A. PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
Thế giới tâm lý của con người vơ cùng kì diệu và phong phú, được loài
người quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại.
Từ những tư tưởng đầu tiên, sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình
thành, phát triển khơng ngừng và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nhóm các
khoa học về con người. Đây là môn khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát
huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vấn đề nhân cách của sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của
tâm lý học và cũng là “mắt lưới” của cả hệ thống khoa học về con người vừa có
ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác
tâm lý học đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề bản chất tâm lý của nhân
cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân cách…
Trong xã hội tất cả các nghề làm ăn lương thiện đem lại lợi ích chân chính
cho cá nhân, gia đình đồng thời phục vụ xã hội. Nghề nào cũng đáng quý, đáng
trọng. Nhưng từ xưa và cả ngày nay dù công nghệ khoa học phát triển thêm
nhiều ngành nghề mới, song nghề thầy giáo_ hướng dẫn lớp trẻ tìm hiểu và thấu
nhuần đạo lý, tri thức, kỹ năng của các thế hệ đi trước, những vốn quý phi vật
thể của dân tộc và nhân loại, vẫn được người đời xếp vào hàng những nghề đáng
quý trọng nhất, nghề thầy giáo là “một nghề cao quý nhất trong các nghề cao
quý” (Phạm Văn Đồng). Trong xã hội văn minh người ta lấy nghề dạy học làm
thước đo. Xã hội Việt Nam từ xưa đến nay có truyền thống “tơn sư trọng đạo”
một dân tộc rất coi trọng bản sắc văn hóa của mình và khơng xem nhẹ tinh hoa
văn hố nhân loại vì vậy dân tộc ấy rất coi trọng lớp người đem lại tinh hoa đó,
làm giàu cho tâm hồn mình và nhất là con em mình, thế hệ trẻ tương lai của dân
tộc. Hiện nay bên cạnh những giá trị truyền thống tốt của dân tộc ta có từ lâu đời
để lại, những giá trị ấy đang dần phai mờ đi và thay thế vào đó là những lỗ thủng
lớn về nhân cách nhà giáo.
1
Trong xu thế ngày nay khi đất nước đã bước vào vịng xốy kinh tế thị
trường chung của cả thế giới, một đất nước muốn phát triển mạnh không bị tụt
hậu, lạc hậu với các nước trên thế giới buộc đất nước đó phải cải cách mọi mặt
kinh tế xã hội phù hợp với xu thế phát triển chung. Nước ta cũng vậy vấn đề cần
cải cách hang đầu và quan trọng nhất đó là giáo dục để có những người tài,
những người thực sự giỏi để phục vụ cho đất nước. Người ta đã thực sự quan
tâm đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và việc đổi mới phương pháp giảng
dạy. Nhân cách người thầy giáo cũng là một trong những vấn đề xã hội quan tâm
đó là yếu tố quan trọng nó ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, việc hình
thành nhân cách của học sinh. Vì vậy đề tài này đưa ra nhằm quan tâm đến vấn
đề nhân cách của người giáo viên hiện nay. Những quy định về đạo đức nhà giáo
là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội
tôn vinh đồng thời là một trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát
nhà giáo nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp trong sáng có tính tích cực học tập khơng
ngừng nâng cao chun mơn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và
cách ứng xử chuẩn mục, thực sự là tấm gương soi sáng cho người học noi theo.
Khi đất nước đã bước vào nền kinh tế hội nhập sự cạnh tranh vô cùng gay
gắt và khốc liệt đẻ phát triển được đất nước phải bồi dưỡng nhân tài có đủ năng
lực, ý chí, tri thức.
Giáo dục đóng vai trị rất to lớn trong việc hội nhập quốc tế và sự phát
triển kinh tế nói riêng của Việt Nam và nói chung tồn quốc tế. Giáo dục là nơi
đào tạo những thế hệ người mà xã hội cần. Vì thế khi nói đến giáo dục là phải
nói đến việc nâng cao chất lượng dạy và học vấn đề cần chú ý đó là phẩm chất
người nhà giáo hiện nay. Phẩm chất, nhân cách của nhà giáo tốt thì chất lượng
giáo dục mới đảm bảo, hiệu quả giáo dục mới cao.
Vì thế khi nói đến hiệu quả giáo dục của nhà giáo là một đề tài cần thiết
và cần bàn tới trong xã hôi ngày nay.
2
B. NỘI DUNG
1. CÁI NHÌN KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI.
1.1. Nhân cách là gì?
Con người là một thực thể của tự nhiên, cá nhân chỉ là một người trong xã
hội cộng đồng. Khái niệm nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lý cá nhân
với tư cách thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ
người với người với một hoạt động có ý thức và giao lưu.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, biểu hiện bản chất và giá trị xã hội của con người.
Như vậy, nhân cách là sự tổng hồ khơng phải các đặc điểm cá thể của
con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên
của xã hội nói lên bộ mặt tâm lý của xã hội, giá trị và cốt cách làm người của
mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lý tạo nên nhân cách thường biểu hiện trên
các cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân, và cấp độ biểu hiện ra
bằng hoạt động và sản phẩm.
