A. Lý do chọn đề tài
Th gii tõm lý ca con người vơ cùng kì diệu và phong phú, được lồi người
quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại. Từ những tư
tưởng đầu tiên, sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình thành, phát triển
khơng ngừng và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con
người. Đây là mơn khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vấn đề nhân cách của sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm lý
học và cũng là "mắt lưới" của cả hệ thống khoa học về con người vừa có ý nghĩa lý
luận vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác tâm lý học đã góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề bản chất tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các
con đường hình thành nhân cách...
Với sự phát triển cđa khoa học kỹ thuật và cơng nghệ đã tạo ra một bước nhảy
vọt đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghệ thông tin và phát triển tri thức. Điều đó làm
cho kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng phong phú và đa dạng hơn rất nhiều.
Khoa học công nghệ đã trở thành động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên con người vẫn giữ một vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển xã
hội. Con người là nguồn lực cơ bản tạo ra mọi nguồn lực khác, với tư cách là chủ thể
của mọi sáng tạo con người đã sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Để làm
được điều đó con người phải khơng ngừng học hỏi, nâng cao trí tuệ, phẩm chất và
phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp là xây dựng xã hội chủ nghĩa- một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Mỗi con người, mỗi ngành nghề đều đóng góp những vai trị to lớn thiết thực
đến sự đổi mới của đất nước. Và ta không thể không kể đến ngành giáo dục với đội
ngũ giáo viên đông đảo. Họ là con người trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực cho đất
nước, là một nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra những thứ phẩm, phế
phẩm như một số nghề khác. Có người đã từng nói: " Làm hỏng một đồ vàng ta có thể
nấu lại, làm hỏng một viên ngọc quý ta có thể bỏ đi nhưng làm hỏng con người là một
tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc được".
Muốn cho dân tộc phát triển với nền dân trí cao, có nhiều người tài giỏi thì địi
hỏi dân tộc đó phải có một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh và đạt tiêu chuẩn. Như một
nhà chính trị gia từng nói: "Muốn chấn hưng dân tộc thì trước hết phải chấn hưng dân
trí". Giáo dục càng giữ vị trí quan trọng như thế nào thì những người thầy giáo có vị trí
1
quan trọng như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Khơng có người thầy giáo thì
khơng có giáo dục". Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng
giáo dục. Cũng như đảm bảo vai trị nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài.
. Luật giáo dục 2005 đã khẳng định: "nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục".Đảng ta khẳng định "Giáo viên là nhân tố quyết định
chất lượng của giáo dục và đươc xã hội tơn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, tài". thống
đạo đức nghề nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức người thầy: Hiện tượng Thực tế,
trong nhiều năm qua, dù khó khăn nhưng giá trị đạo đức cao đẹp: Lòng yêu nghề; việc
đề cao "Đạo lý làm người" lấy "Dạy người", "Dạy nghề" làm lẽ sống; coi trọng danh
dự, xác lập vị trí của mình bằng tài năng, đức độ; vì thế hệ trẻ mà "Hành nghề" vẫn
được giáo viên dạy nghề gìn giữ và phát huy. Đối diện với thực tế hiện nay, đạo đức
giáo viên dạy nghề phải vượt qua được rào cản và một số biểu hiện lệch lạc, bất cập,
làm suy giảm truyền đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội
khác... dường như ngày càng lấn át phẩm giá con người, trong đó có người thầy giáo,
tác động xấu đến t×nh cảm, nguyện vọng của những người dạy nghề...Để giáo viên
dạy nghề giữ được truyền thống Nhà giáo Việt Nam coi nghề dạy nghề là nghề kiếm
sống đặc biệt, giáo viên dạy nghề là tấm gương trực tiếp giáo dục học sinh, sinh viên
học nghề. Cần phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh". Cụ thể là:
Đối với giáo viên dạy nghề, luôn phải thể hiện sự cần cù, chịu khó, tận dụng tối
đa thời gian để học tập, rèn luyện; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức của nhà giáo. Coi trọng bồi dưỡng ý trí, khát vọng và trí hướng vươn lên hồn
thiện năng lực sư phạm, kiến thức, kỹ năng nghề,biết tự kiềm chế, tự học để có hiểu
biết sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ, khai thác và sử dụng triệt để có hiệu quả thiết
bị dạy nghề để truyền kiến thức, kỹ năng, trí lực, thái độ nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên học nghề. Xây dựng cho đội ngũ giáo viên dạy nghề niềm tin, lòng nhân ái,
vị tha, luôn tôn trọng và yêu mến con người, say xưa với sự nghiệp dạy nghề, có tình
cảm dân tộc sâu sắc và lòng tự trọng cao. Yêu thương, quý mến học sinh học nghề,
phải luôn gắn liền, kết hợp nhuần nhuyễn với sự khiêm tốn, giản dị trong sinh hoạt;
sống lạc quan, giàu hoài bão, trung thực, thẳng thắn ...
Như vậy nhân cách người giáo viên là một trong những vấn đề lớn của xã hội
ngày nay. Nó ảnh hưởng tới sự phát riển của đất nước.
2
Là sinh viên thuộc phân ngành sư phạm sẽ là giáo viên tương lai.Nắm bắt được
tầm quan trọng của nhân cách người thầy giáo đặc biệt là nhân cách người thầy trong
xã hội hiện nay tôi đã lựa chọn đề tài này. Nó sẻ là hành trang cho tơi đi suốt cuộc
đời.Tuy đã cố gắng tìm hiểu để thực hiện đề tài này song kiến thức chỉ là sinh viên
đang theo học dưới sự dìu dắt của thầy cơ.Nên đề tài cịn có nhiều thiếu kém và sai sót.
Kính mong giảng viên hướng dẫn và những người đọc góp thêm ý kiến để đề tài được
tốt hơn.
