Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

PHAT TRIEN HINH THANH TAM LY CON NGUOI 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.03 KB, 36 trang )

Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Tên đề tài:
Vai trò hoạt động với sự phát triển và hình thành tâm lý người

Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Cũng như bao ngành khoa học khác, tâm lý cũng là một đề tài ngiên
cứu khoa học. Đó là mảng đề tài nghiên cứu khá sâu xa về tâm lý con người.
Thế giới tâm lý con người vô cùng kì diệu và phong phú được con người quan
tâm và nghiên cứu cùng với sự hình thành và phát triển nhân loại.
Tâm lý mỗi con người luôn luôn khác nhau không người nào giống
người nào cả, mỗi người mỗi vẻ khác nhau. Để biết yếu tố nào đã làm cho tâm
lý mỗi con người có sự khác biệt ấy, một trong số yếu tố đã tác dộng vào tâm
lý của mỗi con người chúng ta là “hoạt động”.
Hoạt động là một phạm trù khá rộng nhưng khi đến với nó, tìm hiểu sâu
về nó lạ thấy rất thú vị. Nó liên quan đén rất nhiều lĩnh vực trong đời sống
con người, cùng các yếu tố khác tồn tại và phát triển.
Hoạt động trong cuộc sống con người rất phong phú, nó là một chuỗi
những hoạt động giao lưu kế tiếp nhau, đan xen vào nhau. Vì vậy gắn liền với
sự tồn taiij và phát triển của con người không thể thiếu hoạt động, đặc biệt là
trong lĩnh vực hình thành và phát triển tâm lý con người.
Qua phân tích ở trên ta có thể thấy rằng hoạt động là không thể thiếu
trong mỗi con người chúng ta. Với những lý do trên đã làm tiền đề sâu sắc
trong việc lựa chọn đề tài của tơi.Vì thế tơi chọn đề tài: “Vai trị của Hoạt
động với sự hình thành và phát triển tâm lý con người”.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn


1


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Định nghĩa về hoạt động
Theo nhiều quan điểm của nhiều trường phái khác nhau có nhiều cách
định nghĩa, quan điểm khác nhau:
1.1. Theo quan điểm triết học
Hoạt động là biện chứng của chủ thể và khách thể. Bao gồm quá trình
khách thể hóa chủ thể (chuyển thể những đặc điểm chủ thể vào văn phòng
phẩm hoạt động, và chủ thể hóa khách thể ) để chủ thể tiếp thu phản ánh đặc
điểm của vật thể vào năng lực của con người.
1.2. Theo quan điể sinh lý học
Theo sinhnlys học thì hoạt động là tiêu hao năng lượng thần kinh và
bắp thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của con người
Ví dụ: hoạt động vui chơi của trẻ em, hoạt động học của học sinh, hoạt
động lao độn của người lớn.
1.3. Theo quan điểm các nhà tâm lý học
Theo quan điểm các nhà tâm lý học xuất phát từ quan điểm cho rằng:
Con người không phải là cái túi đựng phản xạ và hoạt động không đơn giản là
các phản ứng cử động mà hoạt động là phương thức tồn tại của con người
bằng cách tác động vào đối tượng để tạo ra sản phẩm tương ứng,nhằm thỏa
mãn nhu cầu bản thân và xã hội. Nói cách khác hoạt động là mối quan hệ giữa
khách thể và chủ thể, là phương thức tồn tại của con người trong xã hội.
Trong môi trường xung quanh các hoạt động con người bao gồm các

quá trình con người tác động vào khách thể, sự vật, tri giác…Đó là q trình
tinh thần trú tuệ, hay đây là quá trình bên trong. Nói một cách đơn giản hơn là
hoạt động của con người bao gồm cả hành vi lẫn tâm lý, ý thức, công việc
chân tay và công việc trong bộ não con người. Hoạt động là mối quan hệ qua
lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

2


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

giới, cả về phía con người hay khách thể. Các mối quan hệ đó có hai q trình
diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau.
Q trình 1: Là q trình dối tượng hóa, trong chủ thể chuyển năng lực
của mình thành sản phẩm của hoạt động. Hay nói khác đi tâm lý con người
(chủ thể) được bộc lộ, được khách thể hóa trong quá trình làm sản phẩm. Q
trình đối tượng hóa (khách thể hóa) cịn gọi là q trình xuất tâm.
Q trình 2: Là q trình chủ thể hóa, có nghĩa là khi hoạt động con
người chuyển từ phía khách thể vào bản thân mình những quy luật bản chất
thế giới để tọa ra tâm lý, ý thức, nhân cách củ bản thân bằng cách chiếm lĩnh
(lĩnh hội) thế giới. Quá trình chủ thể hóa cịn gọi là q trình nhập tâm.
Như vậy, trong hoạt động con người vừa tạo ra sản phẩm về thế giới
vừa tạo ra tâm lý của mình. Hay nói khác đi tâm lý, ý thức, nhân cách được
bộc lộ và hình thành trong hoạt động.
1.4. Đặc điểm cơ bản của hoạt động
Hoạt động bao giờ cũng có “ tính đối tượng “. Đối tượng của hoạt
động là cái con người cần làm ra cần lĩnh hội , cần chiếm lĩnh, hoạt động này

là quá trình tác động vào cái gì đấy.
Ví dụ : hoat động học tập nhằm vào tri thức, kỹ năng,kỹ xảo…để hiểu
biết tiếp thu và đưa tri thức, kỹ năng, kỹ xão vào vốn liếng kinh nghiệm của
bản thân. Nói cách khác là lĩnh hội các tri thức kỹ năng,kỹ xảo ấy. Đối tượng
của hoạt động dạy và học nhằm hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách
người học.
Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ thể tiến hành là hoạt động do chủ
thể thưc hiện, chủ thể hoạt động có the là một hoặc nhiều người. Chẳng han
trong hoạt động day-hoc phải tổ chức điều khiển hoat động học, cho thực hiện
hoạt động đó, trong trường hợp đó cả thầy và trị đều tiến hành một hoạt động,
để đi đến một loại sản phẩm là hình thành nhân cách ở học sinh. Thầy và trò

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

3


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

cùng là chủ thể của hoạt động dạy và học. Điểm nổi bật trong tinh chủ thể đó
là tính tri giác và tính tích cực.
Hoạt động bao giờ cũng có mục đích của hoạt động là nhằm biến đổi
thế giới (khách thể) và biến đổi bản thân chủ thể. Tính mục dích gắn liền với
tính đối tượng. Tính mục đích bị chế ước bởi nội dung xã hội, trong hoạt động
con người, tính mục đích nổi lên rõ rệt. Lao động sản xuất tạo ra của cải vật
chất, snr phẩm tinh thần để đảm bảo sự tồn tại xã hội và bản thân, đáp ứng
nhu cầu ăn, mặc, vui chơi, giải trí…Học tập để có kĩ năng, kĩ xão, tri thức
thõa mãn nhu cầu nhận thức và chuẩn bị vốn liếng bước vào cuộc sống. Mục

