đến mặt hiệu quả của tác động, tác động vào con
người vào sự việc như thế nào và đem lại hiệu quả gì?
Phẩm chất và năng lực đều là tổ hợp 3 yếu tố tâm lý cơ bản của: nhận

thức, tình cảm và ý chí. Cho nên, mặt phẩm chất của nhân cách bao gồm ý thức,
niềm tin đạo đức (nhận thức) mà biểu hiện tập trung là thế giới quan và lý
tưởng; tình cảm đạo đức và ý chí đạo đức (biểu hiện tập trung ở tính cách). Mặt

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

9

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

năng lực cũng vậy, bao gồm năng lực trí tuệ (nhận thức) tình cảm trí tuệ và hành
động trí tuệ (ý chí).
Cả phẩm chất và năng lực làm thành một hệ thống. Chúng quyện vào
nhau, chi phối lẫn nhau và tạo nên một cấu trúc (với nghĩa là một tổ hợp những
yếu tố cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố đó và tạo ra một thể thống nhất và
toàn vẹn )
Những nội dung cơ bản tạo thành nhân cách nói trên là chung cho mọi
người ở mọi hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên trong mỗi thành phần của nó ở
mỗi loại hình hoạt động nghề nghiệp khác nhau có những nội dung, tính chất và
u cầu khác nhau.
Sau đây ta sẽ xét cấu trúc nhân cách của người thầy giáo. Trong các cấu
trúc nhân cách của người thầy giáo có thể kể đến những thành phần sau đây:
*Các phẩm chất



Thế giới quan khoa học



Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ



Lịng u trẻ



Lịng u nghề



Những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của người thầy

giáo
*Các năng lực sư phạm


Năng lực hiểu học sinh trong q trình dạy học và giáo dục



Tri thức và tầm hiểu biết




Năng lực chế biến tài liệu học tập



Năng lực dạy học



Năng lực ngơn ngữ



Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh



năng lực giao tiếp sư phạm



Năng lực cảm hóa học sinh

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

10

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học


GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh



Năng lực đối xử khéo léo sư phạm



Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

4.PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
4.1.Thế giới quan khoa học
Trong phẩm chất nhân cách của người thầy giáo, trước hết phải có thế giới
quan khoa học.Sau khi vạch trần tính chất bịp bợm cái gọi là giáo dục phi chính
trị, phi Đảng, V.I.Lênin khẳng định: “Nền giáo dục mới có trách nhiệm phải gắn
hoạt động của giáo viên với nhiệm vụ xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa” và cần
“bồi dưỡng một đội ngũ những người làm công tác giáo dục và giảng dạy gắn bó
chặt chẽ với Đảng, với lý tưởng của Đảng và thấm nhuần tinh thần của Đảng”
Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới quan Mác- Lênin bao hàm
những quan điểm duy vật biện chứng các quy luật phát triển của tự nhiên xã hội
và tư duy. Thế giới quan Mác – Lênin của người thầy giáo được hình thành dưới
nhiều ảnh hưởng khác nhau. Trước hết, đó là trình độ học vấn của người thầy
giáo là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế đất
nước, là do việc nghiên cứu triết học...
Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như
thái độ của ông ta đối với các măt hoạt động đó, như việc chon lựa nội dung và
phương pháp giảng dạy giáo dục việc kết hợp giữa giáo dục và nhiệm vụ chính
trị của xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sông, cũng như phương
pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của học sinh.

Tóm lại, thế giới quan Mác – Lênin là kim chỉ nam giúp cho người thầy
giáo đi tiên phong trong đội ngũ những người đi xây dựng xã hội XHCN, xây
dựng niềm tin cho thế hệ đang lớn lên và chống mọi biểu hiện của tư tưởng xa
lạ.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

