A. LỜI MỞ ĐẦU
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
Tiếng “Thầy” tồn tại trong xã hội Việt Nam ta từ xưa cho đến nay vẫn
được hiểu theo một ý nghĩa thật cao quý biết bao. Nghề dạy học nói chung và
người thầy giáo nói riêng vẫn âm thầm lặng lẽ vượt qua biết bao chông gai khắc
nghiệt của cuộc đời để đem cái chữ đến cho từng học sinh thân yêu. Cao hơn
việc đem đến cái chữ cho học sinh, người thầy cịn chính là một cái cầu nối có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc giúp cho những lý luận của ngành giáo
dục được đưa vào thực tiễn qua đó xây dựng nên những con người mới, những
thế hệ tương lai tươi sáng cho đất nước, cho tổ quốc.
Nhưng con đường để xây dựng thành công một con người không phải là
chuyện dễ thực hiện. Người thầy chính là một “dấu nối” quan trọng, có ý nghĩa
trên con đường đó. Muốn học trị tiếp thu bài giảng, hiểu được lời thầy nói
khơng phải là việc dễ mà phải trải qua nhiều sự chi phối vừa khách quan vừa
chủ quan. Tâm lý của người thầy có thực sự tốt thì mới thuận lợi cho việc
truyền thụ kiến thức đến cho. Phẩm chất và năng lực của người thầy có thật sự
tốt, đáng kính trọng mới tạo nên được những thế hệ học trò thực sự biết đến
truyền thống “tơn sư trọng đạo”.
Chính vì vậy, bộ môn tâm lý học được giáo dục trong trường Đại học đã
đi sâu nghiên cứu về chân dung tâm lý của người thầy, thấy rõ được chân dung
về phẩm chất và năng lực của người thầy giáo trong xã hội xưa và nay. Để hiểu
hơn một phần nào đó về vấn đề ngày nay chúng ta hãy cùng tìm hiểu nó qua đề
tài “Xây dựng chân dung tâm lý người thầy trong xã hội xưa và nay”. Phần nội
dung nghiên cứu của bài viết gồm 2 phần sau:
1. So sánh chân dung tâm lý của người thầy, hình ảnh người thầy ở
góc độ tâm lý trong xã hội nay và trước kia.
1
2. Yêu cầu về mặt phẩm chất và đạo đức của người thầy giáo trong
xã hội ngày nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên Lê Thục Anh đã tận tình hướng
dẫn, giúp tơi hồn thành đề tài này. Do cịn thiếu kinh nghiệm nên bài nghiên
cứu khơng tránh khỏi những sai sót, tơi mong được sự góp ý của thầy cô và bạn
bè.
2
B. NỘI DUNG
I. SO SÁNH CHÂN DUNG TÂM LÝ CỦA NGƯỜI THẦY, HÌNH
ẢNH CỦA NGƯỜI THẦY Ở GĨC ĐỘ TÂM LÝ TRONG XÃ HỘI XƯA
VÀ NAY.
1. Hình ảnh người thầy.
Xã hội từ xưa cho đến ngày nay vẫn ln có nhiều quan điểm khác nhau
về hình ảnh người thầy. Bên cạnh những quan điểm coi trọng người thầy đến
mức không có gì thay thế được: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” hay “khơng thầy đố
mày làm nên” thì vẫn cịn có những quan điểm cho rằng trong con đường học
tập thì bên cạnh người thầy vẫn cịn có những nhân tố khác và tầm quan trọng
của người thầy có phần giảm đi ví dụ như: học thầy khơng tày học bạn.
Người thầy giáo Việt trong truyền thống là những con người đã vắt trọn
công sức và tâm huyết để trao lại cho học trò một thứ tài sản vô cùng quý giá:
“Đạo làm người”. Thầy là người dẫn dắt con người trở thành những con người
có đạo đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng, học trị nào cũng có thể tìm thấy trong
nhân cách của mình dấu ấn của người thầy.
Người thầy là những người coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh hiền, lấy
“dạy chữ dạy người” làm lẽ sống. Họ coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí
tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ, bằng học vấn
và cơng hiến.
2. Một số hình ảnh người thầy của dân tộc Việt từ xưa đến nay.
Ai ai sinh ra trên đời này cũng đều có cha mẹ, sự trưởng thành cũng đều
có cơng lao to lớn của người thầy. Người thầy không chỉ dạy ta chữ nghĩa, kiến
thức mà còn dạy ta biết làm người cho đúng nghĩa. Nhìn lại những thời kỳ xa
xưa nền văn hiến của dân tộc chúng ta sẽ bắt gặp biết bao người thầy giáo mẫu
mực, lối lạc. Đó là những thầy giáo nổi tiếng về đạo đức, học vấn uyên thâm, về
thành tựu đã đào tạo, rèn luyện được nhiều người thành đạt, đóng góp cho việc
xây dựng đất nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao và văn hóa...
3
* Chu Văn An (1292 – 1370) là người có phẩm chất thanh cao tuyệt vời
và người ta coi ông là người thầy ví đại. Mặc dù phải trải qua biết bao thăng
trầm những phẩm chất luôn là một thầy giáo mẫu mực.
* Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là bậc hiền tài mang đủ tư cách của
một người thầy đáng để cho mọi người quý trọng. Ông giáo dục đạo đức làm
người và phê phán những thói hư, tật xấu.