đích của hoạt động thường tạo ra sản phẩm có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
với sự thõa mãn nhu cầu của chủ thể.
Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong hoạt động con
người gián tiếp tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý ở trong đầu. Gián
tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.
Như vậy công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung
gian giữa chủ thể và khách thể, tạo ra tính gián tiếp của hoạt động. Cũng như
vậy, tiếng nói và chữ viết và các hình ảnh tâm lý khác như: Các hình tượng,
biểu tượng về sự vật, tri thức, quy luật ta học được đều là các công cụ tâm lý
được sử dụng để tổ chức, điều khiển thế giới tinh thần của mỗi con người.
1.5. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động khác nhau
+ Nếu dựa vào cấp độ chức năng có thể chia hoạt động con người
thành hoạt động: Nhận thức cảm xúc, ý chí, thần kinh, tuần hồn, hơ hấp.
+ Nếu phan chia theo cấp độ xã hội ta có: Hoạt động sabr xuất, lưu
thơng, phân phối, hoạt động nhóm, hoạt động quốc gia, hoạt động quốc tế.
+ Nếu căn cứ vào mức độ cá nhân hoạt động được chia thành: Vui
chơi, học tập, giao tiếp và lao động. Ta sẽ đi làm rõ theo cách phân chia này.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

4


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Về hoạt động học các nhà tâm lý học như: X.L.Vwgottxri,
X.L.Rubintêin, A.Leeoochiep nhấn mạnh vai trò của hoạt động đối với sự

hình thành tâm lý con người nói chung và trẻ em nói riêng. Trong lĩnh vực
tâm lý học sư phạm một số nhà tâm lý học cho rằng hoạt động có vai trị quan
tronhj trong việc hình thành tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Tuy vậy chỉ vài chục
năm trở lại đay bản thân hoạt động mới trở thành đối tượng nghiên cứu của
một số nhà tâm lý học. Có thể xem D.B.Elcơnin (1960) là người đặt nền
móng cho lý thuyết hoạt động học. Nếu trước năm 1960 hoạt động học
thường được đồng nhất với quá trình học tập D.B.Elcônin cho rằng hoạt động
học là hoạt động nhận thức nhằm thay đổi bản thân chủ thể người học (học
sinh). Trong hoạt động này các phương thức chung của việc thực hiện các
hành động được học sinh ý thức và phân biệt với kết quả hoạt động. Như vạy
hoạt động học tạp không phải chỉ ở chỗ thu nhận tri thức và thậm chí khơng
phải ở chỗ thay đổi đối tượng cuẩ hoạt động trong quá trình biến đổi hay lĩnh
hội, mà chủ yếu xem xét ở sự biến đổi bản thân chủ thể hoạt động như thế
nào.
1.5.1 Hoạt động học tập
Từ lớp vở lòng bước vào lớp phổ thông là một biến đổi quan trọng
trong đời sống trẻ em. Điều đó làm thay đổi một cách cơ bản đia vị của nó
trong xã hội, trong gia đình cũng như thay đổi có tính chất hoạt động và nội
dung chủ yếu ở lứa tuổi đó. Trở thành một học sinh chính thức các em bắt đầu
tham gia mọi hoạt động nghiêm chỉnh, có ý nghĩa xã hội đó là hoạt động học
tập. Nếu vui chơi là hoạt động chủ yếu của lứa tuổi mẫu giáo thì học tập bây
giờ là hoạt động chủ yếu của học sinh. Học tập là nghĩa vụ của học sinh, đòi
hỏi học sinh phải có tinh thần trách nhiệm. Vì vậy đến tuổi học sinh trẻ khơng
thể duy trì hình thức nhẹ nhành: Học mà chơi, chơi mà học như tuổi mẫu
giáo. Trở thành học sinh các em phải thực hiện các yêu cầu nghiêm túc hơn,
kỉ luật cao hơn. Nội dung học tập bao gồm nhiều mơn được sắp xếp theo một
chương trình có hệ thống. Đến trường phổ thơng các em bắt đầu xây dựng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

5



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

một hệ thông những quan hệ với thầy với bạn mới. Ngồi ra các em cịn tiếp
xúc với học sinh trên lớp, quan hệ với mọi người xung quanh trở nen rộng rãi
phức tạp giúp các em tiếp thu được nhiều kinh nghiệm mới. Chính điều đó
giúp cho sự phát triển tâm lý của trẻ trở nên phong phú.
Nếu lúc còn ở mẫu giáo trẻ được giáo dục chuẩn bị tinh thần sẵn sàng
đi học thì các em có hứng thú học tập. Những em này thường coi trọng việc
học tập, thích đến trường, buồn vì vì phải nghỉ học.
Một số trẻ khác do gia đình và cơ giáo mẫu giáo chưa chú ý giáo dục và
chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đi học nên lúc đến trường các em thường tỏ ra
chưa thích học tập, các em muốn trốn học. Hứng thú học tập nảy sinh trong
quá trình học tập, khi đến trường trẻ thường được thấy nhiều điều mới lạ các
em rất thích thú. Lúc đầu người học sinh thích chú ý đến tất cả các loại bài,
loại cơng việc có ý nghĩa nghiêm chỉnh của một học sinh. Từ từ trong bài học
và cách giảng dạy của người giáo viên làm trẻ bị lôi cuốn vào sự đan mê học
tập. Nhưng nếu người giáo viên giảng dạy khơng có sự hứng thú sinh ra sự
nhàm chán, hổng kiến thức của học sinh, nên học sinh sẽ dần dần mất hứng
thú học tập. Vì vậy bên cạnh hoạt động học tập, hoạt động dạy học và giáo
dục đóng một vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo và đặc biệt là sự hình thành tâm lý con người ở học sinh hay
khách thể giáo dục.
1.5.2. Vấn đề hình thành cách thức học tập
Một đặc điểm không kém phần quan trọng trong hoạt đọng học học
tập của học sinh là việc hình thành cách thức học tập. Vấn đề tiếp thu tri thức,
hình thành biểu tượng, khái niệm đều phụ thuộc vào mức độ nắm được những

kĩ năng làm việc trí óc, kĩ năng nghe giang, kĩ năng quan sát…Các em chưa
thể hình thành được ở mình những kĩ năng đó. Vì vậy ngay từ đầu giáo viên
phải hướng dẫn từng bước học tập của học sinh, phải kiểm soát cách thức học
tập củ học sinh, nhằm hướng vào việc hình thành những hoạt động trí óc cần
thiết.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

6


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Vấn đề nắm được những thao tác trí tuệ đó thường trải qua một q
trình gồm những giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: trước một nhiệm vụ mới lạ học sinh cấp một chưa thể tự
mình làm được, vì vậy lúc đầu nó phải theo dõi lời giải thích và hướng dẫn
của giáo viên, đồng thời hình dung sơ bộ mọi biểu tượng chung về vấn đề
phải học. Đây là giai đoạn làm quen với động tác là sự định hướng đầu tiên về
các thao tác đó.
+ Giai đoạn 2 : là giai đoạn thực hiện thao tác kèm theo sự sử dụng vật
thực hoạc đồ dùng học tập thay cho vật thực đó.
Ví dụ : khi làm một phép tính cộng lúc đầu học sinh phải dùng pahir
dùng que tính,kẹo …..
+ Giai đoạn 3 : là giai đoạn vẫn thực hiện những thoa tác đó nhưng
khơng dùng đồ vật thực hoặc những đồ dùng học tập nữa,mà dùng lời đọc
cách làm như thế nào
+ Giai đoạn 4 : Giai đoạn này không cần đọc to mà chỉ tiến hành
những dộng tác đó trong óc bằng cách nghĩ thầm đồng thời tách khỏi những

vật đã dùng mà chỉ tiến hành với những con số trìu tượng dần dần khi trẻ
thành thạo thì một số bước bị rơi rụng.Thoa tác trí tuệ trở nên ngắn gọn và
nhanh chóng.Đó là giai đoạn của q trình hình thành thao tác trí tuệ.
Đối với học sinh cấp một nếu giáo viên hướng dẫn đầy dủ và đúng đắn
thì đến cuối cấp phần lớn trẻ đã nắm được những cách thức làm việc trí óc và
tự mình có thể có thể tổ chức học tập được.Nếu trẻ học tập theo cách thức
khơng đúng,khơng hợp lí chính vì chúng khơng được chỉ bảo đầy đủ.Chẳng
hạn học sinh cấp một thường có khuynh hướng ghi nhớ máy móc tất cả bài
học ,học thuộc bằng cách đọc đi đọc lại nhiều lần cho quen.Điều đó khơng
phải là đặc điểm cố hữu nhất thết của lứa tuổi ấy mà chính là do các em
khơng biết cách nào hợ lí hơn.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