3
B. Nội dung
I. Một số khái niệm liên quan tới ®Ị tµi
1.1. Nhân cách là gì?
Con người là thực thể của tự nhiên, cá nhân chỉ là một người trong xã hội cộng
đồng. Khái niệm nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lý cái nhân với tư cách thành
viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người - người la hoạt động
có ý thức và giao lưu.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu
hiện bản chất và giá trị xã hội của con người.
Như vậy nhân cách là sự tổng hồ khơng phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội,
nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Những thuộc tính tâm lý tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ:
Cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân, và cấp độ biểu hiện ra bằng hoạt động
và các sản phẩm.
Nhưng nhân cách của người giảng viên là gì? Nó gồm những gì? Nói đến nhân
cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh
thần của mỗi người. Như vậy có thể hiểu rằng nhân cách là một hệ thống bao gồm
phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Trong phẩm chất của người thầy giáo, trước hết phải
có năng lực chun mơn. Điều này được hình thành dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau
mà trước hết là trình độ học vấn của người thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung
giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế đất nước như lịch sử, địa lý, kinh tế, khoa
học kỹ thuật. Thế giới quan của giảng viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái
độ đối với hoạt động của giảng viên như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng
dạy, kết hợp giữ nội dung học tập và thực tiễn cuộc sống cũng như phương pháp xử lý
và đánh giá họat động, biểu hiện tâm lý của sinh viên. Yếu tố thứ hai đóng vai trị hạt
nhân trong cấu trúc phẩm chất người thầy giáo là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Lý tưởng
của giảng viên có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách sinh viên và nó
biểu hiện bằng lịng say mê nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy với sinh
viên, với công việc, tác phong làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm và lối sống giản dị,
chân tình. Những điều này sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp trong tâm trí người sinh viên; chúng
có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh
4
viên. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ không phải là cái có sẵn mà người giảng viên phải
rèn luyện tích cực mới có được rồi qua đó, nhận thức của người thầy về nghề nghiệp
càng được nâng cao lên, tình cảm nghề nghiệp càng tăng lên. Yếu tố thứ ba của phẩm
chất giảng viên là lòng yêu sinh viên - đó là sự u thương, tận tình và ân cần với học
trị. Tơi nghĩ đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu
sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt
động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vơ
cùng quan trọng. Người giảng viên sẽ khơng có thái độ phân biệt trong cách đối xử
giữa học trị thơng minh và học trị chậm hiểu mà quan tâm một cách thiện ý đến học
trị, tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là người thầy thiếu nghiêm khắc, không tạo
động lực cho sinh viên phấn đấu học tập. Lịng u học trị ln đan lồng và gắn bó
chặt chẽ với lịng u nghề. Có thể nói, nhà giáo chỉ u nghề khi cịn biết u thương
những người học trị của mình, bởi từ tình yêu thương lớn lao dành cho học trò, cho
nghề nghiệp, người giảng viên mới có động lực để ln phấn đấu, rèn luyện. Bàn đến
nét phẩm chất này, chúng ta có thể nói rằng: "Để đạt được thành tích trong cơng tác,
người thầy giáo phải có một phẩm chất - đó là tình u. Người thầy giáo có tình u
trong công việc là đủ cho họ trở thành giảng viên tốt". Bàn đến lịng u học trị, u
nghề thì khơng thể khơng nói đến mối quan hệ thầy trị. Nó đóng một vai trị quan
trọng trong cơng việc giáo dục sinh viên của thầy giáo. Nội dung, tính chất và các xử
lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học. Một sinh viên không
thể nào tơn trọng, khâm phục hay học hỏi được gì tốt đẹp khi người thầy của sinh viên
đó có những biểu hiện không đứng đắn về mặt nhân cách hay yếu kém về mặt chuyên
môn. Người thầy như một tấm gương để sinh viên soi vào đó, khám phá những điều
mình chưa biết và phấn đấu hồn thiện bàn thân mình. Để có thể là tấm gương sáng
cho sinh viên, người thầy giáo phải tích cực rèn luyện chun mơn, phải sống đúng
mực, chân tình, cơng bằng, khiêm tốn, phải biết tự chiến thắng với những thói hư tật
xấu của bản thân và có những kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp
với các tình huống sư phạm.
1.2.Tầm ảnh hưởng của nhân cách đến việc dạy và đến học sinh
Vấn đề người thầy giáo trong thời đại ngày nay không phải ai cũng chú ý tới
các nhà quản quan tâm rất nhiều tới việc nâng cao chất lượng giáo dục bằng sự đổi
mới mơ hình, phương án trong nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp
5
dạy mà chưa chú ý nhiều đến vấn đề qua trọng nhất là cần phải quan tâm đến vấn đề
nhân cách của người giáo viên hiện nay
Nhà trường là nơi giáo dục toàn diện cho học sinh. Người thầy giáo có vai trị
quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cũng như định hướng, bồi dưỡng và hình
thành nhân cách cho các em.
Vì thế, cách ứng xử của giáo viên đối với mỗi hành vi của học sinh là điều
không th xem thng.
Vi dụ: Khi tôi học lên lớp 9 trong lớp tôi ang học có một bạn
là học sinh cá biệt các năm trớc các thầy cô chủ nhiệm tôi đều
phải bó tay và mun chuyển bn sang lớp khác bởi bạn là học
sinh cá biệt của trờng.Đón chào năm học mới năm nay lớp tôi lại
có giáo viên chủ nhiệm mới. Khác với các giáo viên khác cô rất
ân cần và thơng học sinh bày vẻ cho học sinh từ lời ăn tiếng
nói cách sống cách học tp để đạt kết quả cao.Trong buổi
bầu ban cán bộ lớp cô nói cô nghĩ rằng không ai không có
khuyết điểm và không ai không có mt tốt,điều quan trọng
là phải phát huy mặt tốt có lợi vì vậy cô sẽ cho nhng bạn cha
thể hiện mt tốt ca mình làm cán bộ lớp. Bn Hà(một học
sinh cá biệt) đợc cô giao cho làm lớp phó di sự dìu dăt của
lớp trởng cũ.Bởi sự tin tởng và tình thơng trẻ. Từ đó tới bây
giờ Hà luôn là học sinh ngoan,sinh viên u tú. Và lớp học mà cô
chủ nhiệm ngy ấy sẽ ha với cô luôn trao dồi đạo c và trí
tuệ để trở thành nhng ngời có ích cho xà hôị.