11

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

4.2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người
thầy giáo. Lý tưởng là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo ln đi lên phía
trước, thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác, lý
tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành nhân cách học sinh.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng
niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh
với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân
tình. Những cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy giáo vượt qua mọi khó khăn
về tinh thần, vật chất, hồn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ xây dựng và bảo
vệ tổ quốc Việt Nam. Những cái đó cũng sẽ để lại những dấu ấn đậm net trong
tâm trí học sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình và phát triển
nhân cách của trẻ.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ khơng phải là cái gì có sẵn, cũng khơng phải
là cái gì có thể truyền từ người này sang người khác bằng cách áp đặt. Trái lại,

sự hình thành và phát triển nó là một q trình hoạt động tích cực trong cơng tác
giáo dục. Chính trong q trình đó, nhận thức về nghề càng được nâng cao, tình
cảm nghề nghiệp ngày càng sâu sắc, hành động trong nghề ngày càng tỏ rõ
quyết tâm cao.
Vì tác dụng to lớn của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong nhân cách người
thầy giáo, cho nên mọi việc làm trong trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý
tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh.
4.3. Lòng yêu trẻ
Lòng yêu người, trước hết là yêu trẻ là một trong những phẩm chất đạo
đức của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo.
Vì lịng thương người đó là đạo lý của cuộc sống. lòng thương người, yêu trẻ
càng sâu sắc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu.
Lòng yêu trẻ của thầy giáo được thể hiện:

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

12

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới
độc đáo của trẻ.
* Lòng yêu trẻ còn thể hiện trong thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần
đối với trẻ, kể cả các em học kém và vô kỷ luật
* Người thầy giáo có lịng u thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần

giúp đỡ họ bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình một cách chân
thành và giản dị. Đối với họ khơng bao giờ có thái độ phân biệt đối xử, dù có
những em chưa ngoan hoặc chậm hiểu.
Tuy nhiên lòng yêu trẻ của người thầy giáo không thể pha trộn với những
nét ủy mị, mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ mà
ngược lại.
Tóm lại, có thể nói rằng bí quyết thành cơng của nhà giáo xuất sắc là bắt
nguồn từ một thứ tình cảm vơ cùng sâu sắc – đó là tình u trẻ. Khẩu hiểu các
trường học hiện nay ở nước ta “tất cả vì học sinh thân u” cũng xuất phát từ
tình cảm đó.
4.4. Lòng yêu nghề ( yêu lao động sư phạm)
Lòng yêu trẻ và yêu nghề gắn bó chặt ché với nhau, lòng vào nhau. Càng
yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu người mới có cơ sở yêu
nghề. Khơng có lịng thương người u trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những
động lực manh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng vì lý tưởng nghề
nghiệp.
Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào
tạo thế hệ trẻ của mình. Trong cơng tác giảng dạy và giáo dục, họ luôn luôn làm
việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn cải tiến nội dung và phương pháp,
không tự thỏa mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có
niềm vui khi được giao tiếp với học sinh. Sự giao tiếp này sẽ làm phong phú
cuộc đời người thầy giáo càng làm cho thầy giáo có nhiều cảm xúc tích cực và
say mê.

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

13

Lớp: K50A – SP Tiểu học



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

Có thể nói rằng, chỉ có người giáo viên nào mà họ biến cả cuộc đời mình
cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, lấy việc hi sinh phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ
đào tạo con người mới làm hạnh phúc cao cả của đời mình thì mới có thể thực
hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng.
Chúng ta có thể khẳng định vai trị của phẩm chất này trong cấu trúc nhân
cách người thầy giáo bằng cách mươn câu nói của L.N.Tơnxtơi: “Để đạt được
thành tích trong cơng tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất – đó là tình
u. Người thầy giáo có tình u trong cơng việc là đủ cho họ trở thành người
giáo viên tốt”.
4.5. Một số phẩm chất đạo đức (nét tính cách) và phẩm chất ý chí của
người thầy giáo
Khác với hoạt động khác, hoạt động của người thầy giáo nhằm làm thay
đổi con người (học sinh ). Do vậy mối quan hệ thầy trò như một vấn đề quan
trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lương dạy học nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan hệ với
học sinh, sao cho qua đó khơi dậy ở họ được tính tích cực hoạt động thì các chất
lượng dạy - học sẽ được nâng cao.
Hơn nữa người thầy giáo giáo dục học sinh không những bằng những
hành động trực tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng
thái độ và hành vi của chính mình với hiện thực.
Những phẩm chất đạo đức là nhân tố tạo ra sự công bằng theo quan điểm
sư phạm trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trị. Những phẩm chất ý chí
là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo thành
hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.
4.6 Thực trạng hiện nay