7


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

CHƯƠNG II . ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC-SỰ HÌNH THÀNH VÀ Ý
NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG
2.1. Về cấu trúc hạt động và ứng dụng trong giáo dục và học tập
Hoạt động của học sinh có các thành tố như: Nhiệm vụ học tập, các
hành động học, động cơ, nhu cầu học.
Trước hết ta đi phân tích nhiệm vụ học, nhiệm vụ học là nhu cầu học
sinh phải đạt được những mục đich dưới sự hướng dẫn và tổ chức của giáo
viên. Cịn học sinh tạo ra cho mình sản phẩm giáo dục. Mổi mục đich học là
biểu hiện của một khâu trong chuổi lơgic đối tượng học. Do đó q trình đạt

mục đich học cũng là quá trình hình thành động cơ trong điều kiện cụ thể của
quá trình hoạt động.Cho nên khơng thể có một động cơ nào khác bên ngồi
hoạt động áp đặt vào cho nó.
Tổ chức hoạt động học suy cho cùng là lập ra và tổ chức thực hiên hệ
thống nhiệm vụ.Nhiệm vụ học đưa đến cho trẻ em dưới hình thức một việc
làm. Việc làm hẹp hơn hoạt động, vì trong việc làm cụ thể khơng nhất thiết
phải xét động cơ việc xâu xa của nó.Việc làm hẹp hơn hoạt động vì nó đem lại
sản phẩm nhất định. Việc làm trong hoạt động học khác với việc làm ở chổ:
Mổi việc làm học tập phải tạo ra cho chủ thể năng lực mới. việc làm khác dù
có tạo ra sản phẩm nhưng khơng tạo ra năng lực cho chủ thể. Hoạt động học
tập tạo ra năng lực mới cho học sinh,khơng đơn thuần là q trình tích lũy.
Năng lực mới ấy chính là sản phẩm giáo dục khác với mọi sản phẩm của hoạt
động lao động ở chổ: Khơng những thầy giáo coi trọng hình thức sản phẩm
với tư cách là kết quả tất yếu, chứ không phải là giá trị sử dụng nhiệm vụ sản
phẩm khơng tạo ra sản phẩm nói chung,là nơi định hình mới đã được hình
thành.
Học sinh thực hiện các nhiệm vụ học bằng các hoat động học. Hành
động học bao gồm: hành động phân tích hành động mơ hình hóa,hành động
cụ thể hóa,hành động kiểm tra và đánh giá. Đó là hành động quan trong nhất.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

8


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Để phát hiện ra nguồn gốc logic của khái niệm cần có hành động phân tích ,
để diễn đạt một cách vật chất và cảm tính khái niệm cần có mơ hình hóa , để

sử dụng và cụ thể hóa, để kiểm sốt và có điều chỉnh kịp thời cần có hành
động kiểm tra và đánh giá. Vì vậy chúng ta hảy đi sâu phân tích sâu hơn hành
động học nói trên:
2.1.1 Hành động phân tích là hành động tên quyết trong việc lĩnh hội
tri thức, khái niệm khoa học của học sinh.
Hành động này như là một hành động nói chungcó thể thực hiện trong
các hình thức khác nhau của đối tượng vật chát hay vật chất hóa trong đầu.
hành động vật chất (vật chất hóa) có đối tượng là các vật hay các vật thể(như
công thức, sơ đồ, hình vẽ) sao cho mọi học sinh có thể hành động bằng tay:
viết, vẽ, đánh mũi tên, tẩy, xóa….nhờ vậy học sinh phải hành động thực sự
(chứ không chỉ quan sát theo dõi, hay nghe kể….) mà làm biến đổi đối tượng
lĩnh hội nhờ đó phát hiện được loogic của đối tượng nghiên cứu, phát hiên ra
mối quan hệ chung của hệ thống đối tượng cần khảo sát. Mọi hoạt động lại
bao gồm một chuỗi thao tác nhất định. Nó là phần lõi kỷ thuật của hành động,
thao tác khác với động tác ở độ chính xác. Dù đó là người hay máy thực hiện
thao tác thì đều phải như nhau. Các nhà tâm lý học cho rằng có các loại thao
tác sau:


Thao tác vật chất được thực hiện một cách vật chất bằng tay, bằng

sức mạnh cơ băp bên ngồi của trí óc.


Thao tác tinh thần đối lập với thao tác vật chất.



Thao tác trí óc là thao tác tinh thần nhưng người không phải thao


tác tinh thần nào cũng là thao tác trí óc. Thao tác trí óc địi hỏi phải có độ
chính xác cao, địi hỏi một sự mạch lạt, rõ ràng.
2.1.2. Hành động mơ hình hóa
Nhờ hành động này học sinh ghi lại được tiến trình kết quả thực hiện
hành động phân tích mơ hình và kí hiệu. V.A.Shoff xem mơ hình là một cái
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

9


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

giống và khác về một phương diện nào đó. Nói cách khác khi nói đến mơ hình
là nói đến một loạt những mặt nào đó chứ khơng chính là sự vật đó.
Chức năng của mơ hình là diễn đạt một cách trực quan những quan hệ cơ bản
của đối tượng mà ta không thấy một cách trực tiếp. V.A.Shoff viết “ nói đến
mơ hình ta hiểu đó là một đối tượng trong đầu hay một hệ thống đã được vật
chất hóa. Hệ thống này phản ánh tài liệu nghiên cứu ơ hệ thôngs này ta thu
được những thông tin mới về đối tượng đó”. Mơ hình hóa lúc đầu là sản
phẩm của hành động sau đó trở thành hành động của tư duy. Trong tâm lý học
sư phạm có thể nói mơ hình diễn đạt logic của khái niệm dưới hình thức
khơng gian trực quan có thể cảm nhận được bằng giác quan. Mối quan hệ nằm
trong khái niệm đều được biểu hiện dưới dạng vật chất bề ngoài, rịi sau đó
mới chuyển về dsngj vật chất trong đó.
Vậy ta có thể đặt ra câu hỏi rằng có các loại mơ hình nào nhỉ? Một cách
ước lệ có thể phân chia như sau:



Mơ hình tương đồng là loại mơ hình gần giống vật thật, vi du: sa

bàn trận đánh. Loại mơ hình này nói chung ít có sự phát triển đến tri tuệ và tư
duy, lí luận của học sinh.


