Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

NHAN CACH NGUOI THAY GIAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.84 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Bố cục đề tài.....................................................................................................2
CHƯƠNG I. QUAN NIỆM NHÂN CÁCH Ở VIỆT NAM..............................3
CHƯƠNG II. SỰ CẦN THIẾT TRAU DỒI NHÂN CÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI THẦY GIÁO.........................................................................................4
2.1. Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh do những
yêu cầu khách quan của xã hội quy định..........................................................4
2.2. Thầy giáo, người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo.......................4
2.3. Thầy giáo là cái "dấu nối" giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với việc
tái tạo nền văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ:..................................................5
CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO.........7
3.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người:.................................7
3.2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình...........................7
3.3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội.........................................7
3.4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao:..........8
CHƯƠNG IV. PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC, NĂNG LỰC, UY TÍN NGƯỜI
THẦY GIÁO........................................................................................................9
4.1. Một số phẩm chất cao đẹp của người thầy giáo.........................................9
4.2. Năng lực, uy tín của người thầy giáo:.......................................................10
CHƯƠNG V. THỰC TRẠNG NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO
TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY...........................................................................13
CHƯƠNG VI. LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ ỨNG DỤNG VÀO DẠY HỌC.........18

0


LỜI MỞ ĐẦU


1


1. Lý do chọn đề tài
Nhà giáo dục học vĩ đại Cơ-men-xki đã từng nói: “Dưới ánh mặt trời,
khơng có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục, khơng có giáo dục
thì khơng có cán bộ, khơng có cán bộ thì khơng nói gì đến kinh tế - văn
hố”. Những câu nói của những bậc hiền triết khiến chúng ta phải suy nghĩ
về nghề giáo nói chung và người thầy nói riêng. Trong xã hội hiện đại hơm
nay, vai trị của người thầy giáo lại càng được đề cao hơn. Hơn nữa, trong
thực trạng xã hội mà giá trị đạo đức của con người đang bị đặt những dấu
hỏi lớn thì nhân cách người thầy giáo lại càng là vấn đề đáng lưu tâm của
ngành giáo dục và toàn xã hội. Như chúng ta đã biết, sản phẩm của giáo dục,
dạy học là con người, là thế hệ tương lai của dân tộc, vì vậy, không được phép
tạo ra “phế phẩm”. Một người công nhân tồi có thể làm hỏng một vài sản phẩm,
một người kỹ sư tồi có thể làm hỏng một vài cơng trình, nhưng, một người giáo
viên tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ, đó là hậu quả khơn lường mà cả xã hội
phải gánh chịu cho đến tận mai sau. Vì vậy, Bác Hồ nhận định: “Có thầy giỏi
thì rồi sẽ có phương pháp hay, do đó, sẽ có trị giỏi, cịn thầy đã kém thì khó
lấy gì bù đắp nổi”. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề liên
quan đến chất lượng giáo dục, đạo đức người giáo viên...đang đặt ra những vấn
đề cần suy nghĩ. Là một sinh viên sư phạm, thiết nghĩ bản thân mình cần phải
trau dồi một nhân cách tốt đẹp để trong tương lai có thể trở thành một người
thầy giáo có ích cho xã hội. Chính từ suy nghĩ đó tơi đã thực hiện bài tiểu luận
này với mong muốn góp thêm một phần tiếng nói của mình trong việc tuyên
truyền xây dựng một thế hệ nhà giáo tương lai với những phẩm chất cao cả,
xứng đáng với danh hiệu “nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý”

2. Bố cục đề tài.

2


Trong đề tài này tôi đã thể hiện thực trạng nhân cách giáo viên theo các
chương sau đây:
Chương 1. Quan niệm nhân cách ở Việt Nam.
Chương 2. Sự cần thiết trau dồi nhân cách đối với người thầy giáo.
Chương 3: Đặc điểm lao động của người thầy giáo.
Chương 4. Phẩm chất đạo đức, năng lực, uy tín người thầy giáo.
Chương 5. Thực trạng nhân cách người thầy giáo trong xã hội hiện nay.
Chương 6. Liên hệ thực tế và ứng dụng vào dạy học

CHƯƠNG I. QUAN NIỆM NHÂN CÁCH Ở VIỆT NAM
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng

3


lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
- Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu
hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hồ khơng
phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con
người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và
cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Quan niệm nhân cách đã giúp mỗi con người trong chúng ta phần nào
hình dung ra những gì bản thân cần làm, cần cố gắng thực hiện để có được một

nhân cách tốt đẹp, tránh sa chân vào những thói hư, tật xấu để rồi nhân cách bị
tha hóa, con người trở nên xấu xa. Quan niệm về nhân cách cũng chính là quan
niệm làm người của mỗi cá nhân. Chúng ta hãy sống sao cho tốt để bản thân
khơng phải chịu sự dày vị, dằn vặt, sống sao cho xứng đáng. Là một sinh viên
sư phạm, bản thân chúng ta càng cần xây dựng một nhân cách tốt đẹp, đó là một
trong những yếu tố quan trọng để trong tương lai chúng ta sẽ trở thành những
người thầy, cơ giáo đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển, tiến
bộ của nước nhà.

4


CHƯƠNG II. SỰ CẦN THIẾT TRAU DỒI NHÂN CÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI THẦY GIÁO
2.1. Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh do
những yêu cầu khách quan của xã hội quy định.
Sản phẩm nhân cách học sinh là kết quả tổng thể của cả thầy lẫn trò nhằm
biến những tinh hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng - sự phát triển
tâm lí, của trò. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với
những phẩm chất tương ứng trong nhân cách người thầy sẽ tạo nên chất lượng
cao của sản phẩm giáo dục.
Vì sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh do
những yêu cầu khách quan của xã hội quy định nên mỗi người thầy, cô giáo càng
cần trau dồi nhân cách dạy học của bản thân mình. Nhân cách học sinh có tốt
đẹp hay không một phần lớn phụ thuộc vào nhân cách của mỗi người giáo viên.
Điều đó cho thấy sự cần thiết, tầm quan trọng của nhân cách người thầy giáo.
Mỗi người giáo viên hãy là một tấm gương sáng để học trò noi theo.
2.2. Thầy giáo, người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo.
- Trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển
tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và

sách giáo khoa, cũng không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh, mà cịn phụ
thuộc vào người thầy, vào phẩm chất chính trị, trình độ chun mơn và khả năng
tay nghề của nhân vật chủ đạo trong nhà trường.
Mỗi thầy cơ giáo chính là người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo.
Chính vì lẽ đó mỗi người giáo viên cần phải ln ln tích cực nâng cao phẩm
chất chính trị, trình độ chun mơn, tay nghề của mình. Những người giáo viên
cần không ngừng học hỏi, không được phép cho rằng năng lực của bản thân như
thế là đủ mà cần luôn ln tích lũy thêm nhiều vốn kinh nghiệm mới mẻ, phong
phú.
5


2.3. Thầy giáo là cái "dấu nối" giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với
việc tái tạo nền văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ:
- Nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển
thơng qua sự lĩnh hội nền văn hóa của thế hệ trẻ. Tuổi trẻ khơng làm được việc
đó mà phải huấn luyện theo phương thức đặc biệt là nhà trường thơng qua vai
trị của người thầy.
- Tri thức khoa học là phương tiện hoạt động dạy của người thầy, đồng
thời là mục đích hoạt động học của trị. Trò hoạt động theo sự tổ chức và định
hướng của thầy để tái sản xuất nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc, tạo ra sự
phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những năng lực mới mang tính con
người .
- Thầy đã biến q trình giáo dục của mình thành q trình tự giáo dục
của trị. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên
sản phẩm giáo dục nhân cách.
- Sứ mạng trên của người thầy thật vẻ vang, nhưng cơng việc khơng đơn
giản, khơng mang tính lặp lại, nó phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà
loài người đã đi qua khi phát hiện ra những tri thức khoa học phải dựa trên cơ sở
của những thành tựu tâm lý học, giáo dục học hiện đại, đồng thời phải am hiểu

đầy đủ đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí tuệ và đạo
đức.
- Cơng việc đó địi hỏi một q trình học tập lí luận nghiêm túc, trau dồi
chun mơn, rèn luyện tay nghề..., nói chung là trau dồi nhân cách người thầy.
Trong cơng cuộc giáo dục hiện nay, ngồi việc bồi dưỡng kiến thức cho
học sinh, một nhiệm vụ cũng vô cùng quan trọng của người thầy giáo là tái tạo
nền văn hóa nhân loại và dân tộc trong chính thế hệ trẻ hơm nay. Nhiều người
thầy, cơ giáo hiện nay vẫn chưa thực sự coi trọng nhiệm vụ này trong khi giới trẻ
thì ngày càng xa rời bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là thực trạng đáng lo ngại và

6


chính những người thầy cơ giáo là những người đóng vai trò quan trọng để giải
quyết vấn đề nhạy cảm này.
VD: Khi người thầy ra bài tập củng cố cho học sinh, thay vì người thầy
hướng dẫn một cách làm cụ thể nào đó thì người thầy chỉ nên định hướng cho
học sinh hướng đi của bài tốn, việc cịn lại là để các em tự độc lập giải quyết.
Điều này tạo ra tính tịch cực hoạt động của các em trong quá trình tư duy.