Cho đến lúc này, chúng ta không thể ý tứ mãi hay lại mượn câu nói “con
sầu bỏ rầu nồi canh” để né tránh vấn đề quan trọng nhất của mọi nền giáo dục ở
mọi thời đại: nhân cách thầy cô.

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

14

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

Khi chúng ta lên tiếng một cách thẳng thắn về vấn đề nhân cách thầy cơ
hiện nay sẽ có một số người nói đó chỉ là những trường hợp cá biệt. Cách nói,
cách tư duy này đã từng được cơng khai trước xã hội như một sự tự tin và như
một trách nhiệm với nền giáo dục. Nhưng chúng ta phải nói thật rằng: Dù người
nói điều này là ai thì cũng là người vơ trách nhiệm đối với sự trong sạch và phát
triển của nền giáo dục nói riềng và của xã hội nói chung.
Dư luận cả nước lúc này đang bị một cú đánh trúng đỉnh đầu bởi vụ một
thầy hiệu trưởng mua dâm học sinh ở tuổi vị thành niên. Nhưng khơng vì cú
đánh q “khủng khiếp” này vào lương tâm xã hội mà chúng ta không nhắc đến
những chuyện xảy ra trước đấy đó là những ơng thầy gạ học sinh đổi tình lấy
điểm. Đó là những cơ giáo bắt học sinh liếm ghế. Đó là những thầy bắt các học
sinh trong lớp tát vào mặt bạn mình. Và trở lại xa hơn một chút là một cơ giáo
trường mầm non vì thù ốn đơng nghiệp mà bỏ thuốc sâu vào nồi canh của các
em nhỏ. Những hành động như vậy của một sô thầy cô đã làm cho tinh thần xã
hội chống váng và lịng tin của xã hội nhiều phen tưởng chứng gục ngã.

Có phải vì những lý do như thế mà truyền thống hiếu học và cái lễ trọng
thầy của người Việt Nam đang bị xói lở từng mảng lớn? Có phải vì thế mà học
sinh dùng cả 1 chậu axít tạt vào thầy, dùng dao đuổi thầy chạy vòng quanh
trường, dùng những từ ngữ lưu manh chửi thầy cô...Rồi đến phụ huynh cũng
dìm đầu thầy cơ xuống mà đấm đá cho hả cơn giận mù lòa.
Một hiện thực rõ rãng như chúng ta đang xịe bàn tay của chính mình
trước mắt mình là nhân cách của một số thầy cô bị ố nhục khơng cịn là những
trường hợp cá biệt nữa.Nó đã và đang trở thành những vết hoại tử trên cơ thể
của một nền giáo dục.
Lâu nay chúng ta vẩn đôi khi tự ngụy biện cho việc ăn tiền của một số
thầy cô với học sinh và phụ huynh là do đời sống thầy cô quá thiếu thốn. Và nhà
nước đã tìm mọi cách để nâng lương nhằm ổn định đời sống cho thầy cô với hi
vọng không để cho những hành động phi giáo dục nuốt chững những mái
trường.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

15

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

Nhưng việc những thầy cơ có những hành động thơ bạo với học sinh và
những ơng thầy tìm đủ mọi cách để dụ dỗ học sinh hay bắt ép học sinh thỏa mãn
sắc dục của mình thì khơng có một lý do nào để bênh vực được. Chúng ta khơng
cịn cách nào khác để nói về những thầy cơ như thế ngồi việc gọi đó là sự suy
đồi nhân cách.Và chúng ta không thể đưa ra bất cứ lý do nào để chôn vùi những