Tôi đà tng đợc nghe một câu nói: Dễ khi nhËn nhng
khã khi cho. DƠ lµ khi nghÜ xÊu về ngi khác khó là khi tặng
họ một nim tin.Dễ là khi dập tt ớc mơ ca ngời khác và khó
là khi gợi cho ngòi khác một mong muốn thiết tha.Vậy tại sao
không lm một điều khó mà hiệu quả thËt tèt nh gỵi cho
mong mn thiÕt tha cho ngêi ở một con ngời
Đó chỉ là một mẫu chuyên nhỏ trong vô van câu chuyn
vit về ảnh hng ca giáo viªn tíi häc sinh.
II. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO TRONG THỜI ĐẠI
MỚI.
6
Dân tộc ta có nền văn hiến lâu đời, với truyền thống "Tôn sư trọng đạo". Thời
phong kiến thường mỗi xã hội được xác lập bởi quan hệ "Quân – Sư – Phụ". "Quân –
Sư – Phụ" thể hiện vị trí, vai trị của người thầy giáo cịn quan trọng hơn cả cha, chỉ
đứng sau vua.
Thật vậy, đã bao đời, nhân dân ta truyền tụng câu tục ngữ:
"Không thầy đố mày làm nên"
"Nhất tự vi sư bán tự vi sư"
và lời nhắc nhở:
"Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy".
Lịch sử từ xưa đến nay lúc nào cũng có biết bao tấm gương về những người
thầy cao quý, có tài, có đức, các bậc thầy đáng kính đó đã đào tạo nên biết bao thế hệ
học trò đầy tài năng, làm nên một đất nước văn hiến. Rõ ràng, từ xưa đến nay, nhân
dân ta luôn tôn vinh người thầy giáo và quý trọng nghề dạy học. Vì thế, khơng phải
khơng có lý, nhà trường xưa kia quy đinh học trò phải xưng "con" với thầy. Nghĩa vụ
của người học trò đối với thầy là phải giống như đối với cha mẹ. Tình cảm thầy trị là
tình cảm thuỷ chung, như nhất.
Trước kia, trong một ngơi làng, người thầy là người có học vấn cao nhất. Trật tự
đó ít khi thay đổi nên bản thân người thầy khơng có nhu cầu tự đổi mới, kiến thức của
ông thầy truyền dạy không cần phải xem xét, truy nguyên hay đặt hỏi cách nghĩ phản
biện. Những định ngữ mặc nhiên còn giai tăng hơn nữa cách hiểu này như "nhất tự vi
sư, bán tự vi sư", người xưa có bao giờ sai, xưa bàn nay làm, tứ thập nhi bất hoặc...
Đã hơn 40 mười tuỏi là không còn sai lầm, huống chi thầy.
Ngày nay, chúng ta mở rộng quan niệm về tình thầy trị phải có tình bạn bè hiểu
theo ý nghĩa đúng đắn của khái niệm này. Giàu trí tuệ và đạo đức người thầy (cơ giáo
và thầy giáo) là bậc đáng kính trọng, nhưng khơng phải như ngày xưa là "Kính nhi
viễn chi" (kính trọng, nhưng chỉ dám đứng xa ).
Quan hệ thầy trò là quan hệ giữa hai con người, hai nhân cách, hai thành viên
trong cộng đồng, cùng mục đích và lẽ sống. Bởi vậy đứng ở góc độ con người và nghĩa
vụ cơng dân, thì thầy và trị là bình đẳng. Trong quan hệ thầy trị ngày nay phải có tính
dân chủ.
Mặt khác đứng ở góc độ nhà trường, ở kỷ cương trường học, thì thầy phải là
thầy, trị phải là trị. Hiểu bình đẳng vào dân chủ - với tư cách công dân – trong quan
7
hệ thầy trị, khơng phải sự ruồng rã "Cá đối bàng đầu" "Cá mè một lứa". Cách xưng hô
"Em’’ với thầy cô khi thầy cô đáng tuổi cha mẹ, thậm chí đáng tuổi ơng, bà mình, có lẽ
có điều bất ổn.
Để quan hệ thầy trò đạt được chuẩn mực đạo đức cần có nhiều điều kiện. Có
điều kiện ở chính chủ quan người thầy và học trị: có điều kiện khách quan do nhà
nước và xã hội tạo nên.
Về mặt chủ quan, phẩm chất người thầy được biểu hiện ở hai mặt: tri thức khoa
học chuyên sâu và tư cách, đạo đức cao đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy "Giáo viên
phải chú ý cả tài và đức – Tài là văn hố, chun mơn, đức là chính trị. Muốn cho học
sinh có đức, thì giáo viên phải có đức... Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu,
nhất là đối với trẻ em.
Bên cạnh đó chỉ lối sống thực dụng của một phần lớn dân cư – lối sống chạy
theo đồng tiền bằng bất cứ cách nào. Cùng với việc không coi trọng chất xám, sự xâm
hạn đến nhân cách và cả tính mạng của một số giáo viên, do kẻ xấu bất chấp đạo lý
pháp luật gây ra,... Tất cả những cái đó, làm cho uy tín xã hội của người thầy bị xúc
phạm, bị giảm sút nghiêm trọng.