7


CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
3.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người:
- Vì đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, địi hỏi người thầy phải
có sự tơn trọng, lịng tin, tình thương, sự đối xử cơng bằng, thái độ ân cần,
lịch sự, tế nhị...
- Đối tượng của người thầy và con người đang trong thời kì chuẩn bị,
đang ở buổi bình minh của cuộc đời. Xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát

triển hay trì trệ tùy thuộc vào nội dung và chất lượng của thời kì chuẩn bị
này.
3.2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình.
- Trong dạy học và giáo dục, thầy dùng nhân cách của chính mình để tác
động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo
thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề
nghiệp, là lối sống, cách ứng xử và kỹ năng giao tiếp...
- Nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không được
phép tạo ra thứ phẩm hay phế phẩm như ở một số nghề khác.
Để trở thành một người thầy tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống
chân chính, vẹn tồn nhưng đồng thời phải có ý thức và kĩ năng tự hồn thiện
mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để có khả năng truyền
lại gấp bội cho thế hệ trẻ. Mỗi người giáo viên cần trau dồi nhân cách bản thân,
đó chính là cơng cụ chủ yếu để tác động vào học sinh. Nhân cách người thầy
giáo có tốt thì mới có thể giác ngộ lý tưởng cho học sinh, giúp cho các em có
được tấm gương để noi theo, dựa vào đó để học tập và rèn luyện bản thân.
3.3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội.

8


- Sức lao động chính là tồn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở
trong con người, nhân cách sinh động của cá nhân cần thiết để sản xuất ra
sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội.
- Chức năng của giáo dục, mà thầy giáo là lực lượng chủ yếu, chính là bồi
dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con người.
Người thầy giáo cần nắm bắt được năng lực của mỗi em học sinh, cố gắng
bằng cách nào đó để phát huy tối đa khả năng của mỗi học sinh, định hướng cho
các em để làm cho sức mạnh tiềm tàng được bộc lộ một cách tối đa, góp phần
gia tăng sức lao động cho cả xã hội, góp phần vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ tối quan trọng của mỗi người giáo viên
nhưng để thực hiện nó thì quả thực khơng phải là điều dễ dàng vì vậy mỗi giáo
viên cần cố gắng trau dồi khả năng nhận biết năng lực học sinh và phát huy khả
năng của từng học sinh, biết năng lực tiềm tàng thành khả năng sẵn có.
3.4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao:
- Ai có ở trong nghề thầy giáo, ai có làm việc với đầy đủ tinh thần trách
nhiệm, với lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy lao động sư
phạm là một loại lao động căng thẳng, tinh tế, khơng rập khn, khơng đóng
khung trong một giờ giảng, trong khn khổ nhà trường.
- Dạy học địi hỏi người thầy phải dựa trên nền tảng khoa học xác định,
khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục và có những kĩ năng sử dụng
chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh
động.
Ứng dụng trong dạy học: Trong quá trình dạy học người giáo viên cần
có sự sáng tạo cao trong bài giảng, trong giờ học cần tạo nên khơng khí thoải
mái, tránh căng thẳng, có thể lồng vào giờ học các tình huống khiến học sinh vui
vẻ, sau đó để các em hứng thú với môn học hơn. Người giáo viên tránh rập
khn mà nên mày mị tìm hiểu các phương pháp mới giúp học sinh dễ dàng
tiếp thu hơn, giúp các em chủ động hơn nữa trong học tập.