sự thật đau đớn và hổ nhục đó giống như việc chúng ta tìm cách che dấu những
“ổ dịch hạch nhân cách” đang nằm trong cơ thể của nền giáo dục.
5. NĂNG LỰC
Đất nước đổi mới, mở cửa, hội nhập, có nhiều thuận lợi để con người thực
hiện lẽ sống “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhiều thầy cô tâm huyết với nghề “trồng người” đã biết vượt lên chính mình.
Khơng ít thầy cô để lại sau lưng ánh đèn thành phố, chia tay tiện nghi, dám đối
diện với muôn vàn khó khăn “ cầm đàn lên đỉnh núi”, “cõng cái chữ” lên vùng
sâu, vùng xa. Họ là người giáo viên nhân dân “trái tim đỏ như hoa phượng tím”,
biết sống “mình vì mọi người”.
Chính họ là niềm tự hào cho việc dạy học của chúng ta.
Tuy nhiên nhiều thầy cô giáo bằng lòng với kiến thức đã học trong các
trường CĐ- ĐH khơng những vậy mà lại cịn cho rằng “học mười chỉ dạy một,
hai”. Họ là “nô lệ” của sách giáo khoa, tôn sùng sách giáo khoa, khăng khằng
bảo thủ cho rằng kiến thức trong sách giáo khoa là duy nhất đúng, khi dạy chỉ lo
truyền đạt đủ kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Phương pháp dạy khô
cứng, đơn điệu, đọc sách giáo khoa bắt học sinh chép hoặc chỉ đơn giản tóm tắt
sách giáo khoa. Đó là cách dạy của người thầy thiếu cái tâm, vô trách nhiệm,
không sáng tạo, kiến thức của thầy lạc hậu, thui chột, chắc chắn không đảm bảo
chất lượng chuyên môn của tiết dạy.
Mà nghề dạy học có đặc thù riêng, sản phẩm là con người trong mối tổng
hòa xã hội. Thầy giáo, ngoài tiết dạy trên lớp phải quan tâm tới hoạt động ngoại
khóa, bạn bè, cuộc sống ngồi xã hội của trò, phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

16

Lớp: K50A – SP Tiểu học



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

sinh, kịp thời nắm bắt diễn biến tình cảm, tư tưởng của bọn “nhất quỷ, nhì ma” ,
“sớm nắng , chiều mưa”, đến trường tỏ ra học sinh ngoan, về nhà bố mẹ khen
nức nở, đến khi công an thông báo con em sa vào nghiện hút, lúc đó cha mẹ,
thầy giáo chủ nhiệm mới tá hỏa lên thì đã muộn. Lỗi đó có phần thuộc về người
thầy. Người thầy không chỉ quản lý học sinh trong giờ học, mà quản chặt học
sinh do mình chủ nhiệm khi chúng về nhà và hành vi của các em ngoài xã hội.
Tiếc rằng một tật xấu của thầy giáo, đặc biệt ở thành phố là lười nhác, vơ cảm,
khơng dành thì giờ đến vơi học sinh. Quan hệ giữa thầy và trò có cả một khoảng
cách lạnh lùng, trị khơng hiểu thầy, thầy khơng hiểu trị. Đã khơng hiểu nhau thì
cộng tác với nhau khó đem lại hiệu quả tốt.
Rồi chuyện dạy thêm để lai nhiều tai tiếng bị dư luận xã hội lên tiếng,
đồng tiền làm hoen ố nhân cách người thầy. Nhiều thầy dạy trên lớp đồng
nghiệp xếp loại trung bình, yếu, kém. Nếu ngành giáo dục nghiêm túc, phải loại
những giáo viên “tay nghề” non ra khỏi ngành. Song chẳng hiểu vì sao họ cứ
nghiễm nhiên làm thầy. Họ dạy kém, đương nhiên chẳng học sinh nào đến thụ
giáo, họ giở thủ đoạn “ép” học sinh đến lớp học thêm của mình, khi kiểm tra sẽ
được điểm cao, nếu khơng thì thầy “trù” cho biết lễ độ...!
Nhiều người vào nghề dạy học, có thể là thầy chọn nghề, hay nghề chọn
thầy, muốn hay khơng muốn thì “đã mang lấy nghiệp vào thân”, phải tìm hiểu
đặc thù nghề nghiệp, sản phẩm làm ra là Con Người Mới, những công dân tốt
nhân tài của đất nước. Nếu những ông thầy sa đọa về đạo đức, dốt nát về chuyên
môn, không biết mình, biết người, bảo thủ đứng trên bục giảng chỉ làm hỏng các
thế hệ học trò. Làm thầy phải biết hi sinh cho người nghiệp, “tử vì nghề”.
Nghề dạy học là nghề sáng tạo, đào tạo ra những con người sáng tạo. Nếu
thầy khơng cịn sức sáng tạo , lười nhác không tự học, không cải thiện phương
pháp giảng dạy, chỉ loanh quanh kiến thức trong sách giáo khoa ma sách giáo