* Lê Quý Đôn (1726 – 1784) được biết đến với những cơng trình văn
hóa, văn học xuất sắc và còn nổi tiếng là một nhà nho, nhà giáo dục có đức độ
tài năng.
* Bước sang thế kỷ XXI dân tộc ta lại có biết bao nhà giáo lỗi lạc, tiếp
bước những thế hệ đi trước làm rạng danh thêm nét đẹp của nhà giáo Việt như
nhà giáo Nguyễn Tất Thành, một nhà cách mạng kiệt xuất, một nhà giáo tiêu
biểu...
Nhìn lại q khứ, hiện tại, tương lai có rất nhiều thế hệ người thầy đang
cùng học trị của mình tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm chân lý mà các thế hệ
trước cịn giang dở. Những con người đó đã tạo nên nét đẹp về nhân cách, phẩm
chất đạo đức cao cả của người thầy, được nhân dân tôn vinh và quý trọng từ xưa
cho đến nay trong truyền thống dân tộc.
3. Chân dung của người thầy trong xã hội hiện đại.
Cuộc sống biến chuyển không ngừng và khi học trị ngày một lớn khơn
thì người thầy cũng khơng thể "tắm hai lần trên một dịng sơng". Sự chuyển
động của người làm công tác giảng dạy để không lỗi nhịp với sự yêu cầu của xã
hội hiện đại, với đời sống học đường hôm nay là điều cần thiết.
Người thầy trong xã hội nào cũng vậy, không tách rời hai vai trò cốt yếu
là truyền thụ kiến thức chuyên mơn và mẫu mực trong quan hệ với học trị.
Điều không bao giờ thay đổi giữa người thầy và học trò, dù ở bất cứ thời
đại nào, xã hội nào là mỗi người thầy cần giữ được đạo lý, nhân cách làm thầy.
4
Cịn trong xã hội hiện đại ngày nay, khơng giống như 10, 20 năm trước, đó là
trách nhiệm truyền thụ của người thầy cần được nâng lên theo sự phát triển
nhanh chóng của đời sống. Đó là việc người thầy cũng phải cùng với trò nỗ lực
cập nhật kịp thời những thành tựu mới của tri thức. Khi thầy yêu cầu trị có cách
học mới thì thầy cũng phải có phương pháp dạy mới, tiến bộ.
Ngay nay, rất tiếc là mới chỉ có một số ít người làm cơng tác giảng dạy
của chúng ta chủ động hoặc có khả năng tiếp nhận, ứng dụng tiến bộ của công
nghệ thông tin - truyền thông để nắm bắt được những kiến thức mới để truyền
thụ đến học trò. Đa số các thầy chưa đủ điều kiện chủ quan hoặc khách quan để
tận dụng những công cụ mới của xã hội hiện đại như CNTT vào giảng dạy,
truyền bá kiến thức…
Trong hội hiện đại đang phát triển như vũ bão, khoa học công nghệ hiện
đại và lượng tri thức sản sinh gấp bội hàng ngày; nếu thầy khơng u nghề,
khơng hết lịng, hết sức vì học trị, biết nâng tầm bản thân và sự nghiệp thì tất
yếu vai trị người đứng trước nguy cơ tụt hậu. Điều đó cịn ảnh hưởng đến tri
thức của trị và nền giáo dục nói chung. Có thể xã hội ta còn thiếu những điều
kiện cần thiết cho thầy nhưng trước hết khi người thầy biết động viên học trị
vươn lên thì thầy cũng phải “vượt lên chính mình”.
Cịn nếu coi người “thầy” của các thầy cơ là các nhà quản lý giáo dục thì
vai trị, trách nhiệm của người “thầy” quản lý ấy cũng là rất quan trọng trong
việc vạch ra và thực hiện bằng được những tầm nhìn mới, triết lý mới sáng rõ
cho giáo dục nước nhà. Nhưng tất nhiên, đây sẽ là câu chuyện khác, rất dài…
Đã có nhiều ý kiến khi nói đến hình ảnh người thầy trong xã hội hiện nay như ý
kiến của nhà thơ Đỗ Trung Quân:
Người thầy hiện đại hãy quay về một điều rất cổ điển: làm gương cho học
trị. Thầy nói được gì thì phải làm được cái đó. Thầy nói “trị khơng được ăn
cắp” thì thầy cũng không bao giờ được làm thế, dù với bất cứ hoàn cảnh nào.
5
Thầy nói “trị hãy học tiếng Anh đi” thì việc đầu tiên là thầy chăm chỉ cắp sách
đi học tiếng Anh nếu trước đó khơng có điều này.
Ở Mỹ, nếu thầy lạm dụng học trị thì sẽ bị kiện ra tịa ngay; ở Việt Nam
ta, nếu tình cảm giữa thầy và trị bị tổn thương khơng thể hàn hắn được thì khi
đó cũng cần đến pháp lý như thế.
Khi thầy phải ra thầy trước rồi học trò mới ra học trị được. Điều này
cũng giống như cha mẹ khơng làm gương thì làm sao con có thể nên người.
Nếu thầy khơng ra thầy, phải đi sau lưng học trị, đạo đức tuột giảm, coi
học trò là một thứ để lạm dụng thì khơng xứng đáng với nghề nghiệp mà xã hội
thường cho là “cao q”.
Thật đau lịng khi trong mơi trường học đường đã phải chứng kiến những
cảnh như thầy ép học trị “đổi tình lấy điểm”, đánh đập học sinh, thầy không
thỏa mãn khi “chạy” tiền dưới mức yêu cầu hay là nói dối nhiều lần và trơn
tru...