9


CHƯƠNG IV. PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC, NĂNG LỰC, UY TÍN NGƯỜI
THẦY GIÁO
4.1. Một số phẩm chất cao đẹp của người thầy giáo
- Công bằng, không thiên vị, phân biệt đối xử với học sinh: Giáo viên cần

quan niệm học sinh nào cũng như nhau, không được cố bất cứ sự phân biệt đối
xử nào, không được phép nâng đỡ em này trong khi lại đi trù dập em học sinh

khác, đó là một trong những nguyên tắc vàng của nghề dạy học.
- Không đe nẹt, thành kiến, trù dập học sinh: Người giáo viên không được

phép đe nẹt, trù dập bất cứ học sinh nào, cần tạo khơng khí thoải mái cho các
em.
- Gần gũi cảm thông với học sinh: Người giáo viên cần gần gũi, nắm bắt

hoàn cảnh cảu mỗi học sinh để cảm thơng, chia sẻ những khó khăn của các em,
tạo động lực cho các em vươn lên cố gắng hơn trong học tập.
- Khuyến khích nâng đỡ học sinh học tập rèn luyện: Người giáo viên cần

biết động viên các em trong học tập, không nên quá khắt khe mà cần khuyến
khích cho các em bằng các hành động cụ thể vd như khi các em làm bài chưa
hồn tồn chính xác lắm, sai lỗi nhỏ thì có thể chỉ cho các em biết nhưng vẫn
châm chước.
- Khơng tính tốn so đo hơn thiệt: Là một người giáo viên khơng được có

sự so đo hơn thiệt. Mỗi người giáo viên cần hướng đến vì cái chung, cái tập thể,
tuyệt đối khơng vụ lợi, tính tốn so đo.
- Dạy tốt bộ mơn: Đây chính là một phẩm chất đặc biệt quan trọng của

người giáo viên. Không chỉ cần có kiến thức về bộ mơn tốt mà người giáo viên
cần có phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, làm sao để
các em có thể tái tạo kiến thức một cách trọn vẹn, có hiệu quả nhất.
- Có hiểu biết rộng rãi về bộ môn cũng như về cuộc sống, thế giới xung

quanh để bổ sung vào kinh nghiệm dạy học của bản thân, đưa chất lượng giảng
10



dạy đi lên.
- Ln vui vẻ hịa nhã: Người giáo viên cần có đức tính này. Đây là đức

tính hỗ trợ rất nhiều cho các thầy, cô giáo trong dạy học, sự vui vẻ, hịa nhã là
một thứ cơng cụ hữu hiệu giúp tiết học trở nên bớt căng thẳng, học sinh không
cảm thấy chán nản với môn học.
- Không nên tăng thu nhập bằng những việc làm không phù hợp với nghề

nghiệp và danh hiệu nhà giáo: Những việc làm đó sẽ khiến danh dự nghề giáo bị
bơi bẩn, làm xấu đi hình ảnh của “nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao
quý”.
- Vị tha, hết lòng vì học sinh: Giáo viên cần biết tha thứ cho những lỗi lầm

của học sinh, không nên quá nặng nề với những lỗi mà các em mắc phải mà cần
hết lịng giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm.
- Có tinh thần trách nhiệm trong công tác.
- Cần cù lao động: Mỗi thầy cô giáo cần phải luôn luôn học tập, rèn luyện

nhân cách, chỉ có cần cù lao động mới giúp giáo viên có khả năng giảng dạy tốt
hơn.
- Mẩu mực trong cuộc sống: Không chỉ trong giảng dạy mà trong cuộc

sống cũng vậy, người giáo viên cần phải là một tấm gương sáng trong các mối
quan hệ ngoài xã hội.
4.2. Năng lực, uy tín của người thầy giáo:
- Phẩm chất và năng lực trí tuệ.

+ Có trình độ văn hố cao.
+ Hiểu biết rộng
+ Giảng dạy có nội dung phong phú, dễ hiểu.

+ Luôn luôn suy nghĩ sáng tạo trong công việc.
Chúng ta chắc hẳn ai cũng đã từng trải qua quãng đời học sinh, cũng đã
11


được tiếp xúc với rất nhiều thầy cô giáo. Trong số những thầy cơ giáo đó chắc
chắn có những người có những phẩm chất và năng lực trí tuệ khiến mỗi học sinh
trong chúng ta nể phục. Họ là những giáo viên có trình độ văn hóa cao, hiểu biết
phong phú với phương pháp giảng dạy hiệu quả và đặc biệt là họ luôn biết cách
sáng tạo trong công việc, ln tìm tịi những điều mới mẻ, hấp dẫn học trò, cuốn
học trò vào những tiết dạy, giờ dạy của mình. Đó là điều thành cơng bậc nhất
của một người giáo viên. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi cô giáo chủ nhiệm cấp 3 của
tôi. Một người giáo viên luôn biết cách tạo hứng khởi cho học sinh trong các giờ
dạy của mình. Là một giáo viên dạy tốn nhưng cơ khơng khơ khan, rập khn
với những cơng thức tốn học nhàm chán mà cô luôn đưa những điều mới mẻ,
khơng có trong sách giáo khoa để giảng dạy, làm cho bài giảng của mình thêm
thú vị hơn, đặc sắc hơn. Chính cơ là người truyền cảm hứng học tốn và thổi vào
tôi ước mơ trở thành một giáo viên dạy toán.
- Các phẩm chất và năng lực khác.