Bác Hồ dạy "Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo tốt là
những anh hùng vô danh". Nhân dân ta luôn tôn vinh người thầy giáo đòng thời cũng
đòi hỏi rất cao về phẩm chất người thầy.
Chúng ta hẳn có người đã đọc câu thơ.
"Ngày mai trái đất vắng thầy
Trái tim người ngơ ngác giữa bầy về đâu
Đò ơi! Ai chở qua cầu
Cho em hiểu nối cạn sâu lòng người
Hướng dương mọc chốn xa vời
Ai cầm tay dắt lên trời tìm sao".
Bài thơ đã phần nào nói lên vai trị vơ cùng quan trọng của người thầy trong đời
sống xã hội. Tôn sư trọng đạo là một nét son văn hố chói ngời trong dịng chảy văn
hoá dân tộc Việt Nam, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, người thầy vẫn giữ một
vị trí quan trọng trong tâm thức bao triệu con người.
Người thầy trong xã hội hiện đại rất cởi mở và gần gũi. Không những là người
truyền đạt kiến thức từ sách vở, người thầy đóng vai trị là người đi trước, truyền đạt
kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm sống và cả kinh nghiệm ứng xử cho học trò của
8
mình. Người thầy của thời đại mới khơng nhồi nhét mớ kiến thức khơ cứng từ sách vở
vào học trị như cái thời người học phải ê a "Tứ thư ngũ kinh" người thầy hôm nay là
người thầy mở đường để học trò tự thân vận động nhiều hơn. Thầy sẽ là người gieo
hạt, nhưng hạt muốn vươn thành cây thì phải dựa vào chính mình. Điều đó khơng có
nghĩa là thầy khơng thương học trị của mình. Vì thầy muốn học trị phải đi trên chính
đơi chân của mình, biến kiến thức mình góp nhặt được thành tri thức của bản thân : và
khi đứng trên chính đơi chân của mình thì người học sẽ biết cách tự đứng dậy, sau
những lần vấp ngã, tự tin và bản lĩnh hơn khi đối mặt với khó khăn, thử thách.
Nói như vậy để thấy rằng người thầy trong xã hội nào cũng đóng vai trị rất
quan trọng, và cũng được sự đón nhận trân trọng của xã hội. Và vì thế tôi càng biết ơn
sâu sắc những người thầy, người cô của mình, những người đã đặt vào hành trang của
tơi chiếc chìa khố và đào tạo tơi có đủ bản lĩnh, niềm tin và nghị lực để mở cánh cửa
vào đời.
III. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
Trong xã hội nghề dạy học đươc hình thành sớm nhất. Nó ra đời khi nền sản
xuất phát triển đến một trình độ nhất định, trong quá trình lao động, sản xuất người ta
phải truyền lại cho nhau những kinh nghiệm chiến đấu với thiên nhiên có kết quả để
tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mới đầu ở mức thấp người ta cso thể truyền đạt một
cách trực tiếp thành quả lao động của tập thể, người này theo kinh nghiệm của người
khác. Nhưng khi kinh nghiệm đã phong phú theo kinh nghiệm của sản xuất thì sự
truyền đạt đòi hỏi đến sự truyền đạt của người trung gian. Đó là thầy giáo. Như vậy
nghề dạy học gắn chặt với lao động sản xuất của xã hội, góp phần hình thành phẩm
chất năng lực cần thiết cho người lao động
Con người là lực lượng sản xuất chủ yếu, nên nghề dạy học người giáo viên có
quan hệ chặt chẽ đến việc xây dựng lực lượng lao động cho xã hội, đến việc tăng năng
suất lao động, xã hội hôm nay nối tiếp xã hội hôm qua, không phải chỉ có thừa hưởng
kinh nghiệm sản xuất vật chất để đưa xã hội tiến lên, mà còn thừa hưởng những giá trị
tinh thần, văn hố xã hội, nó củng cố và phát triển hoặc phá bỏ hệ tư tưởng thống trị cũ
của xã hội đã lỗi thời. Vì vậy người giáo viên muốn hay không muốn đều phải tham
gia vào vận mệnh tương lai của dân tộc. Việc làm đúng hay khơng đúng của người
giáo viên sẽ góp phần tiến lên hay cản trở sự phát triển của xã hội.
Lao động ccủa người giáo viên là sản phẩm loại hình đặc biệt có những đặc
điểm cơ bản sau :
9
3.1 Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đanglớn lên
với nhân cách của nó. Đối tượng này khơng phải là vật vơ tri vô giác như tấm vải của
người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc…Mà là
những con người đang trong thời kỳ chuẩn bị, đang ở tuổi bình minh của cuộc đời đó
là học sinh với tất cả những phức tạp của lứa tuổi, của những con người đang lớn,đang
trưởng thành, đó là những đối tượng hết sức sinh động và rất nhạy cảm với những hoạt
động của mơi trường bên ngồi theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Xã hội
tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tuỳ thuộc vào nội dung và chất lượng của
thời kỳ chuẩn bị này. Thực chất nội dung và chất lượng của thời kỳ chuẩn bị này là
hình thành những phẩm chất và năng lực của con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã
hội đang phát triển. Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh
hội, thơng trải những kinh nghiệm, tinh hoa mà lồi người tích luỹ được và biến chúng
thành những nét nhân cách của chính mình. Hiệu quả, chất lượng của q trình này
phụ thuộc vào nhân cách đội ngũ nhà giáo, không một ai trong xã hội, khơng một loại
máy móc hiện đại nào trong kỹ thuật có thể thay thế được chức năng của thầy giáo.
Chính vì thế, có nhiều ý kiến đã cho rằng nghề thầy giáo là nghề có ý nghĩa chính trị,
kinh tế to lớn.