Mơ hình biểu tượng có những nét hao hao

Mơ hình biểu trưng này gồm ba biểu tượng là:a, b, c và mối quan hệ
giữa ba yếu tố đó là:
a +

b =c

b + a


=c

c -

b = a

c -

a = b

Mơ hình võ đốn là loại mơ hình hồn tồn có tính chất quy ước,

diễn đạt thuần khiết loogic của khái niệm.loại mơ hình này thường được diện

đạt bằng cơng thức hay kí hiệu: S= ½ ah (a là chiều dài cạnh đáy của tam
giác, h là chiều cao thuộc cạnh đó.)

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

10


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Mơ hình là sản phẩm của tư duy phân tích, đồng thời chính nó là
phương tiện đặc biệt của tư duy – một liểu tư duy mới được hình thành nhơ có
hoạt động học.
2.1.3. hành động cụ thể hóa
Trong dạy học phải xem việc hình thành ở học sinh phương pháp
chung của việc giải quyết nhiệm vụ mới là việc làm quan trọng. những nhiệm
vụ thực tieenc thì vơ cùng phong phú và cực kỳ phức tạp. vì thế dạy học cần
phải lam cho học sinh biết dùng phương pháp chung đã được hình thành để
giải quyết những vấn đề cụ thể như là những biểu hiện riêng của tình huống
chúng được chọn làm mẫu ban đầu. nhờ vậy mà các em nhanh chóng phân
biệt được mọi quan hệ chung ở trong đó và biết sử dụng được phương pháp
chung đã dược hình thành để giải quyết những tình huống mới.
2.1.4. Hành động kiểm tra và đánh giá
Nhà tâm lý học P.Ia.Galperin cho rằng hành động kiểm tra nằm trong
cơ cấu mỗi hành động nói chung, việc kiểm tra luôn luôn gắn với một hành
động khác: Kiểm tra thực hiện hành động, theo ơng có hành động kiểm tra
bên ngồi và có hành động kiểm tra bên trong. Trong khi đó A.K.Marcova coi
hành động kiểm tra là một yếu tố cấu thành quan trọng của hành động học

tập. Bà chia ra hai loại kiểm tra liên hệ với nhau:


Hành động có chức năng kiểm tra



Hành động kiểm tra chuyên Việt

Hành động kiểm tra có vai trị tự điều chỉnh trong hoạt động học, việc
kiểm tra thường thấy trong nhà trường là kiểm tra kết quả của hành động sau
đó mới bắt đầu kiểm tra theo từng bước và từng quy trình. Việc kiểm tra có
giá trị và tương đối hoàn thiện hơn cả là kiểm tra theo kế hoạch và nhìn về
tương lai, tức đưa vào sự thực một cách rút gọn và liên kết các hành động
trước và định hướng vào kết quả mong muốn.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

11


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Vì thế trong dạy học khơng nên xem nhẹ việc kiểm tra và đánh giá kết
quả. Song cần phải thừa nhận nếu chỉ kiểm tra kết quả thì chỉ dừng lại ở bề
mặt hơn là đi sâu vào bản chất, vì bản thân kết quả hoạt động chưa nói được
lơgic của q trình. Kiểm tra lơgic của hành động cho phép phát hiện sai lầm
và do đó có thể điều chỉnh được hành động. Nhờ cách này có thể xem học

sinh xử trí thế nào trong những giây phút gây cấn, trước một tình huống chưa
quen biết thơng qua đó cũng kiểm tra được q trình hành động của học sinh
diễn ra như thế nào? Nhờ vậy giáo viên có thể biết được thực tế học sinh đã
lĩnh hội được cái gì? Có chắc chắn hay khơng? Cịn khó khăn gì?. Tất nhiên
hiệu quả kiểm tra đánh giá cịn phụ thuộc vào các yếu tố khác nữa. Vì vậy nên
coi đây là sự đánh giá gần đúng có giá trị định hướng hơn là sự chính xác
tuyệt đối. Trong dạy học cần hình thành ở học sinh thói quen tự kiểm tra đánh
giá khơng chỉ kết quả mà cịn cả quá trình đi đến kết quả của một hành động
nào đó.
2.2. Hình thành hoạt động ở học sinh
Hiện nay ngành giáo dục đang cố gắng nâng cao chất lượng dạy học,
để làm việc đó có nhiều việc cần phải giải quyết. Từ phía giáo viên đứng lớp
cần phải hình thành hoạt động học của học sinh ngay ở những lúc đầu cấp.
Tại sao như vậy? Để giải thích cho câu hỏi này ta có thể nói một cách nơm na
là: Như chúng ta đã biết giai đoạn tuổi thơ ấu có những mốc cực kì quan
trọng, biết đi, biết nói, đi học phổ thơng, đi làm. Mỗi cá thể trẻ em đi qua một
lần duy nhất ở mốc đó trên một đường thời gian. Trước 6 tuổi trẻ em đến nhà
trẻ hoặc ở lớp mẫu giáo hoặc ở nhà với ông bà cha mẹ, trẻ em đã tiếp thu một
số tri thức, kĩ năng, khái niệm thường ngày bằng phương pháp “truyền tay”,
“kèm cặp”. Tròn 6 tuổi tạm biệt cha mẹ và bé đến trường Tiểu Học, đến với
thầy cô giáo, đến với các bạn bè đồng tuổi để tiếp thu nền văn minh, văn hóa
nhân loại đã được tinh chế bằng phương pháp nhà trường. Vào lớp 1 trẻ
chuyển sang một giai đoạn mới, bắt đầu từ đây trẻ phải lĩnh hội tri thức của
nhân loại bằng phương pháp hồn tồn khác trước. Từ đây nhà trường có
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

12


Tiểu luận Tâm Lý Học


GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

nhiệm vụ cao cả dạy cho các em nhìn thấy cái bản chất trong những các quen
thuộc mà trước đây trẻ có nhìn nhưng khơng thấy. Nhà trường có nhiệm vụ
luôn đưa đến cho trẻ cái mới, chưa hề có trong vốn liếng 6 năm đầu trẻ tích
lũy được. Cách nhìn ấy của trẻ là cái nhìn khoa học chứ khơng phải là cách
nhìn kinh nghiệm. Muốn vậy nhất thiết phải hình thành hoạt động học ở học
sinh.
Nhà tâm lý hoc Đ.B.Elcônin cho rằng giáo viên không chỉ dạy tri thức
khoa học mà còn phải dạy cho học sinh cách học. Với quan điểm này phải
hình thành các hoạt động cho trẻ em: Hành động mơ hình hóa, hành động cụ
thể hóa, hành động kiểm tra và đánh giá. Tại sao phải hình thành hành động
học? Vì những thành tựu tâm lý dạy học hiện đại đã khẳng định phải lấy hành
động học để làm cơ sở lĩnh hội khái niệm khoa học. Trong hệ thống dạy học
thực nghiệm của mình V.V.Davưdốp đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phải hình
thành các hành động học. Cịn Hồ Ngọc Đại lại cho rằng: “nền giáo dục phổ
thơng hiện đại địi hỏi cả 2 cái cần học và cái cách học”. ở đây theo ông phải
hiểu cách là sự sống của cái, cái là hình thái tĩnh, cách là hình thái động của
cùng một thực thể. Cái máy bay đang đậu trên đường băng thì chưa thể hiện
cách bay, chỉ khi nó bay lên bầu trời là cách bay của các máy bay.cái cần học
phải là cái hiện đại, thích đáng, đích thực là thành tựu cuối cùng của lịch sử,
còn phương pháp làm ra cai đó tức cái học cũng là cái hiện đại nhất. Nhưng
nó phải đi từ cái đơn giản trước đó.
Trong thực tiễn dạy học các hành động hình thành chính trong khai
niệm khoa học. (ở đây phải phát biểu khái niện khao học được hình thành bởi
cấu trúc lơgic của nó)
VD: Cấu trúc lơgic của nước là H2O.
Dạy học phải hình thành hoạt động học cho học sinh. Muốn làm được
điều đó phải có sự đồng bộ về nội dung dạy học, phương pháp và tổ chức dạy

học. Mọi sự cải cách khơng dứt khốt, nửa vồi trong dạy học sẽ không đem
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