khoa khơng phải lúc nào cũng đúng thì nên “giải nghệ”, đừng “cố đấm ăn xơi”,
tra tấn học trị khi đứng lớp. Đó là người thầy nhẫn tâm, thiếu đạo đức nghề
nghiệp, chắc chắn học trị khơng chấp nhận. Ông cha dạy rằng: “không thầy đố
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

17

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

mày làm nên”, hay “thầy nào trò nấy” để thấy rằng vai trị của ơng thầy tác động
tồn diện đến học trò theo quy luật “nhân quả”. “Thầy tốt” mới có trị “học tốt”.
Sau đây ta sẽ xét một số năng lực điển hình trong các nhóm của năng lực
sư phạm:
5.1 Nhóm năng lực dạy học
5.1.1. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Dạy học là quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai hoại hoạt động dạy
học do hai thực thể (thầy và trò) đảm nhiệm. Trong q trình đó, chức năng của
thầy là tổ chức và điều khiển hoạt động của trò, chức năng của trị là chiếm lĩnh
nên văn hóa xã hội.
Một thầy giáo có năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bị giảng bài đã biết
trình độ phát triển của chúng, hình dung được từng em biết cái gi, biết đến đâu,
cái gì có thể qn hoặc khó hiểu. Đó là năng lực “thâm nhập” vào thế giới bên
trong của trẻ. Vì vậy biểu hiện trước hết của năng lực hiểu học sinh là ở chỗ,
thầy biết xác định khối lượng kiến thức mới trình bày cho cơng tác dạy học hay
giáo dục. Nó cịn thể hiện ở chỗ dự đốn được khó khăn và thuận lợi, xác định

đúng mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.
Năng lực hiếu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách
nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững mơn mình dạy, am hiểu đầy đủ
về tâm lý học trẻ em, tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần
thiết như sự “tinh ý” sư phạm (quan sát), óc tưởng tưởng khă năng phân tích,
tổng hợp.
5.1.2 Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo.
Đây là năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực
trụ cột của nghề dạy học. Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể
hiện ở chỗ:
* Nắm vững và hiểu biết rộng mơn mình phụ trách.

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

18

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Thường xuyên theo dõi xu hướng, những phát minh khoa học do mơn
mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thứ lớn
lao đối với nó.
* Có năng lực tự bồi dưỡng để bổ túc và hồn thiện tri thức của mình, đầy
đủ ý thức tự nguyện làm “một thứ bọt biển” để thấm hút vào mình mọi tinh hoa
của khoa học, của nền văn minh nhân loại.
Để có năng lực này người thầy giáo phải có hai yếu tố cơ bản, thứ nhất là

nhu cầu về mở rộng tri thức và tầm hiểu biết, thứ hai là kỹ năng để làm thỏa mãn
nhu cầu đó.
5.1.3 Năng lực chế biến tài liệu học tập
Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập
nhằm là cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh,
trình độ, kinh nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm.
Việc đánh giá đúng đắn tài liệu của giáo viên chính là xác lập được mối
quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhân thức của học
sinh. Người giáo viên có năng lực chính là người biết xác lập được đúng đắn
mối quan hệ nói trên, làm sao vừa đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của
chương trình vừa làm cho tài liệu đó lại vừa sức tiếp thu đối với trẻ.
Trên cơ sở đánh giá đúng tài liệu, người thầy giáo lại phải biết chế biến
gia cơng tài liệu nhằm làm cho nó vừa đảm bảo logic của sự phát triển khoa học,
vừa phù hợp với logic sư phạm, lại thích hợp nhận thức của trẻ.
Muốn làm được điều đó, trước hết người thầy giáo phải có khả năng phân
tích tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức.
Hai là, người thầy giáo phải có óc sáng tạo. Óc sáng tạo của thầy giáo khi
chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:
* Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học
sinh những kiến thức tinh và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