+ Cương quyết, thẳng thắn, khiêm tốn, giản dị.
+ Khơng ngại khó, ngại khổ.
+ Tác phong làm việc chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng.
+ Biết khuyến khích, động viên học sinh.
+ Biết yêu cầu và tha thứ những lỗi lầm của học sinh
+ Công bằng trong cách đánh giá và cho điểm.
- Hiểu học sinh và thương yêu học sinh.
- Nghiêm khắc và có yêu cầu cao đối với học sinh.
- Nhiệt tình giảng dạy.
- Ân cần, chăm sóc dạy bảo học sinh.

- Tế nhị trong cách đối xử.
- Tôn trọng nhân cách học sinh.

12


- Khuyên bảo nhẹ nhàng.
- Thẳng thắn phê bình, giúp đỡ học sinh sửa chữa khuyết điểm.
- Vui vẻ, hoà nhã, dịu dàng, hiền hồ.
- Động viên khuyến khích học sinh học tập cũng như tu dưỡng đạo đức.
- Năng lực sư phạm:

+ Nắm vững chun mơn nghiệp vụ, có hiểu biết chung phong phú, giảng
bài rõ ràng, hấp dẫn, nắm vững phương pháp giảng dạy, tác phong mẫu mực.
+ Có khả năng tổ chức hoạt động sư phạm.
+ Có năng lực tạo ra mối quan hệ tốt đẹp: đoàn kết, thân ái với đồng
nghiệp, gàn gũi, công bằng đúng mực đối với học sinh, được học sinh tin mến.
+ Có năng lực tự đánh giá, tự rèn luyện bản thân.
Những phẩm chất đó góp phần tạo nên nhân cách tốt đẹp của người thầy
giáo. Mỗi giáo viên cần trau dồi phẩm chất đạo đức, rèn luyện để hướng đến
những phẩm chất tốt đẹp đó. Để thực hiện được điều này địi hỏi một sự cố gắng
khơng ngừng nghỉ của các thầy, cơ giáo, địi hỏi một tinh thần cầu tiến, luôn
luôn học hỏi, luôn luôn tiến boj không ngừng. Quả thực là rất khó để có được
những phẩm chất đó nhưng đó lại là những yêu cầu bắt buộc đối với mỗi giáo
viên, vì vậy cần đẩy mạnh phong trào rèn luyện phẩm chất, tư cách đạo đức
trong các nhà trường.

13



CHƯƠNG V. THỰC TRẠNG NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO
TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY.
Nhìn lại nền giáo dục nước nhà, kế thừa và phát huy những tinh hoa trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định: “giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”. Trong những năm qua, chúng ta đã chú
trọng việc “bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả
các cấp học, bậc học”. Tuy nhiên, bên cạnh những người thầy âm thầm cống
hiến cho sự nghiệp trồng người, hết lịng vì học sinh thân u, sẵn sàng hy sinh
tính mạng của mình để cứu học sinh trong cơn bão lũ. Và cảm động nữa là
khơng ít những giáo viên đã sẻ chia phần thu nhập ít ỏi của mình, giúp học sinh
nghèo, học giỏi… Những hành động bình dị ấy đã hun đúc nên sự vẻ vang của
nền giáo dục nước nhà nói chung và đạo đức giáo dục nói riêng. Thì bên cạnh
chúng ta cũng khơng khỏi băn khoăn khi ngày càng nhiều trên các trang báo,
trên các phương tiện thông tin đại chúng, một bộ phận giáo viên tha hóa về đạo
đức, nhân cách: lợi dụng học trị và phụ huynh, chạy theo thành tích,thậm chí
thầy cơ giáo đánh đập học sinh, dùng áp lực, xúc phạm đến nhân cách học sinh...
Đã có một số thầy cô giáo “con sâu làm rầu nồi canh”, sống ngụy biện để
lừa gạt dư luận, lừa dối chính mình. Họ cho phép mình kiếm tiền bằng mọi hình
thức, tự đánh mất mình, mất lịng tin của xã hội, làm hình ảnh của mình xấu dần
trong mắt học trị.
Nhiều thầy cơ giáo bằng lịng với kiến thức đã học trong các trường cao
đẳng, đại học. Họ tôn sùng sách giáo khoa, khăng khăng bảo thủ cho rằng kiến
thức trong sách giáo khoa là duy nhất đúng. Phương pháp dạy khô cứng, đơn
điệu, đọc sách giáo khoa bắt học sinh chép hoặc chỉ tóm tắt sách giáo khoa. Đó
là cách dạy không phù hợp với nền giáo dục hiện nay, không sáng tạo, kiến thức
của thầy cũ kỹ, không đảm bảo chất lượng chuyên môn của tiết dạy.