Người thầy thuở xưa có thể khơng biết dùng computer, khơng rành ngoại ngữ
nhưng thầy không ăn cắp, không đi bia ôm và vơ tình sỗ sàng với đúng cơ học
trị nghèo của mình phải đi làm thêm mà "thầy" khơng biết mặt.
Bây giờ hai từ “đạo đức” được đem ra xài quá nhiều đến mức lạm dụng;
vậy mà những câu chuyện về người thầy vô đạo đức vẫn không ngừng bị phanh
phui. Khi thầy vơ đạo đức thì đó khơng phải “con sâu làm rầu nồi canh” và cũng
không thể đem ra đo đếm xem con số các thầy chưa tròn chữ "đạo" ấy thuộc
mấy phần trăm trong ngành sư phạm - như cách tính trong tốn học. Đây là vấn
đề thuộc về con người, cho dù là thiểu số thôi thì cũng ảnh hưởng lớn tới cả xã
hội.
Nói những điều ấy để thấy người thầy trong xã hội ngày hôm nay cần
thấy rõ hơn vai trị, trách nhiệm của mình như thế nào và chuyện “làm thầy ra
thầy” có ý nghĩa ra sao…
6
Nhưng thật tiếc là ngày nay, không phải ai trong số những người làm
nghề giáo cũng đều ý thức và thực hiện tốt được sứ mạng cao q của mình.
Có quá nhiều những trường hợp người làm nghề giáo “không biết mình là
ai” như thế: nào mua bằng bán điểm, nào quấy rối nữ sinh, nào bạo hành người
học, nào sao chép luận văn... Để rồi, trong các bản báo cáo, các bài diễn văn
thì những trường hợp nhan nhản này lại được giảm nhẹ thành “một bộ
phận”, chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”...
Lối tư duy hình thức chủ nghĩa (thiếu thật thà) ấy, chính là vấn nạn lớn
nhất rất cần nhanh chóng thay đổi của ngành giáo dục, của mỗi người đứng lớp;
cũng là vấn nạn lớn nhất đối với chúng ta trong tiến trình phát triển.
Khi một ơng thầy khơng tự đặt mình vào vị thế CAO QUÝ như sứ mạng
mình đang nắm giữ, cũng tức là ơng ta đang tự “đồng hóa” mình với vị thế
ngược lại. Nói cách khác, sứ mạng của người thầy xưa nay luôn cao quý. Vấn
đề là những ông thầy cụ thể sẽ thực hiện sứ mạng đó như thế nào để xứng đáng
hay không xứng đáng được tôn vinh trong xã hội.
4. Một số vấn đề tồn tại của ngành giáo dục nói chung, người thầy
giáo nói riêng trong xã hội hiện nay.
Bên cạnh những nét đẹp về hình ảnh người thầy nói riêng và cả ngành
giáo dục nói chung thì vẫn cịn tồn tại những “lỗ hổng” về giáo dục và phẩm
chất, nhân cách của người thầy giáo mà chúng ta khơng thể khơng nói đến.
Chuyện đức hạnh người thầy là chuyện không nhỏ. Chuyện lớn là chuyện
dạy chữ - dạy người. Chuyện lớn nhất là chuyện chấn hưng kinh tế- xã hội, đặc
biệt là văn hoá. Đó là bức xúc, là lý giải của một cây bút giáo dục kỳ cựu trong
Thư Hà Nội hôm nay...
Chưa bao giờ, giáo dục đất nước bị nhiều tổn thất như bây giờ. Tổn thất
về chương trình giáo dục , với những tranh cãi bất tận về sự sai đúng trong mô
7
hình, trong phương án, trong nội dung, chương trình, sách giáo khoa. Tổn thất
về chất lượng giáo dục, giữa những tỷ lệ % học thật và tỷ lệ % đỗ ảo, với căn
bệnh thành tích đã trở thành vấn nạn. Tổn thất về thi cử, với sự kiện điển hình
về thói gian lận thi cử tại Hà Tây, và có thể cịn có nhiều “ Hà Tây” khác...
Nhưng đặc biệt là sự tổn thất về phẩm cách nhà giáo.
Có ai đó đau xót ví Giáo dục giờ như tấm áo mục, vá chỗ này bục chỗ
kia. Từ đầu năm đến nay, hàng chục vụ việc cô giáo, thầy giáo bị cơ quan chức
năng truy tố trước pháp luật: cô giáo tiểu học lừa đảo, thầy giáo THCS đi ăn
cướp... Tệ hại hơn, đức hạnh người thầy bị hoen ố trước con mắt xã hội ngày
càng có nguy cơ "leo cao”, và “đào sâu” về nhiều phương diện.
Khơng chỉ có một ông giám đốc sở Giáo dục và Đào tạo bị cách chức vì
3,2 tỷ đồng để ngồi sổ sách. Mà có cả một ơng giám đốc sở kiêm đại biểu
Quốc hội bị bắt giam vì tội tiếp tay cho lừa đảo. Khơng chỉ có một chun viên
sở Giáo dục và Đào tạo, nguyên là Giám đốc (lại giám đốc) một cơng ty sáchthiết bị giáo dục bị bắt vì tội mua dâm vị thành niên một cách có tổ chức, mà sự
kiện mới đây nhất - ơng thầy Phó chủ nhiệm khoa báo chí trường cao đẳng nọ
địi nữ sinh viên đổi “ tình” lấy điểm với những nhân chứng, vật chứng không
thể chối cãi.