19

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học


GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

cũ và mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống.
* Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy
sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực.
* Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cùng là yếu tố góp
phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu ở người thầy giáo.
5.1.4 Nắm vững kỹ thuật dạy học
Kết quả lĩnh hội tri thức, chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào ba
yếu tố: một là trình độ nhận thức của học sinh ( do đó thầy giáo phải hiểu học
sinh), hai là nội dung bài giảng (do đó thầy giáo phải biết cách chế biến tài liệu),
ba là cách dạy của thầy. Vì vậy, thầy phải biết cách dạy và nâng trình độ cách
dạy lên mức độ năng lực.
Vậy nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuât tổ chức và điều
khiển hoạt động nhận thức của tró qua bài giảng, và đạt đến như là năng lực.
Nắm vững kỹ thuật dạy học biểu hiễn ở chỗ:
* Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát
minh” trong q trình dạy học.
* Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với
học sinh.
* Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập (xin
nhắc lại là không phải bằng hô hào mà bằng chính “lực hút” từ bản thân đối
tương học).
* Tạo ra tâm thế có lợi cho sự linh hội, học tập ( như động viên, khêu gợi
được sự chú ý, chuyển hóa kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ
( giảm căng thẳng trong giây lát) và ngược lại, khắc phục sự suy giảm của hoạt
động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải
Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm vững được kỹ thuật dạy học
nêu trên quả không dễ dàng, trái lại, nó là kết quả của một q trình học tập


SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

20

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

nghiêm túc ( cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ) và rèn luyện tay nghề công
phu.
5.1.5 Năng lực ngơn ngữ
Có thể nói khơng có năng lực dạy học nếu khơng có năng lực ngơn ngữ.
Trong dạy học, cũng như giáo dục, ngôn ngữ của người thầy thường hướng vào
việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó, như: truyền thụ kiến thức mới,
kiểm tra kiến thức cũ, thuyết phục học sinh tin vào một chân lý, lẽ phải nào đó,
hoặc có khi qua lời nói biểu thị một sự đồng tình hay phản đối điều gì đó.
Năng lực ngơn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ.
Nó là một trong những năng lực quan trọng của người thầy giáo. Nó là
cơng cụ sống cịn đảm bảo cho người thầy giáo thực hiện chức năng dạy học và
giáo dục của mình.
•Về nội dung:
* Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến tồn bài giảng, ngơn ngữ phải chứa đựng
mật độ thơng tin lớn, diễn tả, trình bày phải chính xác cơ đọng và “đăt”. Những
điều nói trên là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết, của sự suy nghĩ sâu sắc.
* Lời nói phải phán ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo

thơng tin liên tục, lơgic.
* Nội dung và hình thức ngơn ngữ phải thích hợp các nhiệm vụ khác
nhau( thơng báo tài liệu mới, bình luận câu trả lời của học sinh, biểu lộ sự tán
đồng hay bất bình...)
* Nhân cách của thầy giáo là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói
của mình.
•Về hình thức:
* Hình thức ngơn ngữ của thầy giáo có năng lực thường giản dị, sinh
động, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm, với cách phát âm mạch lạc
trong đó khơng có những sai phạm về mặt tu từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm.