14



Nghề dạy học có đặc thù riêng, sản phẩm là con người trong mối tổng hịa
xã hội. Thầy giáo, ngồi tiết dạy trên lớp phải quan tâm tới hoạt động ngoại
khóa, bạn bè, cuộc sống ngồi xã hội của trị, phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học
sinh, kịp thời nắm bắt diễn biến tình cảm, tư tưởng của học sinh, sinh viên.
Người thầy không chỉ quản lý học sinh trong giờ học, mà phải quản chặt học
sinh do mình chủ nhiệm, phụ trách khi chúng về nhà và hành vi của các em
ngồi xã hội. Tiếc rằng, chính sự vô tâm của một số thầy cô giáo đã làm cho
quan hệ giữa thầy và trị có cả một khoảng cách lạnh lùng, trị khơng hiểu thầy,
thầy khơng hiểu trị. Đã khơng hiểu nhau thì cộng tác với nhau khó đem lại hiệu
quả tốt.
Nhiều người vào nghề dạy học, có thể là thầy chọn nghề, hay nghề chọn
thầy, muốn hay khơng muốn thì “đã mang lấy nghiệp vào thân”, phải tìm hiểu,
xác định đặc thù nghề nghiệp, sản phẩm làm ra là Con Người Mới, những công
dân tốt, nhân tài của đất nước. Nếu thầy đạo đức không chuẩn mực, chun mơn
khơng vững vàng, khơng biết mình, biết người, bảo thủ đứng trên bục giảng thì
làm ảnh hưởng lớn các thế hệ học trò. Làm thầy phải biết hy sinh cho nghề
nghiệp, “tử vì nghề”. Ở ngành khác, người ta có thể mặc quần jean, áo thun khi
đi làm nhưng thầy giáo không thể diễn chiếc quần jean bạc trắng đứng trước học
sinh thao thao giảng về cái đẹp trong ăn mặc. Thầy không thể vừa hút thuốc, vừa
giảng bài. Thầy phải biết giữ mình, tránh xa mọi cám dỗ tầm thường, giữ cho
tâm hồn trong sáng, mọi hành vi phải nâng lên thành văn hóa trong đối nhân xử
thế, từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất.
Chúng ta đều biết rằng, tuổi học trị ln có tâm hồn trong trắng, ngây
thơ, các em là những mầm non, tương lai của đất nước. Giáo dục và đào tạo thế
hệ trẻ là một chiến lược quan trọng của quốc gia. Đó thật sự là một việc làm vừa
hợp ý Đảng và Nhà nước lại vừa hợp lòng dân, mà trọng trách lớn được đặt trên
vai những nhà giáo. Vì vậy, thầy cơ giáo chính là tấm gương để học sinh soi vào.
Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế và sớm bị loại