Dĩ nhiên, những ông thầy mất nhân cách, thiếu đức hạnh như họ đã và sẽ
phải trả giá. Ơng thầy Đỗ Tư Đơng ngay lập tức bị thơi việc. Nhưng ở một đất
nước có truyền thống trọng đạo học, trọng đạo thầy trò, với những lời hay ý đẹp
như hoa, như gấm: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thày đố mày làm nên”,
“Sang sơng thì bắc cầu Kiều. Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”... thì liên
tục những vết nhơ trên là nỗi đau, nỗi nhục cho cả ngành Giáo dục.
Phải chăng, sự tổn thất về con người nói riêng, sự khủng hoảng về Giáo
dục nói chung phản chiếu sự bất ổn của cả nền kinh tế- xã hội, đặc biệt là sự
hỗn tạp về quan niệm các giá trị văn hoá, đang trong công cuộc đôỉ mới, lột xác
8
đầy đau đớn. Nó vừa là hệ luỵ tất yếu của cái cũ, vừa là sự trớ trêu khi tiếp cận
cái mới, trong đó có cả mặt trái rác rưởi của nền kinh tế thị trường?
Con người vốn là tổng hồ mối quan hệ xã hội. Từ góc độ giáo dục, con
người còn là sản phấm kết tinh của ba mơi trường : gia đình – nhà trường – xã
hội. Nhưng tiếc thay, cả ba môi trường giáo dục này đều có những lỗ hổng rất
lớn.
Lỗ hổng xã hội. Văn hoá là nền tảng, là hệ thống những giá trị tinh thần
của một xã hội, mà giáo dục chỉ là một phạm trù, một tiểu hệ thống. Cũng có ý
kiến cho rằng giáo dục là tác giả, quyết định xã hội, vì thế chúng ta mới xác
định giáo dục là “động lực phát triển”. Điều đó cũng đúng, nhưng đúng ở góc
độ nguồn lực xã hội. Cịn ở các thang bậc giá trị đạo đức, tinh thần, tôn giáo,
triết học...văn hố xã hội ln là nền tảng, văn hố xã hội thế nào, giáo dục thế
ấy. Xã hội “hư”, giáo dục rất khó có thể “ngoan”.
Trong cuộc hội nhập quốc tế và tồn cầu hố, chưa phải là kinh tế, mà
chính là văn hố một dân tộc, một đất nước sẽ bị “ xâm lăng”, bị tồn cầu hố
trước tiên bởi đặc thù những thang bậc giá trị tinh thần của nó. Sự “xâm lăng”
về văn hố vừa rất nhanh chóng dưới các phương tiện kỹ thuật, thơng tin ồ ạt,
vừa đa dạng, vừa phức tạp, vừa công khai, vừa ngấm ngầm với nhiều diện mạo,
nhất là quản lý văn hoá xã hội đất nước vừa non tay vừa lỏng lẻo.
Nền tảng văn hoá của một xã hội phong kiến, trải qua chiến tranh liên
miên, “cái cũ” ( kể cả cái cũ chuẩn mực) do ngộ nhận, do ấu trĩ bị xố bỏ khơng
thương tiếc, nhưng “cái mới”, với cả sự định hình cùng thiết chế, vận hành lại
mù mờ, bấy bớt, không đủ sức định hướng từ nhận thức đến lối sống.
Những rác rưởi của thời đại toàn cầu hoá dễ dàng táp vào đời sống con
người tưởng đâu đó mới là văn minh, hiện đại. Nó khơng chỉ khiến con người ta
vốn mỏng manh về nhận thức, dễ tha hố về nhân cách, mà nguy hiểm hơn xơ
đẩy con người ta vào tội ác. Hàng ngày giở trang báo người ta kinh hoàng về số
9
lượng các vụ án, tội phạm, diện mạo tội phạm, quy mơ tội phạm, tính chất phức
tạp của tội phạm.
Có một lý do dễ dàng nhất là đổ lỗi cho mặt trái của nền kinh tế thị
trường. Nhưng có một lý do khó nhận biết hơn, mà đây mới là căn bản: nền tảng
văn hoá xã hội được thiết lập như thế nào để định hướng lối sống xã hội, lối
sống cá nhân? Giáo dục trên cái nền tảng văn hoá vốn đã mong manh, lại chịu
chung những rác rưới của thời hội nhập, khó có thể là một cái “ boong- ke”
vững chãi bởi GD cũng đầy lỗ hổng.
Lỗ hổng giáo dục. Dạy người là sứ mệnh cao quý nhất mà xã hội tin cậy
trao cho ngành Giáo dục. Nếu nói giáo dục quyết định, “sản sinh” ra xã hội
chính là ở chỗ với chức năng đào tạo, giáo dục “tái tạo ra văn hoá” dưới một
tinh thể khác, một sự biến đổi về chất khác, đó là những thế hệ con người trẻ
tuổi có tri thức, có trí tuệ, có phẩm chất và tâm hồn lành mạnh xây dựng xã hội
mới. Nhưng tiếc thay, vì rất nhiều lý do trong cơ chế vận hành, chức năng giáo
dục đã bị méo mó, bị lợi dụng để trục lợi, vơ hình chung góp phần dạy nói dối,
dạy thói giả dối cho con trẻ từ thuở bé.
Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm tuổi thơ, cô giáo tôi, vào trước buổi dự giờ của
cấp trên, đã căn dặn cả lớp: “Ngày mai có cấp trên về dự giờ. Khi cơ hỏi, tất cả
lớp phải giơ tay, cho có khơng khí học tập. Nhơng cô sẽ chỉ hỏi những bạn học
giỏi thôi, các em đừng lo, cứ giơ tay hết!”. Rồi cô gọi những bạn học giỏi ra căn
dặn. Kịch bản đã diễn ra đúng như cô giáo mong muốn. Đây chỉ là một trong vô
vàn những câu chuyện minh chứng căn bệnh thành tích xuất hiện từ rất lâu, chứ
khơng phải bây giờ nó mới xuất hiện như khi người ta phát hiện.
Nhưng về bản chất tạo ra nguồn lực lao động, giáo dục bao giờ cũng là
“động lực” phát triển. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, có rất nhiều cuộc cách
mạng bứt phá lên của các dân tộc đều bắt đầu từ cải cách giáo dục. Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan... đều vượt lên chính mình trước hết bằng giáo
dục.
10
Cịn ở đất nước ta, cơng bằng mà nói, cuộc cải cách giáo dục 1980, với
cái được rõ nhất là đổi mới hệ thống giáo dục (từ 10 năm sang 12 năm). Nhưng
trong công cuộc cải cách ấy, dường như giáo dục chỉ đổ xô vào dạy chữ, (bắt
đầu bằng cải cách chữ viết, cũng giống như sau này, tại công cuộc đổi mới giáo
dục, ngành cũng lại bắt đầu bằng thay đổi trật tự từ chữ a sang chữ e, để lại bao
tiếng cười chê), mà quên mất phần dạy người.
Hàng chục năm sau, người ta mới tá hoả phát hiện chương trình, nội
dung, SGK quá nặng, phải giảm tải. Cịn dạy người thì sao?. Tơi nhớ mãi câu
hỏi của con trai tôi: “Mẹ ơi, sách giáo dục công dân có viết: xã hội ta giờ có
nhiều người chân ngồi dài hơn chân trong. Thế chân ngồi là gì và chân trong
là gì hả mẹ?”. Tơi đã phải mất rất nhiều thời gian để giải nghĩa mà xem chừng
con tơi chưa hiểu hình ảnh “chân ngồi” với “chân trong” theo trí óc, tư duy non
nớt của nó.
Trường sư phạm là nơi đào tạo người thầy, lại là nơi tuyển những học
sinh khơng hề thích học sư phạm, chỉ bởi đã chạy “cùng sào”. Việc rèn nghề sư
phạm như thế nào? Tơi chỉ chọn một góc văn hố nhỏ. Ây là lần tôi đi cùng một
giảng viên nữ vào khu ký túc xá nữ sinh của một trường sư phạm. Ơi thơi,
chúng tơi tồn phải đi dưới những cái dây phơi chăng ngay trong hành lang treo
đầy đồ lót, váy, quần nữ sinh viên. Và vào thử toa lét, tôi đã không thể chịu
đựng nổi bởi sự bẩn thỉu, bừa bãi, vô ý thức của người sử dụng.
Những sinh viên sư phạm nay mai sẽ làm thầy, mà họ không được uốn
nắn từ văn hoá lối sống, nếp sinh hoạt là những điều rất cơ bản của con người.
Vậy nghiệp vụ sư phạm phải chăng chỉ là những tình huống sư phạm trên lớp,
quanh bài giảng? Họ sẽ dạy trẻ sống và làm người như thế nào? Công cuộc đổi
mới giáo dục phổ thông hiện nay mới triển khai từ năm 2000, đã vấp hết sai lầm
này đến sai lầm khác, và cũng lại bắt đầu từ việc dạy chữ, từ chương trình, sách
siáo khoa.
11
Lỗ hổng gia đình. Con người là sản phẩm đầu tiên của giáo dục gia đình,
và ngược lại gia đình cũng là cái nôi nuôi dưỡng đầu tiên của con người. Từ góc
độ xã hội, gia đình là tế bào của xã hội. Nhưng tiếc thay, khi nền tảng văn hố
xã hội đã yếu, đã lỏng lẻo thì những tế bào xã hội này lại là nơi xung yếu nhất
cho các loại vi rút xâm nhập. Với những thăng trầm đầy biến động của thời
cuộc, giáo dục gia đình lăn lóc từ cư chế bao cấp sang cơ chế thị trường, và ở
bất cứ cư chế quản lý nào, thì giáo dục gia đình vẫn là khâu yếu nhất.
Những lỗ hổng lớn của giáo dục từ ba môi trường : xã hội – nhà trường –
gia đình như vậy làm sao tạo nên sự đầy đặn về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách con
người?. Chuyện đức hạnh người thầy là chuyện không nhỏ. Chuyện lớn là
chuyện dạy chữ - dạy người. Chuyện lớn nhất là chuyện chấn hưng kinh tế- xã
hội, đặc biệt là văn hố.