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

21

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Năng lực ngơn ngữ của thầy giáo cịn biểu hiện ở chỗ thúc đẩy một cách
tối đa sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng.
* Cũng nói thêm rằng nhịp độ ngơn ngữ của thầy giáo cũng có một ý
nghĩa nhất định.
5.2 Nhóm năng lực giáo dục
5.2.1. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh
Hình thành nhân cách là mục đích cứu cánh của giáo dục. Nó là tổ hợp
của những phẩm chất nhất định. Vì vậy, mọi hoạt động sư phạm phải nhằm hình

thành nên những “chất liệu” đó để dệt nên nhân cách học sinh.
Đó là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo hình dung
trước cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và
hướng hoạt động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới.
Năng lực này thường được biểu hiện ở chỗ:
* Vừa có kỹ năng tiên đốn sự phát triển của những thuộc tính này hay
khác ở từng học sinh, vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát
triển của những thuộc tính đó.
* Có sự sáng rõ về những biểu hiện nhân cách của những học sinh khác
nhau sẽ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển
nhân cách do mình xây dựng.
* Hình dung được hiệu quả của tác động giáo dục nhằm hình thành nhân
cách theo dự án.
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh được tạo nên bởi nhiều
yếu tố tâm lý như: óc tưởng tưởng sư phạm, tính lạc quan sư phạm, niềm tin vào
sức mạnh giáo dục, niềm tìn vào con người và óc quan sát sư phạm.
Nhờ có năng lực này, cơng việc của thầy giáo trở nên có kế hoạch, chủ
động và sáng tạo.
5.2.2 Năng lực giao tiếp sư phạm
Giao tiếp là một thành phần cơ bản cuả hoạt động sư phạm.Không có giao
tiếp thì hoạt động của giáo viên và học sinh khơng thể diển ra.Vì vậy người giáo
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

22

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học


GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

viên cũng phải có năng lực giao tiếp sư phạm. Năng lực giao tiếp sư phạm
thường được biểu hiện ở các kĩ năng chính, như
* Kỹ năng định hướng giao tiếp: Kỹ năng này được biểu hiện ở khả năng
dựa vào sự biểu lộ bên ngồi nào đó như sắc thai biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu
của ngôn ngữ, cử chỉ, động tác, thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đốn
chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể ( Giáo viên) và đối
tượng (học sinh) giao tiếp
* Kỹ năng định vị : Một điều kiện quan trọng để hiểu biết lẫn nhau trong
quá trình giao tiếp, đó là sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng.
* Kỹ năng làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân: biểu hiện ở chổ biết
kiềm chế trạng thái xúc cảm mạnh, khắc phục những tâm trạng có hại, khi cần
thiết có thể bộc lộ rõ những tình cảm mà lúc này khơng có hoạc có nhưng yếu
ớt, nói cách khác là biết điều khiển và diều chỉnh các diễn biến tân lý của mình
cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
* Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp: phương tiện giao tiếp đặc trưng
của con người là lời nói (ngơn ngữ). ngồi ngơn ngữ diễn đạt, những phương
tiện ngồi ngơn ngữ như cử chỉ,điệu bộ, nết mặt, nụ cười, liếc mắt...có thể bổ
sung, hổ trợ cho thái độ của người thầy giáo trong quan hệ tiếp xúc với học
sinh.Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các
phẩm chất của nhân cách.
5.2.3 Năng lực “cảm hóa học sinh”
Muốn hiểu được đối tượng giáo dục của mình, muốn cho các tác động sư
phạm của mình có ý nghĩa đến sự hình thành nhân cách của trẻ, trong hệ thống
các năng lực sư phạm không thể vắng mặt năng lực “cảm hóa” học sinh.Bằng
cách nào để có năng lực này?
Để có năng lực này đòi hỏi người thầy giáo phấn đấu và tu dưỡng để có
một nếp sống văn hóa cao, một phong cách mẫu mực nhằm tạo ra một uy tín
chân chính và thực sự, biểu hiện từ cử chỉ, lời nói đến tinh thần lao động hăng

say, sáng tạo, lý tưởng nghề nghiệp cao đẹp...
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

23

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Xây dựng một quan hệ thầy trò tốt đẹp: vừa nghiêm túc vừa thân mật,có
thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh, biết đối xữ dân chủ và cơng bằng,chân
thành và giản dị, biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
* Có tư thế tác phong gương mẫu trước học sinh: ăn nói lịch sự, nhã nhặn,
tôn trọng, cử chỉ đẹp, giọng điệu đàng hồng.
Tóm lại sức hút của sự cảm hóa hồn tồn bắt nguồn và thân thiện từ
chính bộ mặt chính trị đạo dức và tài nghệ sư phạm của thầy.