15


trừ. Chính vì vậy, chúng ta hãy nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi một thầy cơ giáo phải hiểu, thấm nhuần
tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ về giáo dục; mỗi người phải khơng ngừng rèn
luyện để hồn thiện lối sống, nhân cách của mình; sống có tấm lịng nhân ái, làm
việc có trách nhiệm với chính mình và xã hội. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần xây
dựng được đội ngũ những người làm công tác giáo dục có đầy đủ phẩm chất,
năng lực, vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Điều
này khơng những để khẳng định tri thức, trình độ phát triển giáo dục của dân
tộc, mà cịn góp phần quan trọng cho thắng lợi của công cuộc hội nhập quốc tế,
xây dựng và phát triển đất nước hôm nay.
Với tầm cao của nền kinh tế tri thức, mọi hành vi thái độ, lời nói việc làm
của nhà giáo đều là tấm gương phản ánh nhiều chiều nhưng không ai khác hơn
chính nhà giáo phải tự soi mình. Ai cũng đã biết là thước thì phải thẳng đã là cân
thì phải chính xác, nhưng muốn"thẳng" hay "chính xác" đều phụ thuộc ở người
cầm. Tuy là việc khó nhưng khơng thể bng lơi bởi lẽ trau dồi và nâng cao
phẩm chất năng lực là yêu cầu tự thân của mỗi nhà giáo, những giáo viên dù đã
nghỉ hưu hay đang còn đang đứng trên bục giảng phải ln tâm niệm. Chính
điều đó đã sẽ cụ thể hóa cho các cuộc vận động cũng như các phong trào được
toàn ngành phát động và được xã hội nhiệt liệt hưởng ứng :“Nói khơng với vi
phạm đạo đức nhà giáo”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự rèn
luyện” hay "Nói khơng với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục"...
Trong bất kỳ xã hội nào vị trí của người thầy cũng luôn được đề cao. Với
nước ta hiện nay, khi mà khoảng 1/4 dân số đi học và có 1,2 triệu nhà giáo thì
những hoạt động của giáo dục ln trở thành tâm điểm của toàn xã hội. Bởi vậy
thật khơng vui ở đâu đó cịn xuất hiện những câu chuyện buồn về sự xuống cấp
của đạo đức nhà giáo hay những hành vi làm tổn thương nghiêm trọng truyền
thống “tơn sư trọng đạo". Những hiện tượng đó chỉ là cá biệt trong số hơn 1

triệu nhà giáo ngày đêm trau dồi kiến thức kinh nghiệm của bản thân để truyền

16


lửa cho thế hệ mai sau những nhà giáo dám dấn thân cho sự nghiệp trồng người.
Họ là những tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo, những người dành trọn tâm
huyết, cơng sức, trí tuệ cho sự nghiệp trồng người; đã giành được sự kính trọng
của tồn xã hội và tác động khơng nhỏ đến sự hình thành nhân cách, phẩm chất
đạo đức, trách nhiệm công dân của lớp lớp các thế hệ học trò. Những tấm gương
các nhà giáo “hết lịng vì học sinh thân u”, giữ trọn và phát huy phẩm chất
người thầy phải được tôn vinh để các thế hệ học sinh và giáo viên noi theo, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, hiện đại phù hợp với thời kì mới của đất
nước. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục càng phải nhận thức đúng đắn
vai trò, bổn phận và trách nhiệm to lớn của mình; ra sức thi đua, phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang của sự nghiệp trồng
người mà Ðảng, nhân dân đã tin yêu và giao phó.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới,
trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho đất nước ngày
càng phát triển. Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang đặt ra
những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ,
phát huy những giá trị cao đẹp của đạo đức người thầy trong truyền thống nói
riêng; Để tạo ra một lớp người Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà
bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó
người thầy giữ vai trị khơng nhỏ.
Để hồn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải khơng
ngừng tự đổi mới, hồn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức
quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác
“dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không

ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải
làm sao để mỗi người thầy khơng những là nhà sư phạm mà cịn là nhà mô
phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm,

17


thành cơng khơng kiêu căng, thất bại khơng nản chí, thương yêu, gần gũi học
sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, thực sự là những “tấm gương sáng cho học sinh
noi theo”.
Thật hạnh phúc khi chúng tôi được tôi là những người đưa đị qua sơng
rồi thấy học trị của mình học giỏi trưởng thành và trở thành những con người có
ích cho xã hội. Nếu người kỹ sư vui mừng nhìn thấy cây cầu mà mình vừa mới
xây xong, người nơng dân mỉm cười nhìn đồng lúa mình vừa mới trồng, thì
người giáo viên vui sướng biết bao nhiêu khi nhìn thấy học sinh đang trưởng
thành, lớn lên. Sự trưởng thành, lớn lên của học trị có sự đóng góp rất nhiều từ
kiến thức và nhân cách của người thầy.
Nói thì có vẻ dễ nhưng để đạt được những nhân cách cao cả như đã nêu ở
trên, bài trừ các nhân cách xấu là điều không hề dễ dàng. Trong thực trạng xã
hội hiện nay khi mà đồng tiền với sức cám dỗ lớn lao của mình đã và đang từng
ngày đục khoét, làm xấu đi hình ảnh của nghề sư phạm cho dù không phải tất cả
giáo viên đều vụ lợi, tham lam. Chỉ cần một số nhân cách xấu thơi cũng đủ làm
xấu đi hình ảnh của nền giáo dục nước nhà. Vì vậy thay vì đến khi thấy những
thực trạng đó mới xử lý thì mỗi người trong chúng ta phải là một nhà tuyên
truyền, mỗi sinh viên sư phạm cần phải học tập và rèn luyện để xứng đáng với
nghề dạy học, trong tương lai phải là một tấm gương sáng cho học trị noi theo,
có như vậy nền giáo dục của nước nhà mới có thể phát triền đi lên để sánh vai
với các cường quốc năm châu như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói.