13


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

lại hiệu quả như mong muốn. Thực tiễn dạy học hàng năm nay cho thấy nếu
chỉ hiện đại hoá nội dung sách giáo khoa mà khơng có phương pháp và tổ
chức dạy học tương ứng thì việc học của học sinh gặp khó khăn. Đó chính là
sự gúa tải. Ngược lại nếu chỉ cải tiến phương pháp mà không xây dựng cấu
trúc lại, nội dung lại thì khơng tạo ra được điều kiện phát triển tối ưu cho học
sinh. Vì ở đây nội dung dạy học ở nhà trường được các nhà tâm lí xem là
“thức ăn của trí tuệ”.
Hoạt động học được hình thành ngay từ lớp 1 và dần dần được hình
thành ở các lớp sau nhờ cơ chế “thầy tổ chức - trò hoạt động”. Do đó tâm lý
học sư phạm cho rằng: Cách học vừa là tiêu đề, cơng cụ, phương tiện, vừa là
mục đích của dạy học. Cách học khơng thể được hình thành nhờ những lời
khuyên răn, hay trừng phạt nghiêm khắc của người lớn (kể cả giáo viên), mà
nó chỉ được hình thành trong quá trình học sinh tự mình khám phá ra những
cái mới mà chưa hề có trong cuộc sống của học sinh đó trước đó. (có thể ai đó
đã khám phá và trẻ tìm ra và lĩnh hội).
2.3. Ý nghĩa của việc xem xét học tập của học sinh là một hoạt động.
Hoạt động học theo tâm lý học hiện đại lần đầu tiên xuất hiện và hìh
thành nhờ phương pháp nhà trường... tròn 6 tuổi trẻ vào lớp 1 bằng những
hoạt động của mình trẻ em sẽ có những biến đổi tâm lý căn bản (trí tuệ, năng
lực, cộng cơ, hứng thú).

Hoạt động của học sinh là hoạt động chủ đạo: hoạt động này lần đầu
tiên xuất hiện trong tiến trình phát triển của trẻ được tổ chức đặc biệt. Đối
tượng của hoạt động học là hệ thống các khái niệm khoa học và hệ thống trí
thức có lý luận. Hoạt động học của học sinh nảy sinh trong lịng hoạt động vui
chơi nhưng nó chỉ được hình thành bằng phương pháp nhà trường dưới sự chỉ
đạo chặt chẽ của giáo viên.
Quan niệm về hoạt động trên đây, giáo dục tìm các tổ chức hoạt động
học của học sinh trực tiếp trên đối tượng (khái niệm khoa học, chuẩn mực xã
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

14


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

hội, những quan điểm đương thời). Vì thế có thể nói đối tượng trong hoạt
động của học sinh là những đối tượng trong đời sống hiện thực với những
thành tựu vật chất, tinh thần, với những quan hệ kinh tế - xã hội của xã hội
đương thời. Do đó phải hiểu rằng nhà trường là nơi xảy ra cuộc sống thực của
trẻ em, bằng cách tổ chức hoạt động trên những đối tượng ấy, tâm lý cả học
sinh mới được phát triển...
Lần đầu tiên đến trường, bằng hoạt động của mình được tổ chức theo
phương pháp nhà trường, học sinh nắm lấy những mối liên hệ xuất phát của
các bộ mơn khoa học. Q trình hình thành năng lực mới trong mỗi trẻ em
(học sinh).
VD: Năng lực toán chẳng qua chỉ là cái vốn có của đối tượng tốn, bên
ngoài cá thể được gieo vào cá thể rồi “mọc lên” và phát triển lại một lần nữa,
năng lực toán khơng thể hình thành bên ngồi hoạt động của chủ thể lên đối

tượng trong toán.
Để xác định cụ thể đối tượng của hoạt động phải xây dựng chương
trình mơn học, thầy giáo phải có tay nghề, chỉ việc chấp nhận lựa chọn rồi
tiến hành việc tổ chức hoạt động học của học sinh. Nếu thừa nhận quan điểm
này thì trong dạy học thầy phải tổ chức, trò phải hoạt động chứ khơng phải
thầy đọc trị chép hoặc thầy giảng trị ghi nhớ... Muốn biến quan điểm lý luận
này thành hiện thực thì phải biến tồn bộ q trình giáo dục thành một hệ
thống việc làm như một quy trình cơng nghệ. Nếu ký hiệu thành tựu văn học
của loài người thì A thì ta có cơng thức:

A�a
Mũi tên là q trình biến đổi A thành a (sản phẩm giáo dục) trong của
học sinh, mà mối quan hệ giữa học sinh với A là trực tiếp. Trong q trình đó
trẻ em phải trực tiếp đối mặt với A, tác động vào cái A để chuyển cái A thành
a trong bản thân của chủ thể hoạt động. Nhưng bên cạnh đó mối quan hệ đó
phải thơng qua thầy giáo - người biết rõ A và biết rõ học sinh. Thầy giáo có
vai trò quan trọng như: Chọn đúng A làm tường minh lơgíc và q trình hình
thành A, tổ chức trẻ em chuyển A thành a. Cịn thực tiễn q trình chuyển
biến này là việc làm của học sinh, mà không ai làm thay được.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

15


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

CHƯƠNG III: CÁC LOẠI HÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA HỌC SINH.

3.1. Hành động vui chơi.
Vui chơi là hoạt động chính của trẻ em từ 1 đến 7 tuổi và cũng là hoạt
động không thể thiếu được đối với lứa tuổi khác. Ngay cả người lớn vẫn có
vui chơi, những ngày lao động căng thẳng, mệt mỏi, người lớn vẫn cần vui
chới giải trí.Vui chơi đúng cách đúng hướng sẽ làm cho con người thư gian
tâm hồn, bớt căng thẳng, phục hồi sức làm việc chân tay và trí óc nhanh hơn.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sau những trận đánh bóng bàn, bóng
chuyền, bóng đã, sau một buổi xem phim, nghe một buổi ca nhạc... người ta
sảng khoái hơn, minh mẫn hơn. Sở dĩ như vậy là vì hứng thú được kích thích,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ được khơi dậy, trí tưởng tượng được bay bổng
hơn... làm cho trí óc được thư giãn, sức làm việc của cơ bắp được phục hồi,
đối với trẻ em vui chơi lại càng quan trọng. MaCaXenCơ nói rằng: “lúc trẻ
vui chơi như thế nào khi lớn lên sẽ làm việc như thế đó”. Vui chơi là trường
học để vào đời, là hoạt động quan trọng để khn đúc, hình thành nên nhân
cách của học sinh. Các nhà tâm lý học cho rằng mỗi người khi cất tiếng khóc
chào đời đều như một ngôi nhà trống chưa được trang bị bất kỳ một đồ đạc
tinh thần nào. Nhưng nhờ hoạt động vui chơi và các hoạt động khác mà thế
giới tinh thần của trẻ được tạo dựng như thế đồ đạc ở trong nhà.
Các nhà xã hội học lại nhìn nhận hoạt động vui chơi của trẻ là sự tập
duyệt xã hội, tức là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình hình
thành nhân cách xã hội. Nhà triết học kiêm xã hội học Mỹ G.H.Meud (1863 –
1931_ cho rằng sự hình thành nhân cách hữu thức và phản tính là do quá trình
xã hội của sự tương tác và (xâm nhập) nhập tâm các vai trò của con người
khác. Thơng qua hoạt động vui chơi mà đứa trẻ đóng những vai trị khác nhau
và do đó nó đang thực hành sự tập duyệt các vai trò xã hội như vậy cơ sở xã
hội của nhân cách được tạo ra dần dần để đến tuổi thanh niên nó đi vào đời
một cách thích ứng và phù hợp.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