5.2.4 Năng lực đối xử khéo léo sư phạm
Trong quá trình giáo dục, người thầy giáo thường đứng trước nhiều tình
huống sư phạm khác nhau.Điều đó, một mặt, địi hỏi, thầy giáo phải biết hiểu
tâm lý trẻ, hiếu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em, mặt khác
đòi hỏi thầy giáo phải biết cách giải quyết linh hoạt và sáng tạo những tình
huống sư phạm của từng cá nhân cũng như tập thể học sinh.Muốn ứng xử tốt rõ
ràng cần có tài ứng xử sư phạm. Vậy thế nào là sự đối xử khéo léo sư phạm?
T.V.Xtrakhốp cũng đã phân tích các yếu tố tâm lý của sự khéo léo đối xử
sư phạm. theo ơng, đó là:
* Sự thống nhất giữa tình thương u có lý, có lẽ của giáo viên đối với

học sinh và những hình thức đối xử hoàn thiện về mặt sư phạm.
* Sự thống nhất giữa việc tôn trọng nhân cách học sinnh và tính u cầu
cao có cơ sở về mặt sư phạm.
* Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.
* Sự cân bằng giữa ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên,
chân thật và có thiện chí của những hình thức đối xử.
Trong thực tiễn hoạt động sư phạm của người thầy giáo, sự khéo léo đối
xử sư phạm được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Đó là:
* Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ một tác động sư phạm nào
( khuyến khích, trách phạt hay ra lệnh...), những tác động này quá lời,quá mức
co thể dẩn đến “phản sư phạm”

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

24

Lớp: K50A – SP Tiểu học


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Linh

* Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những
biện pháp thích hợp.
* Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất
ngờ, khơng nóng vội, khơng thơ bạo.
* Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết một cách mau lẹ
những vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục.
* Ngoài ra, chúng ta thường thấy những người thầy giáo khéo léo đối xử

sư phạm thường quan tâm chu đáo đến trẻ, có tính đến một cách đầy đủ những
đặc điểm tâm lý của cá nhân học sinh, thường quang minh chính đại.
Tóm lại, tài ứng xử sư phạm khơng gì khác hơn là một bộ phận của nghệ
thuật sư phạm. Cho nên, cơ sở hình thành nên nó cũng là do lương tâm nghề
nghiệp, niềm tin yêu và lòng tơn trọng người mà mình dạy dỗ, tinh thơng nghề
nghiệp.
5.3. Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
Người thầy giáo vừa là người tổ chức lao động cho cá nhân và tập thể học
sinh trong những điều kiện sư phạm khác nhau, vừa là hạt nhân để gắn học sinh
thành một tập thể, vừa là người tuyên truyền và liên kết, phối hợp các lực lượng
giáo dục. Vì thế, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là tất yếu cần có trong
năng lực của người thầy giáo.
a. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm của người thầy giáo được thể
hiện, trước hết ở chổ tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác
nhau của công tác dạy học và giáo dục ở trên lớp cũng như ngồi trường, trong
nội khóa cũng như ngoại khóa, cho từng học sinh cũng như tập thể của chúng.
b. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm còn thể hiện ở chỗ biết đoàn kết
học sinh thành một thể thống nhất, lành mạnh,có kỷ luật, có nề nếp đảm bảo cho
mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi, tạo ra trong tập thể học sinh “
một thầy giáo thường trực” ( thầy giáo thứ hai).
c. Người thầy giáo có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm khơng những
biết tổ chức và đồn kết học sinh, mà còn biết tổ chức và vận động nhân dân,
cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một
mục tiêu xác định.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Sen

25

Lớp: K50A – SP Tiểu học



×