5. Hình ảnh người thầy giáo ở góc độ xưa và nay.
Khác với các hoạt động khác, hoạt động của người thầy giáo nhằm làm
thay đổi con người. Do vậy, mối quan hệ thầy trò nổi lên như một vấn đề quan
trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng một
cách trực tiếp đến chất lượng dạy học. Nếu người thầy giáo xây dựng được mối
quan hệ với học sinh, sao cho qua đó khơi dậy ở họ tính tích cực của hoạt động
thì chắc chắn chất lượng dạy – học sẽ được nâng cao. Hơn nữa người thầy giáo
giáo dục học sinh không nhưng bằng hành động trực tiếp của mình mà cịn bằng
tấm gương của cá nhân, bằng thái độ và hành vi của chính mình đối với hiện
thực. Để làm điều đó, thầy giáo một mặt phải biết lấy những quy luật khách
quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác phải có
phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Trong những phẩm chất đó, ta
có thể nêu lên những phẩm chất đạo đức và ý chí khơng thể thiếu đó là: tinh
thần, nghĩa vụ, tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì minh, thái độ nhân
đạo, lịng tơn trọng, thái độ cơng bằng chính trực, tính tình ngay thẳng, giản dị
và khiêm tốn, tính mục đích, nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tự kiềm chế biết tự
12
chiến thắng những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho
thích hợp với các tình huống sư phạm...
Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự cân bằng theo quan
điểm sư phạm trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trị. Những phẩm chất
ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo
thành hiện thực và tác động xâu sắc đến học sinh.
Nếu như một thời gian dài, với những thế hệ học trị, lời của thầy là
“thánh chỉ” thì hiện nay, trong dạy và học, “ngôi” trung tâm đã thuộc về những
người ngồi dưới bục giảng.
Quả thực, trước thời kỳ cải cách giáo dục, người thầy được coi là nhân
vật tâm điểm trong dạy và học. Người thầy quyết định sự đúng sai, thầy giảng
giải, học trò lắng nghe, đọc chép.
Nhưng hiện nay, vai trò này thuộc về học sinh - người thầy chỉ là người
hướng dẫn, chỉ đạo để học sinh lĩnh hội kiến thức. nói như vậy khơng có nghĩa
là thầy là thứ yếu, nếu khơng có người thầy, khó có thể nói đến chất lượng giáo
dục.
Người làm nghề giáo được xã hội trân trọng gọi bằng từ “thầy” - trân
trọng không chỉ bởi thầy là người truyền đạt tri thức mà cịn u mến vì nhân
cách, vì thầy là tấm gương mà trò noi theo.
Vậy nhưng gần đây, khơng ít những vụ bạo lực học đường đã diễn ra
khiến dư luận phẫn nộ, những vụ đi cửa trước, chạy cửa sau để con cái được
điểm cao, vào trường tốt… cũng làm nhiều người mất đi phần nào niềm tin vào
nhân cách nhà giáo. Liệu có phải người thầy đã tự đánh mất mình và “xuống
cấp”?
Theo thầy Nguyễn Viết Thịnh – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà
Nội tâm sự: “Ngày xưa có chuyện thầy phạt trị nhưng cũng chỉ dừng ở những
hành động như tét vào tay, bắt quay mặt vào tường…
13
Có một thế hệ các thầy hết sức đáng kính trọng. Những thế hệ ấy có
người đã được đặt tên phố, những tấm gương của những người tự học, tận tuỵ
đúng như từ “Phụng sự tổ quốc”. Thực sự đã có những con người đó. Lịch sử đã
đặt lên vai hị nhiệm vụ khai phá, đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục mới của
đất nước...
Bây giờ khơng có thì khơng đúng. Thường các đánh giá càng lùi xa càng
có giá trị. Có thể hơm này cũng tiếp xúc những người thầy bình dị khác. Giáo
dục phổ thơng, ĐH lớn hơn nhiều”.
“Một giáo viên đánh học sinh được truyền thông nhắc đi nhắc lại quá
nhiều, trong khi một người thầy thương binh miệt mài dạy học trị liệu có được
truyền đi với tần số bằng 1/10 không?
Là người trong ngành và đi nhiều, tôi vô cùng trân trọng những người đó.
Họ thực sự đem lại hạnh phúc cho trẻ thơ. Truyền thơng phải nhắc nhiều hơn
những người thầy đó, những giáo viên ở các vùng nghèo. Những người hết lịng
vì ngành sẽ cảm thầy bị xúc phạm nếu như suốt ngày truyền thông nhắc đến tấm
gương xấu kia” - thầy Thịnh bày tỏ.
Quả thực, nhân cách nghề giáo là vấn đề được nhắc đi nhắc lại khá nhiều
hiện nay. Chúng ta vô cùng tức giận, và bi quan về những kẻ đội lốt thầy giáo.
Nhưng nhìn lại, những người đó cũng chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh,
trong nhà trường những người tâm huyết với nghề còn nhiều gấp hàng trăm
ngàn lần.
Thực tế, trong mắt của học trò, hình ảnh người thầy hiện đại gần gũi hơn,
đời thường hơn, nhưng những người thầy nhân cách, tận tâm với nghề và hết
lịng u thương học trị vẫn ln là thần tượng của học trị.
Cũng có những người thầy khơng có lương tâm nhưng đó chỉ là số ít.
Trong mắt học trị, thầy cơ vẫn rất thân thương”.
14
II. YÊU CẦU CỦA XÃ HỘI NGÀY NAY VỀ MẶT PHẨM CHẤT
VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO.
Ai cũng biết, chất lượng đội ngũ giáo viên (thể hiện ở đạo đức nghề giáo
và năng lực dạy học) là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định chất lượng đào tạo.