16



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Đối với học sinh các em vẫn cần nhiều thời gian để vui chơi... ở độ tuổi
này nếu các em chơi có nội dung tốt, lại được tổ chức hợp lý, đúng cách đúng
lúc, không xâm phạm vào thời gian học tập và lao động thì hoạt động vui chơi
ngồi tác dụng nghỉ ngơi, thư giãn cịn có tác dụng phát triển năng khiếu tính
tình, sở thích... của các em Trái lại trị chơi chưa đúng những nét có hại, tiêu
cực, đặc biệt vui chơi các em giao tiếp với các bạn tấu do đặc điểm tâm lý của
các em hay bắt chước, dễ chịu ảnh hưởng của bạn bè nên ảnh hưởng tiêu cực
không nhỏ.
Thông qua hoạt động vui chơi, các em có thể hình thành nên một số
phẩm chất, tư cách, đạo đức, kỷ năng, kỷ xảo rèn luyện tính kiên trì, mềm
dẻo, tính sáng tạo.v.v.
3.2. Hoạt động lao động.
Lao động là hoạt động có ý nghĩa quan trọng với sự hình thành tâm lý,
nhân cách của các em ngay từ lúc tuổ còn nhỏ. Ở lứa tuổi học sinh lao động tự
phục vụ, lao động công ích như làm kế hoạch nhỏ, giúp các em gia đình
thương binh, liệt sĩ, chăm sóc cây trồng ở vườn trường, vệ sinh trường rất phù
hợp với chúng. Lao động ngồi việc tránh cho các em nhàn cư, cịn rèn luyện
tính chịu khó, khơng sợ làm việc vất vả, làm việc có tổ chức kỷ luật. Thơng
qua lao động nhiều điều học được trong lớp sáng rõ thêm và quan trọng hơn
nhờ lao động trí thức được củng cố, đào sâu, trí tuệ được phát triển, thế giới
quan dần dần được hình thành. Ngồi lao động là hoạt động mà mục đích và
phương tiện của nó bao hàm những hiểu biết về bản chất sự vật và hiện tượng
quá trình hình thành và phát triển của nó. Do vậy lao động làm phát triển các
phẩm chất của nhân cách như trí tưởng tượng, tư duy biện chứng, các phẩm

chất của chú ý, ý chí và các kỹ năng đơn giản. Kinh nghiệm và thực tiễn cho
thấy nhiều trẻ em trở nên hư hỏng chỉ vì khơng muốn và khơng biết lao động.
Trong xã hội cũ, học sinh mãi khi tốt nghiệp mới “ra đời”. Chính những
năm tháng tình cảm cịn ngây thơ sôi nổi nhất lại không biết lao động là gì.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

17


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

Không tiếp xúc với xã hội xung quanh nên sau này trở thành những cơng dân
thường chỉ có sách vở kinh nghiệm sống rất nghèo nàn. Tâm lý học xã hội
khẳng định quan hệ xã hội mà phong phú sẽ làm yếu tố quan trọng nhất để
con người phát huy hết khả năng, tình cảm của mình. Đợi đến 19, 20 tuổi
hoặc muộn hơn nữa mới “ra đời” thì chậm quá. Các em học sinh cũng phải
tham gia lao động và phục vụ sinh hoạt hằng ngày gia đình.
Với những lứa tuổi, lao động cịn có ý nghĩa đối với quá trình đào tạo
người lao động kiểu mới trong xã hội không hiếm trẻ em ngay từ lứa tuổi còn
học ở tiểu học dù phải lao động rất nhiều nhưng vẫn thiếu tác phong lao động
công nghiệp, năng lực sáng tạo kỹ thuật... Cho nên vấn đề hướng dẫn tổ chức
cho các em nhỏ lao động ngay ở gia đình cũng phải đặt ra sao cho vừa làm ra
của cải góp phần cải thiện đời sống, vừa hình thành thói quen và phẩm chất
của người lao động theo mục tiêu của giáo dục.
3.3. Hoạt động xã hội.
Hoạt động xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh. Nó có ý nghĩa xã hội trực tiếp và được xã hội
đánh giá. Dạng hoạt động này góp phần làm phong phú quan hệ xã hội, giúp

trẻ lĩnh hội các chuẩn mực hành vi, cách giao tiếp, xử sự giữa người với
người, đồng thời cũng phát triển và bồi dưỡng năng lực tổ chức, quản lý xã
hội. Hoạt động xã hội trong đó con người nói chung và trẻ em nói riêng có thể
tự khẳng định trước xã hội nên dạng hoạt động nàycó sức hấp dẫn mạnh
chẳng những đối với người lớn mà ngay cả đối với trẻ em vốn rất hiếu động,
ham chuộng sinh hoạt nhóm, tập thể. Nếu biết dựa trên thế lợi này để lôi cuốn
các em và tổ chức khéo, sinh động, đa dạng và thường xuyên thì hoạt động xã
hội của các em đến cuối bậc có thể đem lại hiệu quả to lớn.
Nếu hoạt động này lại được chính các em tổ chức tự nguyện tham gia
và tham gia hết mình thì càng có ý nghĩa giáo dục.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

18


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

3.4. Hoạt động văn hoá nghệ thuật.
Hoạt động này và có tác dụng thư giãn, gây cảm xúc như vui chơi, vừa
cung cấp những hiểu biết về xã hội, về con người như học tập, lao động và
hoạt động xã hội, nhưng thơng qua những điển hình tập trung, kết tinh cái
đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái ti tiện, cái hài, cái bi, cái hùng... mà tác động đến
tận nơi sâu thẳm trong tâm hồn các em nhỏ sức mạnh của cảm xúc và chiều
sâu của tư tưởng, vì thế hoạt động văn hố, nghệ thuật của các em xây dựng
những phần nền tảng sâu kín của nhân cách con người mà biểu hiện lâu dài về
sau mới thấy rõ.
Giáo viên, cán bộ tổng phụ trách đội ở trường hãy quan tâm đến các tổ

chức hoạt động văn hoá, nghệ thuật cho các em. Lứa tuổi này là lứa tuổi đầy
ham mê, nhiều năng khiếu đang ẩn tàng. Chính trong hoạt động văn hố, nghệ
thuật, nhiều em có năng khiếu nghệ thuật được phát hiện bồi dưỡng để trở
thành tài năng.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