3.2. Nghề mà nhân cách của người giáo viên ảnh hưởng trực tiếp tới phẩm
chất nhân cách của học sinh:
" Để tạo ra nhân cách người học thì trước hết người thầy giáo phải biết thuyết
phục học sinh bằng nhân cách của mình...", đó là nhận xét của ông Nguyễn Tùng
Liêm, hiệu trưởng trường phổ thơng trung học dân lập Đinh Tiên Hồng( Hà Nội) tại
cuộc bàn tròn về" Đạo đức nhà giáo, chuẩn nghề nghiệp giáo viên và Cán bộ quản lý
có cơ sở giáo dục trong việc xây dựng Luật nhà giáo " của bộ Giáo dục và Đào
tạo.Nghĩa là trong quá trình giáo dục và dạy học, người thấy dùng nhân cách của mình
để tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo
thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề
nghiệp, là lối sống, cách xử sự và kỹ thuật giao tiếp của người thầy giáo... Sản phẩm
lao động của người giáo viên không chỉ dừng lại ở quá trình truyền thụ kiến thức mà
lớn hơn là xây dựng nhân cách con người. Để tạo dựng nhân cách, giáo viên cần quan
tâm, sâu sát học sinh, hiểu xuất phát điểm về nhận thức, hồn cảnh, cá tính của từng
em để điều chỉnh phương pháp day cho phù hợp. Nói đơn giản, người thầy giáo không
10
chỉ dạy chữ, mà còn dạy người. Hay như UNESCO: người dạy phải tạo cho học sinh
thấy rõ việc học ở trường là" để biết, để làm, để cùng chung sống, để làm người". Và
để tạo dựng nhân cách học sinh, người thầy giáo phải có nhân cách, phải là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo. Như vậy, công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là người
giáo viên với tồn bộ nhân cách của mình. Nhân cách càng tinh xảo, càng hồn hảo thì
sư phạm càng hồn thiện. Từ đó chúng ta có thể thấy rõ hơn, nếu người giáo viên thiếu
nhân cách thì khơng thể giáo dục nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy nghề thầy giáo
ln địi hỏi những u cầu về phẩm chất và năng lực rất cao. Tính nghề nghiệp là một
địi hỏi, đồng thời cũng tạo ra điềukiện để cho người giáo viên tự rèn luyện mình, Thế
nên việc xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo là một yêu cầu tất yếu khách
quan của xã hội, như Mac nói: " Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục".
3.3. Giáo viên đã tạo cho xã hội một nguồn nhân lực về tri thức
Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái sản xuất của cải
vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra mọi cảu cải thì đều cần đến sức lao động. Sức
lao động chính là tồn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người, trong
nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có để sản xuất ra sản phẩm có ích cho xã
hội. Chính vì vậy, chức năng của giáo dục chính là xây dựng, bồi dưỡng, phát huy sức
mạnh đó ở trong con người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra sức mạnh đó.
Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường,
là tình thương đồng bào, đồng loại, là đức tính cần cù, sáng tạo, là tri thức và năng lực
để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, là lòng yêu lao động, lao động có tổ chức,
có kĩ thuật và năng lực cao. Giáo dục là nơi khơi dậy, vun đắp, bồi dưỡng và chắp cánh
cho những sức mạnh của con người. Người thầy giáo mang tri thức, tình yêu, niềm
đam mê... của mình để đưa thế hệ trẻ đến với thế giới tri thức, thế giới của khoa học,
công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, khi mọi mặt xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến làm
thay đổi vị trí của người lao động. Nếu như trước đây người lao động dùng năng lượng
cơ bắp gia công tạo ra sản phẩm cho xã hội thì ngày nay vị trí đó dần thay thế bằng
máy móc và như vậy người lao động từ vị trí là gia cơng nay ở vị trí người chỉ huy gia
cơng. Cơng việc chính của họ là dùng "năng lượng thần kinh" để" bấm nút", để lập
chương trình cho máy móc gia cơng tạo ra sản phẩm xã hội. Nói cách khác họ lao
động chủ yếu bằng sức mạng tinh thần, sức mạnh trí tuệ. Chính nhà trường, người thầy
giáo là người tạo ra sức mạnh đó theo phương thức sản xuất mở rộng.
11
3.4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật, và tính sáng tạo cao.
Nhà sư phạm người Đức Deiterweg đã từng nói:" Người thầy giáo tồi là người
mang chân lí đến sẵn, người thầy giáo giỏi là người biết đưa học sinh đi tìm chân lý".
Để thực hiện được cơng việc theo tinh thần đó địi hỏi ở người giáo viên năng lực cao.
Với đặc thù nghề nghiệp giáo dục là mang tri thức khoa học đến với thế hệ trẻ, là hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh yêu cầu người giáo viên phỉa dựa trên nền
tảng khoa học giáo dục, có kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình huống cụ thể thích
ứng với từng cá nhân sinh động.
Giáo dục hiện đại nhằm hình thành nên những con người mới với đầy đủ: đức,
trí, thể, mỹ, lao động. Để thực hiện được mục tiêu đó, người thầy giáo không đơn
thuần chỉ là giáo viên giảng dạy mà còn là người nghệ sỹ trên bục giảng, người" truyền
lửa" cho học sinh. Tính nghệ thuật của việc dạy học thể hiện ở năng lực truyền đạt của
người giáo viên làm sao khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển và sáng tạo của
người học để nhận thức, cảm nhận và có kỹ năng cao. Người giáo viên nào nắm vững
tính khoa học và nghệ thuật của việc dạy học sẽ dạy cho học sinh có được những bậc
nhận thức, cảm nhận, kỹ năng cao. Muốn hấp dẫn học sinh thì trước hết phải hấp dẫn
chính mình, người thầy giáo hướng dẫn học sinh tìm kiếm tri thức phải như là người
nghệ sĩ trên bục giảng để" truyền lửa" nhiệt tình cho học sinh. Trong quá trình đó địi
hỏi người thầy giáo phải khơng ngừng sáng tạo, ln làm mới mình và mỗi tri thức
đến với học sinh là một kho báu đầy màu sắc của khoa học, của tình yêu, tâm huyết...
của người giáo viên.