Qua hàng nghìn năm ni các thế hệ con em ăn học, cha ông ta đã tổng
kết "Thầy nào trị đó". Khơng phải ngẫu nhiên mà xưa kia, các bậc cha mẹ tìm,
chọn thầy cho con rất kỹ lưỡng: phải là những thầy "văn hay, chữ tốt", có nhân
cách, có ảnh hưởng rộng lớn trong làng xóm.
Điều quan trọng nhất, họ lấy sự thành đạt của học trò làm niềm vui, vinh
dự nghề nghiệp và cũng là sự thành đạt của mình. Khơng một tổ chức, cơ quan
chun mơn hay cơ quan hành chính nào quản lý, giám sát việc dạy của các
thầy, nhưng các thầy luôn biết "giữ mình".
Để hành nghề được lâu dài tại một vùng quê, họ một mặt phải đem hết
tâm huyết để dạy học trò, truyền cho trò tất cả vốn kiến thức và kinh nghiệm
mình có để trị học hành tiến bộ và thành đạt; mặt khác luôn biết giữ và nêu
gương về nhân cách, lối sống.
Xưa kia, ít có hiện tượng thầy lợi dụng nghề nghiệp, cương vị của mình
để "vịi vĩnh" trị và gia đình học trị kiếm lợi. Chính vì thế, các thầy giáo luôn
được coi là những bậc mẫu mực, có ảnh hưởng lớn với học trị, được học trị
kính trọng suốt đời "sống Tết, chết giỗ".
Các thầy cũng có uy tín lớn trong cộng đồng làng, bằng vốn kiến thức
được trang bị, bằng tấm lòng với học trò và bằng nhân cách của mình. Trong hầu
hết các cơng việc của cộng đồng, dân làng, đến cả các chức dịch cũng thường
hỏi ý kiến thầy, trước khi đưa ra quyết định thực thi.
Trong nền giáo dục mới, các thầy giáo, cô giáo được phân công giảng dạy
theo bộ môn, trường lớp, chịu sự quản lý của Nhà nước, thông qua ngành giáo
15
dục mà trực tiếp là Ban giám hiệu, tổ chức Đảng, Cơng đồn, đồn thanh niên
trong nhà trường.
Khơng thể phủ nhận được vai trò to lớn của đội ngũ các nhà giáo đối với
những thành tựu của nền giáo dục mới và sự thành đạt của bao lớp học trò trong
mấy chục năm qua. Đã có biết bao người thầy khơng màng danh lợi, sống đạm
bạc, suốt đời vì sự nghiệp đào tạo học trị, có nhiều học trị thành đạt. Nhiều
người được nhận các danh hiệu cao quý "Nhà giáo Nhân dân", "Nhà giáo Ưu
tú".
Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là từ khi nền kinh tế xã hội chịu nhiều tác động của những mặt trái của cơ chế thị trường thì một bộ
phận giáo viên, nhất là giáo viên ở các thành phố, thị xã đã sa sút phẩm chất, xa
rời đạo lý của người thầy, coi nghề nghiệp và cương vị làm thầy của mình là
"bảo bối" để "làm kinh tế".
Họ giảng cầm chừng ở giờ học chính, dành phần kiến thức chính để "phụ
đạo" học sinh tại nhà riêng, ép buộc học sinh phải học thêm. Nhiều thầy giáo lợi
dụng uy tín của mình để mở các trung tâm luyện thi, thu nhập rất cao.
Khơng ít trung tâm treo biển bên ngồi gồm các chun gia, thầy giáo có
tiếng, nhưng thực chất lại do những người có trình độ non kém giảng dạy. Sự sa
sút đạo lý làm thầy trên đây là một trong những nguyên nhân chính yếu nhất dẫn
đến chất lượng giáo dục đại trà giảm sút, quan hệ thầy trị xuống cấp.
Vì những lý do trên, ngành giáo dục cần có những biện pháp nâng cao
phẩm chất đội ngũ giáo viên, mà điều quan trọng là phải có cơ chế ràng buộc
trách nhiệm của giáo viên thông qua chỉ tiêu về kết quả học tập của học sinh ở
lớp hay bộ môn mà từng người đảm nhận dạy, có chế độ khen thưởng hay kỷ
luật thỏa đáng. Kiên quyết không để người không đủ năng lực chuyên môn, tư
cách đạo đức kém đứng trên bục giảng.
Ngày nay với sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động không
nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung, đạo đức người thầy nói riêng. Sự tác động
16
hai mặt của kinh tế thị trường đang làm cho đạo đức xã hội biến đổi theo hai
chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Vì vậy, mỗi người thầy giáo Việt Nam trong
điều kiện hiện nay, để tiếp nối được truyền thống đạo đức cao đẹp của người
thầy giáo; để xứng đáng với lịng mong đợi của tồn xã hội; để đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển thì phải khơng ngừng trau
dồi, hồn thiện bản thân cả đức lẫn tài để đáp ứng được những đòi hỏi và kỳ
vọng của xã hội.
Mỗi người thầy giáo cần phát huy những phẩm chất cao đẹp của người
thầy giáo trong truyền thống dân tộc. Mỗi người thầy giáo hơm nay cũng ln
phải là người có lịng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ trẻ mà hành
động, phấn đấu. Hành nghề vì sự nghiệp giáo dục chứ khơng phải vì quyền lợi
vật chất. Họ cũng luôn luôn phải là người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn
khí tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ chứ khơng
phải bằng quyền lực chính trị, bằng tiền bạc… Họ phải là những người rất coi
trọng tri thức, coi trọng chữ nghĩa, tơn thờ đạo thánh hiền.