19


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

CHƯƠNG IV: ĐIỀU KIỆN ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ.
4.1. Quan điểm học thuyết Mác - Lê nin - Tâm lý học Xô Viết.
Học thuyết Mác – Lênin về sự phát triển của cá nhân giúp giải và động
lực phát triển tâm lý.
Các Mác đã định nghĩa bản chất của con người là “tổng hoà các mối
quan hệ xã hội”. Điều đó có nghĩa là những đặc điểm tâm ý của cá nhân được
quyết định bởi đặc điểm của các mối quan hệ xã hội mà con người nhập vào
đó, với tư cách là thành viên của xã hội, là đại biểu của 1 giai cấp nhất định
của một nhóm xã hội nào đó, và cuối cùng với tư cách là thành viên của
những tập thể cụ thể nhất định có mức độ khác nhau, thực ra bản chất của
nhân cách là có tính chất xã hội. Nguồn gốc phát triển của các thuộc tính tâm
lý, của hoạt động sáng tạo nằm trong môi trường xã hội, xung quanh, trong xã
hội tồn tại xã hội quyết định nhân cách của con người. Theo nghĩa này, quá
trình phát triển của nhân cách là quá trình con người lĩnh hội kinh nghiệm của
xã hội diễn ra trong qua trình giao tiếp giữa con người. Nhờ đó mà các đặc

điểm tâm lý của con người như các phẩm chất đạo đức tính cách những nét ý
chí, hứng thú, thiên hướng và năng lực được hình thành.
Xuất phát từ những vấn đề đã trình bày trên tâm lý học Xơ Viết cho
rằng các đặc điểm tâm lý của con người là một cấu tạo được hình thành trong
cuộc sống, trong sự phát triển cá thể, kinh nghiệm xã hội của con người,
những điều kiện sống và hoạt động. Sự giảng dạy và giáo dục đóng vai trị
chủ đạo và quyết định trong sự hình thành nên chúng.
Mơi trường của việc giảng dạy và giáo dục có mục đích rõ ràng đã hình
thành nên những đặc điểm tâm lý của con người. chúng không phải chỉ là điều
kiện để bộc lộ những tư chất nào đó có sẵn ngay từ đầu vào bị chế ước một
cách chặt chẽ về mặt da truyền. Chúng ta đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ đạo
của giảng dạy và giáo dục với tư cách là “quá trình tác động có mục đích, có ý
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

20


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

thức của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ với mục đích hình thành những
phẩm chất nhất định của cá nhân đáp ứng được những nhu cầu xã hội”.
Về luận điểm này ta có thể giải thích như sau:
- Thứ nhất: Con người là chủ thể hoạt động chủ nghĩa tích cực chứ
khơng phải chủ nghĩa tiêu cực trước những ảnh hưởng của mơi trường. Vì vậy
các điều kiện bên ngoài của cuộc sống, những tác động bên ngồi tác động
đến tâm lý của con người khơng phải là trực tiếp. Mà thơng qua q trình tác
động qua lại giữa con người và môi trường thông qua hoạt động của con
người trong mơi trường đó. Nói cách khác là, khơng phải nói đến tác dụng của

mơi trường mà là nói đến tác động qua lại một cách tích cực giữa con người
với hồn cảnh xung quanh.
- Thứ hai: Suy cho cùng sự phát triển tâm lý do những điều kiện và tác
động bên ngoài chế ước. Tuy nhiên sự phát triển này không thể trực tiếp suy
ra những điều kiện và hồn cảnh này ln ln bị khúc xạ thông qua kinh
nghiệm sống của con người, thông qua nhân cách, thông qua đặc điểm tâm lý
và bộ mặt tâm lý của con người.
- Thứ ba: Con người với tư cách là chủ thể tích cực có thể thay đổi
nhân cách của mình, nghĩa là tự giáo dục được mình. Nhưng q trình tự giáo
dục khơng thể diễn ra tách rời với mơi trường xung quanh. Qua trình này
được mơi trường này kích thích và nó diễn ra trong q trình tác động qua lại
tích cực giữa con người với mơi trường. Cũng chính ở đây ảnh hưởng của môi
trường cũng chỉ tác động một cách trực tiếp.
Từ tất cả những điều nói trên cần phải thấy rằng: Cùng một điều kiện
bên ngồi như nhau, cùng một mơi trường có thể ảnh hưởng khác nhau đến
trẻ em, thiếu niên, thanh niên. Cho nên quy luật phát triển tâm lý của học sinh
rất phức tạp và chính q trình phát triển tâm lý là một quá trình biến đổi đầy
mâu thuẫn và phức tạp. Những yếu tố phát triển đó thật là mn hình mn

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

21


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

vẻ, đặc biệt là điều kiện học tập và giáo dục, nó ảnh hưởng khác nhau đến
những trẻ em khác nhau.

Như vậy ta có thể rút ra kết luận rằng: Hoạt động của con người (trẻ
em, học sinh) có tính xã hội, có tính tổ chức, có động cơ là cơ sở, phương tiện
và điều kiện phát triển tâm lý con người.
4.1.2. Thực thể tự nhiên trong con người.
Cho đến nay, ta đã xem con người với tư cách là thực thể có tích chất
xã hội. Nhưng phải chăng ta đã xem thường bản chất sinh vật của con người?
Điều đó hồn tồn vơ lý vì bên cạnh yếu tố xã hội “Con người là một thực thể
tự nhiên” . Tuy nhiên, những tiền đề sinh vật bẩm sinh thì hồn tồn cần thiết
với sự phát triển tâm lý của con người. Để có thể hình thành những đặc điểm
tâm lý thì các tổ chức sinh vật, não người và hệ thần kinh con người cần có
một mức độ nhất định. Những đặc điểm bẩm sinh của con người là tiền đề
quan trọng để phát triển tâm lý. Nhưng chỉ là tiền đề chứ không phải là động
lực, không phải là nhân tố của sự phát triển tâm lý. Não người với tư cách là
một tổ chức sinh vật là tiền đề nảy sinh ra ý thức, nhưng ý thức là sản phẩm
của tồn tại xã hội của con người.
Hệ thần kinh có những tiền đề tổ chức bẩn sinh để phản ánh thế giới
bên ngồi. Nhưng chỉ có trong hoạt động, trong những điều kiện sống của xã
hội, năng lực tương ứng mới được hình thành. Tiền đề tự nhiên để phát triển
năng lực là tồn tại của tư chất (một số đặc điểm và hệ thần kinh). Nhưng sự
tồn tại tư chất vẫn chưa đảm bảo sự phát triển của năng lực. Năng lực được
hình thành và phát triển nhờ ảnh hưởng của hoàn cảnh sống và hoạt động, học
tập, giáo dục của con người. Mặc dù không phải là động lực của sự phát triển
nhưng các đặc điểm bẩm sinh ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của tâm
lý.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