3.5. Lao động của nghề dạy học địi hỏi phải có vốn kiến thức phong phú và
cốt cách tâm hồn trong sáng.
Nghề dạy học được xem là một loại lao động trí óc vì nó vận dụng trí tuệ, tinh
thần. Thật ra, công tác đứng lớp là một loại lao động bao gồm cả hai mặt tinh thần và
thể xác. Dù dạy ở cấp bậc nào, người thầy giáo đều phải lên lớp diễn giảng và soạn
giáo án, chấm bài hay nghiên cứu đề tài lúc ở nhà. Khi soạn bài, chấm bài, người dạy
phải dành một số thời gian thích đáng cho công việc, đồng thời phải động não, phải
huy động vốn học, vốn văn hoá và nghiệp vụ. Và tuỳ theo đối tượng của cấp học, thầy
giáo phải dựa vào vốn sống, trí tuệ và tình cảm của mình để truyền đạt cho học sinh
những kiến thức, kĩ năng đã quy định trong đề tài. Ví dụ, ở bậc tiểu học và trung học,
học sinh có thể tiếp thu sự hiểu biết và từng bước phát triển nhân cách, năng lực thông
qua sự hướng dẫn đã được giáo viên chuẩn bị chu đáo và triển khai tại lớp một cách
12
sáng tạo. Ngoài những hoạt động trên lớp nhiều hoạt động khác của người thầy giáo
mang tính chất là lao động trí óc chun biệt. Đây vừa là điểm đặc trưng, vừa là yêu
cầu cấp thiết trong lao động của người thầy giáo, đòi hỏi cao ở người giáo viên những
năng lực sư phạm cao..
IV. PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
4.1. Thế giới quan khoa học
Thế giới là hệ thống những quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xách
định phương châm hành động của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan
duy vật biện chứng mang tính khoa học và tính nhất quán cao.
Trong phẩm chất nhân cách của người thầy giáo trước hết phải có thế giới quan
khoa học. Đó là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó khơng những
quyết định niềm tin chính rị, mà cịn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng
của người thầy giáo đối với học sinh.
Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái
độ với các mặt hoạt động đó, như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy,
việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với
với thực tiễn cuộc sống, cũng như phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý
học sinh.
Tóm lại thế giới quan Mác- Lênin là kim chỉ nam cho người thầy giáo đi tiên
phong trong đội ngũ những người xây dựng XHCN, xây dựng niềm tin cho thế hệ
đang lớn lên và chống mọi biểu hiện của tư tưởng xa lạ.
Chính vì có vai trò quan trọng như vậy, nên người thầy giáo phải tích cực bồi
dưỡng cho mình có một thế giới quan đúng đắn và khoa học.
4.2 Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ lầ hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người thầy
giáo. Lý tưởng là "ngôi sao dẫn đường" giúp cho thầy giáo ln ln đi lên phía trước
thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khách, lý tưởng của
người thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của học sinh.
Nó được biểu hiện ra ngoài bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương
tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh đối với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách
nhiệm, lối sống giản dị và chân tình. Những điều đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp người
thầy giáo vượt qua mọi khó khăn về vật chất và tinh thần để hồn thành nhiệm vụ địa
tạo thế hệ trẻ xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời để lại những dấu ấn đậm nét
13
trong tâm trí học sinh, có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ.
Tuy nhiên lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ khơng phải cái gì có sẵn, cũng khơng
phải cái gì có thể truyền từ người này sang người khác bằng cách áp đặt. Trái lại sự
hình thành và phát triển là một q trình hoạt động tích cực trong cơng tác giáo dục.
Vì tác dụng to lớn của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong nhân cách người thầy
giáo, cho nên mọi việc làm trong trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề
nghiệp cho giáo sinh.
4.3 Lòng yêu trẻ
Lòng yêu thương con người và trước hết là lòng yêu trẻ là một trong những
phẩm chất đọa dức cao quý của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong nhân
cách người thầy giáo. Lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sấc bao nhiêu thì càng làm
được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu.
Lòng yêu trẻ được thể hiện:
- Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc
đáo của trẻ.
- Khi giao tiếp ở trên lớp và cả ngoài đời, người thầy phải luôn đặt sự tôn trọng
nhân cách của học trị lên hàng đầu. Ln ln thể hiện thái độ quan tâm đầy thiện ý
và ân cần đối với học sinh. Trước những sai sót ( thậm chí sai lầm tệ hại ) của học trị,
khơng bao giờ được dùng lời lẽ xúc phạm hay thái độ khinh rẽ. Trái lại ln lấy những
gương sáng của học trị ngoan để thuyết phục học trò chưa ngoan, cũng thầm lặng lấy
nhân cách của mình để cảm hóa học trị. Những bậc thầy phải ln quan niệm " khơng
có học trị kém, chỉ có người thầy dở".
- Thể hiện tinh thần giúp đỡ học sinh bằng ý kiến hoặc hành động thực tế của
mình một cách chân thành và giản dị. khơng được có thái độ phân biệt đối xử giữa các
học sinh.
Tóm lại, có thể nói rằng bí quyết thành cơng của người thầy giáo xuất sắc là bắt
nguồn từ một thứ tình cảm vơ cùng sâu sắc - đó là tình u trẻ.
4.4 Lịng u nghề ( u lao động sư phạm)
Lịng u trẻ và u nghề ln gắn bó chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau trong
nhân cách người thầy giáo. Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu, có
yêu mới có cơ sở để yêu nghề.
Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo
thế hệ trẻ của mình. Trong công tác giảng dạy và giáo dục, học luôn luôn làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, khơng tự thõa mãn
với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp
14
với học sinh. Và chỉ khi đó họ mới có thể thực hiện được chức năng " người kỹ sư tâm
hồn" một cách xứng.
4.5 Một số phẩm chất đạo đức ( nét tính cách ) và phẩm chất ý chí của người
thầy giáo.
Khác với các hoạt động khác, hoạt động của người thầy giáo nhằm làm thay đổi
con người (học sinh). Do vậy mối quan hệ thầy trò nổi lên như một vấn đề quan trọng
nhất.
Những năm qua, chúng ta đã xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục đều làm việc tận tụy, tâm huyết với nghề, có phẩm chất chính trị, đạo đức và lối
sống tốt. Tuy đời sống cịn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn song đội ngũ giáo viên
trong cả nước vẫn ngày đêm miệt mài trên bục giảng, bám lớp bám trường, sẵn sàng hi
sinh quyền lợi bản thân để cống hiến hết mình cho sự nghiệp giảng dạy.
Đã có hàng trăm, hàng ngàn giáo viên chấp nhận xa gia đình, bạn bè…lên miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo dạy học. Đã có biết bao người thầy khơng
màng danh lợi, sống đạm bạc, suốt đời vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Khơng ít thầy
cơ đã chia sẻ phần thu nhận ít ỏi của mình ni học sinh nghèo học giỏi. chính những
hoạt động tưởng như bình thường ấy đã góp phần đem lại cho giáo dục nước nhà
những bước tiến đáng mừng.
Nhờ có những người thầy nhân cách phẩm chất tốt đã thiết kế ra những bài học
hay, những kinh nghiệm, tri thức, giúp học sinh chủ động trong học tập cũng như tích
cực trong hoạt dộng để nâng cao chất lượng dạy - học.
Hơn nữa, người thầy giáo giáo dục học sinh không những bằng hành động trực
tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương, thái độ và hành động của chính bản thân mình.
Để làm điều đó, thầy giáo phải có những phẩm chất ý chí cần thiết như: tinh
thần nghĩa vụ, tinh thần " mình vì mọi người, mọi người vì mình" , thái độ nhân đạo,
lịng tơn trọng, thái độ cơng bằng, chính trực, tính tình ngay thẳng, giản dị và khiêm
tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm chế, biết tự chiến
thắng với những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp
với các tình huống sư phạm.
Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự công bằng theo quan điểm sư
phạm trong mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trị.Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để
làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo thành hiện thực và tác động
sâu sắc đến học sinh.
15
V. Thực trạng nền giáo dục và nâng cao chất lợng giáo
viên.
Ngy nay vi s bin i kinh t - xã hội đã tác động không nhỏ tới đời sống
đạo đức nói chung, đạo đức người thầy giáo nói riêng. Sự tác động hai mặt của kinh tế
thị trường đang làm cho đạo đức xã hội biến đổi theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu
cực. Vì vậy, mỗi người thầu giáo Việt Nam trong điều kiện hiện nay, để tiếp nối được
truyền thống đạo đức cao đẹp của người thầy giáo; để xứng đáng với lịng mong đợi
của tồn xã hội; đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển thì
phải khơng ngừng trau dồi, hoàn thiện bản thân cả đức lẫn tài để đáp ứng được những
đòi hỏi và kỳ vọng của xã hội.
Nhưng gần đây khơng ít những vụ bạo lực học đường đã diễn ra khiến dư luận
phẫn nộ, những vụ đi cửa trước, chạy cửa sau để con cái được điểm cao, vào trường
tốt… cũng làm nhiều người mất đi phần nào niềm tin vào nhân cách nhà giáo. Liệu có
phải người thầy đã tự đánh mất mình và "xuống cấp"?
Vì vậy, mỗi người thầy giáo cần phát huy những phẩm chất cao đẹp của người
thầy giáo trong truyền thống dân tộc. Mỗi người thầy giáo hôm nay cũng luôn phải là
người có lịng u nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà hành động, phấn đấu.
Hành nghề vì sự nghiệp giáo dục chứ khơng phải vì quyền lợi vật chất. Họ cũng luôn
luôn phải là người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác lập vị trí của
mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ chứ không phải bằng quyền lực chính trị,
bằng tiền bạc… Họ phải là những người rất coi trọng tri thức, coi trọng chữ nghĩa, tôn
thờ đạo thánh hiền.
Người thầy ngày nay vừa phải chú trọng tri thức khoa học vừa phải biết kết hợp
với thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc về "sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn",
nói đi đối với làm, học đi đôi với hành. Mỗi ngày thầy không những trang bị cho học
sinh tri thức mà còn phải giúp họ tìm được phương pháp học tập vàl àm việc có hiệu
quả cao.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới, trong
đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang đặt ra
những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ, phát
huy những giá trị cao đẹp của đạo đức người thầy giáo trong truyền thống nói riêng; để
tạo ra một lớp người Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ,
16
đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được
giữ vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trị khơng
nhỏ.
Trong "mơi trường giảng dạy hướng vào người học" tức là có yêu cầu về nhiều
mặt, trong đó có u cầu về phía người dạy, yêu cầu về phía người học, tức là hai nhân
vật chính của hoạt động dạy và hoạt động học phải có sự hợp tác rất nhịp nhàng, rất
tích cực thì mới đạt được kết quả và hiệu quả của việc dạy và học. Có dịp chúng tơi
trình bày hoạt động dạy (bao gồm cả giáo dục) đi liền với một hoạt động có chung lý
tưởng, động cơ, mục đích xa, mục đích gần, có cùng thao tác, hành động, hoạt động
nối tiếp nhau, cả thầy và trò đều là chủ thể của hoạt động này. Phương pháp tiếp cận
nhân văn trở thành phương pháp hoạt động cùng nhau, cùng nhau thơng cảm, cùng
nhau chia sẻ khó khăn, phù hợp với nhau, cùng vui với kết quả, cùng buồn khi chưa
đạt được mục đích đặt ra. Tác phẩm nổi tiếng "giáo dục của cải nội sinh: do J.Đơlơ
chủ biên đã khẳng định: đi vào thế kỷ XXI vấn đề quan hệ thầy trò sẽ nổi lên và một
vấn đề quan trọng hàng đầu trong đời sống nhà trường. Đây chúng là phương hướng
nhân văn hoá giáo dục và giảng dạy, hạt nhân của tư tưởng nhân văn hoá nhà trường:
Nhân cách văn hoá của người dạy tác động lên sự hình thành và phát triển nhân cách
văn hố của người học. Đây là nội dung cất lõi của việc nâng cao chất lượng đội ngụ
giáo viên tong thời đại ngày nay.