18



CHƯƠNG VI. LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ ỨNG DỤNG VÀO DẠY HỌC
Vấn đề nhân cách người giáo viên là một vấn đề nóng bỏng trong xã hội
hiện nay. Nếu chịu khó quan sát thực tế xung quanh một tý chúng ta hồn tồn
có thể nhận thấy hai mặt nhân cách đối lập nhau của những người giáo viên
trong xã hội hiện đại. Bản thân tôi cũng đã từng may mắn được tiếp xúc và học
tập với những thầy cô giáo hết mực thương u học trị, ln lo lắng, ân cần trên
mỗi bước đi của học sinh. Thời cấp 2, có một thầy giáo đã để lại rất nhiều ấn
tượng trong tơi, đó chính là thầy giáo dạy tốn. Tơi vẫn ln coi thầy như một
người cha của mình khi thầy ln tận tình chỉ bảo cho tơi. Tơi cịn nhớ như in
hình ảnh ngày đầu thầy bước vào lớp học, người thầy giáo với dáng vẻ nghiêm
khắc đã in sâu trong tâm trí tơi. Trái ngược với bề ngồi đó là một tấm lịng đầy
tình thương u học sinh, coi học sinh như chính con em của mình vậy. Thầy là
người giáo viên đã cho tôi cảm giác gần gũi nhất, thầy cho tôi kiến thức, cho tôi
sự tự tin. Dù đã khơng cịn học với thầy nữa nhưng đã rất nhiều lần thầy vẫn hỏi
thăm về tình hình học tập của tôi, vẫn luôn là người định hướng cho tơi trên con
đường đầy chơng gai, thử thách phía trước. Bên cạnh những tấm gương đạo đức
nhà giáo như của thầy giáo tơi thì trong xã hội vẫn cịn đó những người thầy
giáo mà nhân cách của họ đang đi xuống nghiêm trọng, họ chính là những tấm
gương xấu, chính họ đang bơi bẩn hình ảnh của nền giáo dục nước nhà. Tôi cũng
đã từng rất nhiều lần chứng kiến cảnh thầy giáo lăng mạ học sinh hay tồi tệ hơn
là đánh, tát học sinh ngay trong lớp học, trường học. Nó khơng chỉ để lại ở các
em nỗi đau thể xác mà còn là nỗi đau tinh thần, nó khiến các em sợ hãi, hoảng
loạn tinh thần. Chẳng lẽ các thầy, cơ giáo đó khơng cịn biện pháp giáo dục nào
tốt hơn nữa hay sao, chẳng lẽ đánh đập, hành hạ, chửi rủa là cách tốt nhất để họ
giáo dục học sinh hay sao. Dù trong chúng ta, tôi và các bạn chẳng ai muốn điều
này xảy ra cả nhưng đó là một thực tế đáng báo động trong xã hội hiện nay, một
thực trạng đáng lên án, một sự bơi nhọ đối với ngành giáo dục. Chính vì lẽ đó,
trong thực trạng xã hội hiện nay, tơi và các bạn, chúng ta hãy cùng nhau góp một


19


phần sức nhỏ bé của mình để đưa những tấm gương tốt cho mọi người noi theo
và bài trừ những tấm gương xấu. Hãy góp một phần nhỏ bé để nền giáo dục
nước nhà mỗi ngày một tươi sáng hơn.
Trong thực tế giảng dạy, vẫn còn rất nhiều bất cập chưa được giải quyết
một cách thỏa đáng nhưng điều mà mỗi giáo viên cần làm là việc cố gắng để
hoàn thiện nhân cách mình. Hồn thiện nhân cách chính là một trong những yếu
tố quan trọng để người giáo viên nâng cao khả năng dạy học của bản thân mình,
qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm của giáo dục. Để có được những mầm
non, tương lai của đất nước cần sự đóng góp khơng nhỏ của các thế hệ nhà giáo.
Tương lai của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào ngành giáo dục. Mỗi giáo viên
hãy là một tấm gương sáng về nhân cách cho các thế hệ học trị noi theo.
Tơi xin được trích một câu nói nổi tiếng của Usinxki thay cho lời kết:
“Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh,
sức mạnh đó khơng thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ
câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách
phạt nào khác”.

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×