Ơng thầy ngày nay vừa phải chú trọng tri thức khoa học vừa phải biết kết
hợp với thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc về “sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn”, nói đi đơi với làm, học đi đơi với hành. Mỗi người thầy không những
phải trang bị cho học sinh tri thức mà cịn phải giúp họ tìm được phương pháp
học tập và làm việc có hiệu quả cao.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới,
trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội
nói chung và việc lưu giữ, phát huy những giá trị cao đẹp của đạo đức người
thầy trong truyền thống nói riêng; Để tạo ra một lớp người Việt Nam cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa nước ta hội
17
nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững, là nhiệm vụ
của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trị khơng nhỏ.
Để hồn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải khơng
ngừng tự đổi mới, hồn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức
quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác
“dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không
ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải
làm sao để mỗi người thầy không những là nhà sư phạm mà cịn là nhà mơ
phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm,
thành cơng khơng kiêu căng, thất bại khơng nản chí, thương yêu, gần gũi học
sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những “tấm
gương sáng cho học sinh noi theo”.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh- đó là
nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị gốc
“giá trị sinh ra mọi giá trị”. Những người thầy giáo của hôm nay và mai sau hãy
tự hào với truyền thống vẻ vang của nghề mình và cùng chung sức để làm cho
truyền thống đó ngày càng được tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây dựng đất
nước giàu mạnh, phồn vinh.
18
C. KẾT LUẬN
Năng lực cũng như đạo đức, phẩm chất của người thầy giáo có ý nghĩa vơ
cùng quan trong trong con đường giảng dạy. Người thầy vừa dạy chữ, dạy người
cho học sinh. Chúng ta đều nhận biết được rõ ràng rằng: Nếu một người có chân
dung tâm lý bản thân tốt cũng đồng nghĩa với việc người thầy đó có đủ năng lực,
phẩm chất và nhân cách để ngày ngày đứng trên bục giảng, giảng dạy cho học
sinh của mình.
Cũng có một thực tế khơng thể chối cãi được rằng nếu học sinh được học
hỏi những người thầy có chân dung tâm lý tốt như vậy thì người học sinh đó sẽ
tiếp thu tốt lời thầy dạy, qua phấn đấu và sẽ dễ dàng trở thành những học sinh
tiên tiến, đậu đạt và sẽ là người có ích cho xã hội. qua đó chúng ta cũng khơng
thể phủ nhận được một điều là nếu chân dung tâm lý của chính bản thân người
thầy khơng tốt cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chân dung tâm lý của cả một
thế hệ học trị.
Qua những phân tích đã được nêu ra trong bài viết này hẳn độc giả cũng
cảm nhận được đơi điều về tình hình thực tế chân dung – những phẩm chất về
đạo đức, nhân cách cũng như năng lực của người thầy giáo trong xã hội Việt
Nam ta ngày xưa và hiện nay. Một kết luận chung được rút ra đó là: Nếu như xã
hội ngày xưa người thầy là những bậc thánh hiền với những thầy giáo lỗi lạc, vĩ
đại thì ngày nay có một số hình ảnh người thầy đang dần phai nhạt trong lịng
học trò voeis một bộ phận người thầy đang dần sa sút về đạo dức, nhân cách.
điều đó đang trở thành một vấn nạn của cả xã hội nói chung và ngành giáo dục
hiện nay. Xã hội đang lên án hình ảnh những người thầy có chân dung tâm lý
bản thân xấu và xin có một thơng điệp nhỏ gửi tói mọi người, để mọi người hãy
cùng suy ngẫm: Hãy cùng chung tay góp một phần cơng sức để chống lại những
sa sút về đạo đức nhân cách của người thầy để xây dưng nên một hình ảnh
người thầy thật sự có ý nghĩa. Để mỗi khi tiếng thầy vang lên trong mỗi chúng ta
là hiện lên một người thầy với một chân dung tâm lý thật sự đáng kính trọng.
19
Bài học rút ra cho bản thân
Là một sinh viên đang ngồi trên ghế giảng đường đại học hơn thế nữa tôi
lại là một sinh viên đang theo ngành sư phạm- tương lai của tôi cũng sẽ là một
“người thầy” đi gieo cái chữ cho học trò, người đi gieo mầm cho nhiều thế hệ
học sinh, bởi vậy nên tôi luôn luôn cố gắng phấn đấu học tập chăm chỉ và rèn
luyện thật tốt để xứng đáng là một sinh viên của trường Đại học Vinh với 50
năm xây dựng và trưởng thành, xa hơn là đẻ sau này trở thành một người thầy có
năng lực giỏi, nhân cách và phẩm chất thật sự tốt góp một phần nhỏ cơng sức
của mình cho ngành giáo dục để truyền thụ cho học trò thật nhiều kiến thức, sản
xuất được thật nhiều sản phẩm- đó chính là nhân cách của học sinh, góp phần
xây dựng đất nước ngày một phát triển hơn nữa.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học đại cương (Phần III, Nhân cách và sự hình thành nhân
cách), Nguyễn Quang Uẩn, NXB ĐHQG Hà Nội.
2. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm (Phần IV, Tâm lí học và
nhân cách của người thầy giáo), Lê Văn Hồng, NXB ĐHQG Hà Nội.
3. Bài tập thực hành tâm lý học, Trần Trọng Thủy, NXB ĐHQG Hà Nội.
21