22



Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

4.1.2.1. Những đặc điểm tự nhiên quy định những con người và
phương thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý.
Bản thân các thuộc tính của hệ thần kinh của con người không quyết
định một thuộc tính tâm lý nào của cá nhân. Khơng một đứa trẻ nào sẵn là
dũng cảm hay nhát gan, kiên trì hay bạc nhược, cần nhẫn hay lười biếng, có
kỷ luật hay vô kỷ luật, trên cơ sở của hệ thần kinh bất kỳ nếu giáo dục đúng
đắn có thể rèn luyện một nét tính có giá trị về mặt xã hội.
VD: Có thể và cần phải giáo dục tính tự chủ, sự kiềm chế của những
người có kiểu thần kinh khơng kiềm chế được (theo Paplop) và ở người có hệ
thần kinh trầm tĩnh. Nhưng trong điều kiện nhất định sẽ khó thực hiện điều đó
hơn so với điều kiện thứ hai và con đường cũng như phương pháp giáo dục
phẩm chất cần thiết của hai trường hợp trên cũng sẽ khác nhau.
4.1.2.2. Những đặc điểm tự nhiên có thể ảnh hưởng đến mức độ và
đỉnh cao của những thành tựu của con người trong một lĩnh vực nào đó.
VD: Do những khác biệt bẩm sinh cá nhân trong các tư chất mà một số
có thể ưu thế hơn một số người khác về khả năng nắm vững một hoạt động
này, nhưng đồng thời có thể thua kém người khác về khả năng nắm vững một
hoạt động khác.
Quan niệm duy vật biện chứng về năng lực không phủ nhận sự khác
biệt cá nhân của con người. Các Mác còn kiên quyết chống quan nniệm cho
rằng ở chủ nghĩa cộng sản năng lực sẽ ngang bằng. Trong bài báo nổi tiếng
của giáo sư thuộc phái tự do về sưn bình đẳng, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng
định rằng: “Nói một cách ngắn gịn thì các nhà xã hội chủ nghĩa nói về sự
bình đẳng thì họ hiểu đó là sự bình đẳng về địa vị xã hội, về xã hội. Chứ
không phải bình đẳng về năng lực, tinh thần và thể chất của các cá nhân riêng
lẻ”. Như vậy, Lênin đã nhiều lần đòi hỏi phải phân biết được vấn đề sự bình

đẳng (hay khơng bình đẳng) của con người về phương diện xã hội và vấn đề
sự bình đẳng (hay khơng bình đẳng) về phương diện tâm lý. V.I.Lênin đã kiến
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

23


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

trì nhấn mạnh: trong lĩnh vực chính trị các nhà xã hội - dân chủ quan niệm sự
bình đẳng là sự bình quyền cịn trong lĩnh vực kinh tế là thủ tiêu các giai cấp.
Các nhà xã hội - chủ nghĩa không ngày nghỉ về sự thiết lập sự bình đẳng của
con người theo nghĩa bình đẳng về thể lực và năng lực thể chất, tinh thần con
người.
Như vậy, V.I.Lênin đã chỉ rõ con người sẽ khơng bình đẳng về sức
mạnh tinh thần và năng lực ngay ở chủ nghĩa cộng sản - một chế độ xã hội mà
mỗi người sẽ ở trong điều kiện lý tưởng để phát triển, học tập và giáo dục.
Nhân cách của mỗi người có khả năng phát triển tồn diễn và hài hồ, mỗi
người sẽ có hồn cảnh ngang nhau để phát triển năng lực và thoả mãn như cầu
của mình. Nhưng khơng có sự san bằng về sức mạnh tinh thần và năng lực
hoạt động.
4.1.2.3. Ý nghĩa của thực thể tự nhiên trong con người.
Khi kết luận vấn đề sinh vật của sự phát triển tâm lý con người về tư
chất bẩm sinh, người lãnh đạo nhà trường, giáo viên phải lưu tâm một kết
luận cơ bản: Mặc dù những tư chất bẩm sinh có một ý nghĩa nhất định đối với
sự phát triển tâm lý của học sinh nhưng bản thân tư chất này khơng đóng vai
trị quyết định trong sự phát triển tâm lý con người. Vì vậy khi xuất hiện
những khó khăn nghiệm trọng trong cơng tác dạy học – giáo dục giáo viên

khơng được “nản lịng” dựa vào lý do học sinh khơng có tư chất thuận.
Các nhà tâm lý học Xơ Viết và nước ngồi đã tranh luận rộng rãi về vấn
đề quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển: thường thường người ta hiểu
sự phát triển là hai loại hiện tượng khác nhau mặc dù liên quan chặt chẽ với
nhau. Sự trưởng thành về mặt cơ thể đặc biệt về mặt sinh vật của não, sự chín
muồi về cấu tạo giải phẩu sinh lý của não, sự phát triển của tâm lý như là một
động thái nhất định của các mức độ phát triển tâm lý cũng là trở thành thuộc
loại tâm lý trí tuệ. Đương nhiên sự phát triển tâm lý trí tuệ phụ thuộc vào sự
trưởng thành của cấu trúc não, là yếu tố hồn tồn phải tính đến trong cơng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

24


Tiểu luận Tâm Lý Học

GV hướng dẫn: Th.s Dương Thị Thanh Thanh

tác dạy học và giáo duc. Cho nên khi chúng ta nói về sự phát triển trí tuệ thì
chúng ta cho rằng q trình phát triển trí tuệ xảy ra trong thể thống nhất chặt
chẽ với sự trưởng thành về mặt sinh học của bộ não.
Vậy ở đây vai trò của hoạt động dạy học như thế nào? dạy học dẫn dắt
sự phát triển hoặc ngược lại nó đi sau sự phát triển một cách thụ động, thích
ứng với sự phát triển hay không? Đây là vấn đề quan trọng mang tính chất
nguyên tắc. Việc giải quyết vấn đề này quyết định nội dung, phương pháp
giảng dạy, nội dung chương trình và sách giáo khoa. Xưa kia nhà tâm lý học
tư bản V. Sternơ nêu lên thích ứng sự phát triển: đối lập với quan điểm của
ông nhà tâm lý học Xô Viết xuất sắc L.X.Vưgôtxki lần đầu tiên đã nêu ra và
diễn đạt một cách rõ ràng về luận điểm nói về vai trị chủ đạo của hoạt động
giảng dạy và giáo dục trong sự phát triển tâm lý của trẻ: dạy học chỉ sử dụng

những cái gì đó do sự phát triển mang lại: Vì thế khơng nên can thiệp vào q
trình trưởng thành về mặt trí tuệ, khơng được cản trở nó, mà phải kiên trì chờ
đợi nó cho đến tới khi khả năng học tập đó chín muồi. Lý luận của nhà tâm lý
học nổi tiếng Thuỵ Sĩ J.Piagiê cũng như vậy, ông cho rằng sự phát triển trí tuệ
của trẻ và học sinh trong khi phát triển theo những quy luật riêng bên trong
của nó đã trải qua một loạt những phát sinh độc đáo riêng. Dạy học chỉ có khả
năng tăng nhanh một chút hoặc làm chậm một chút quá trình trưởng thành trí
tuệ này. Do đó dạy học phải phục tùng quy luật của sự phát triển.
VD: Khi tư duy lơgíc và tư duy tác nghiệp chưa chín muồi ở trẻ em, thì
dạy trẻ suy luận một cách lơgíc là vơ nghĩa. Do đó mỗi lứa tuổi nhất định với
những khả năng tương tác đang chín muồi trong đó quy định chặt chẽ mức độ
dạy học khác nhau.
Khi đứng trên quan niệm của mối quan hệ biện chứng giữa dạy học và
phát triển, các nhà tâm lý học Xô Viết đã dành cho việc dạy học vai trò chủ
đạo. Cả hai quá trình có liên quan chặt chẽ với sự phát triển. Phát triển và dạy
học khơng phải là hai qua trình song song mà chúng thống nhất với nhau.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Tuấn

25


×