- Hãy quan tâm thường xuyên hơn đến tình cảm của người học.
- Thường xuyên tận dụng hơn mục đích của người học trong tác động qua lại
trong giờ học.
- Đối thoại nhiều hơn với người học.
- Khen người học thường xuyên.
- Giao tiếp thích hợp hơn (bớt nghi lễ).
- Thường xuyên gắn nội dung học tập với kinh nghiệm cụ thể của từng người
học (lời giảng nhằm thoả mãn các nhu cầu trực tiếp của người học).
Tăng cường đạo đức và nâng cao tay nghề của giáo viên là như Khung chương
trình hành động đã chỉ ra, để đảm bảo chất lượng giáo dục cho mọi người, cụ thể là
làm sao cho mọi người được tiếp cận với việc học, bảo đảm được môi trường học tập
hướng vào người học, ni dưỡng văn hố học tập trong lớp học, trong nhà trường
cùng gia đình, xã hội, đồn thể quần chúng phải thường xuyên cùng chăm lo đến môi
trường này, làm cho nó thực sự là mơi trường sư phạm thuận lợi cho việc tiến hành
hoạt động sư phạm. Môi trường này là mơi trường văn hố chứa đựng các giá trị vật
thể và phi vật thể của văn hoá cộng đồng (nơi trường đóng), cũng chứa đựng bản sắc
của văn hoá dân tộc, văn hoá văn minh Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại.
17
C. KẾT LUẬN
Nhân cách là tài sản vô cùng quý giá của của con người nói chung và của người
thầy giáo nói riêng. Nhân cách là phương tiện vạn năng mà người giáo viên dùng để
giáo dục trẻ. Hơn nữa, nghề đào tạo con người là một nghề lao động nghiêm túc,
khơng được phép thứ phẩm chứ khơng nói gì đến phế phẩm như một số nghành khác.
Vàng bạc, kim cương đều quý nhưng không thể nào sánh chúng với nhân cách, tâm
hồn của một con người.
Để giáo dục nhân cách cho trẻ người thầy giáo phải có đầy đủ tất cả phẩm chất
và năng lực sư phạm. Ngày nay, với sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác
động không nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung, đạo đức người thầy nói riêng. Thực
tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới, trong đó có đạo
đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra
những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ, phát
huy những giá trị truyền thống cao đẹp của nhà giáo nói riêng. Để tạo ra một lớp người
Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa
nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc văn hoá dân tộc vẫn được giữ
vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giáo giữ vai trị khơng
nhỏ.
Để hồn thành sứ mệnh cao cả của người giáo viên, mỗi người thầy phải khơng
ngừng tự đổi mới, hồn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức quyết
tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác "dạy chữ,
dạy nghề, dạy người". Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không ngừng nêu cao
đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao để mỗi
người thầy khơng những là nhà sư phạm mà cịn là nhà mô phạm. Say mê, bền bỉ, cần
cù, nghiêm túc và sáng tạo trong sư phạm thành công không kiêu căng, thất bại khơng
nản trí. Thương u, gần gũi học sinh, đồn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân,
thực sự là những " tấm gương sáng cho học sinh noi theo".
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh - đó là nguồn
gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị gốc "giá trị sinh
ra mọi giá trị". Những người thầy giáo của hôm nay và mai sau hãy tự hào với truyền
18
thống vẻ vang của nghề mình và cùng chung sức để làm cho truyền thống đó ngày
càng được tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phn vinh.
Mục lục
Trang
A.Lý do chọn đề tài .........................................................
1
B. Nội dung........................................................................
4
I. Một số khỏi nim liờn quan tới đề tài................................
4
1.1. Nhân cách là gì?......................................................
4
1.2. Tầm ảnh hởng của nhân cách đến việc dạy ..........
5
II. Ví trí, vai trò của ngời thầy giáo trong thời đại mới ....
6
III.Đặc điểm lao động của ngời thầy giáo .....................
9
3.1.Nghề mà đối tợng trực tiếp là con ngời ....................
9
3.2. Nghề mà nhân cách của ngời giáo viên ảnh hởng
trực tiếp phẩm chất nhân cách của học sinh .................
10
3.3. Giáo viên à tạo cho xà hội một ngn nh©n lùc vỊ
tri thøc ..............................................................................
11
19
3.4.Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và
tính sáng tạo cao .............................................................
11
3.5.Lao động của nghề dạy học đòi hỏi có vốn kiến
thức phơng pháp và cốt cách tâm hồn trong sáng..........
12
IV. Phẩm chất ngời thầy giáo ...........................................
13
4.1. Lý tởng đào tạo thế hệ trẻ ........................................
13
4.2. Lũng yêu trẻ .................................................................
14
4.3. Lòng yêu nghề ..........................................................
14
4.5. Một số phẩm chất đo đức và phẩm chất ý chí
của thầy giáo ....................................................................
15
V. Thực trạng nền giáo dục và nâng cao chât lng giáo
viên ...................................................................................
16
C. KÕt luËn ....................................................................
18
20