Như thế nhân cách của người giáo viên là gì? Nó gồm những gì? Nói đến
nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và
giá trị tinh thần của mỗi người. Như vậy có thể hiểu rằng nhân cách là một hệ
thống bao gồm phẩm chất và năng lực. Trong phẩm chất của người thầy giáo
trước hết phải nói đến năng lực chuyên mơn. Điều này được hình thành dưới
nhiều ảnh hưởng khác nhau mà trước hết là trình độ học vấn của người thầy
giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế
đất nước như kinh tế, khoa học kỹ thuật, lịch sử, địa lý. Thế giới quan của giáo
viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái độ đối với hoạt động của giáo
viên như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, kết hợp giữa nội
dung học tập và thực tiễn cuộc sống cũng như phương pháp xử lý và đánh giá
hoạt động, biểu hiện tâm lý của học sinh. Yếu tố thứ hai đóng vai trị hạt nhân
3
trong cấu trúc phẩm chất người thầy giáo là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Lý
tưởng của giáo viên có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách của
học sinh và nó biểu hiện bằng lịng say mê nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp,
sự tận tuỵ với học sinh, với công việc tác phong làm việc nghiêm túc, có trách
nhiệm với lối sống giản dị, chân tình. Những điều này sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp
trong tâm trí người học sinh. Chúng có tác dụng hướng dẫn điều khiển quá trình
hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ khơng
phải là cái có sẵn mà người giáo viên phải rèn luyện tích cực mới có được, rồi
qua đó nhận thức của người thầy giáo về nghề nghiệp được nâng cao lên, tình
cảm nghề nghiệp được tăng lên. Yếu tố thứ ba của phẩm chất giáo viên là lòng
yêu học sinh, đó là sự yêu thương, tận tuỵ, ân cần với học trò. Đối với một nhà
giáo, điều chủ yếu là tình người đó là nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ
những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đẩy tình
người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng.
Người giảng viên sẽ không có thái độ phân biệt trong cách đối xử giữa học trị
thơng minh và học trị thơng minh yếu chậm hiểu ấy khơng có nghĩa là người
thầy thiếu nghiêm khắc không tạo động lực cho học sinh, phấn đấu học tập.
Lịng u học trị ln đan xen và gắn bó chặt chẽ với lịng u nghề. Có thể nói
nhà giáo chỉ yêu nghề khi còn biết yêu thương những người học trị của mình,
bởi từ u thương lớn lao dành cho học trị, cho nghề nghiệp, người giáo viên
mới có động lực để luôn phấn đấu, rèn luyện. Người thầy giáo có tình u trong
cơng việc giáo dục học trị là họ có thể trở thành một giáo viên tốt. Bàn về lịng
u trị, u nghề thì khơng thể nói đến mối quan hệ thầy trị. Nó đóng một vai
trị quan trọng trong công việc giáo dục học sinh của thầy giáo. Nội dung, tính
chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học.
Một học sinh không thể nào tôn trọng, khâm phục hay học chơi được gì tốt đẹp
khi người thầy của học trị đó có những biểu hiện khơng đúng đắn về mặt nhân
cách hay yếu kém về mặt chuyên môn. Người thầy như một tấm gương để học
sinh soi vào đó, khám phá những điều mình chưa biết và phấn đấu hoàn thiện
4
bản thân mình. Để có thể là tấm gương sáng cho học sinh, người thầy giáo phải
tích cực rèn luyện các mặt chuyên môn, sống đúng mực, không mắc phải những
thói hư tật xấu.
1.2. Tầm ảnh hưởng của nhân cách đến việc dạy và đến học sinh.
Phong cách sự phạm của các giáo viên sẽ ảnh hưởng đến tư duy và nhân
cách học sinh. Những người thầy giáo chính là những người “lái đị qua sơng”,
dìu dắt các thế hệ trẻ trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. Vậy nên, phong
cách sư phạm và rất nhiều những yếu tố khác trong nhà trường sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển tư duy, nhân cách của học trò.
Nhà trường là nơi giáo dục toàn diện cho học sinh. Người thầy giáo có vai
trị quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cũng như định hướng, bồi dưỡng
và hình thành nhân cách cho các em.
Vì thế, cách ứng xử của giáo viên đối với mỗi hành vi của học sinh là điều
không thể xem thường.
Quả thực, trước thời kỳ cải cách giáo dục, người thầy được coi là nhân vật
tâm điểm trong dạy và học. Người thầy quyết định sự đúng sai, thầy giảng, học
trò lắng nghe, ghi chép.
Nhưng ngày nay vai trò này thuộc về học sinh, người thầy chỉ là người
hướng dẫn, chỉ đạo để học sinh lĩnh hội kiến thức nói như vậy khơng có nghĩa
thầy là thứ yếu, nếu khơng có thầy thì khơng thể nói đến chất lượng giáo dục.
Người làm nghề giáo viên được xã hội tôn trọng gọi bằng từ “thầy” tôn
trọng khơng chỉ bởi thầy là người truyền đạt trí thức mà cịn u mến vì nhân
cách, vì thầy là tấm gương mà trị noi theo.
Có người cha, người mẹ tốt, người thầy giáo tốt, tất có người con ngoan,
người học trò tố. Phẩm chất của người thầy giáo ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
Đáng tiếc là trong thời gian qua, một bộ phận giáo viên còn yếu kém về
năng lực chun mơn, một số giáo viên lại có những hành vi thấp kém về đạo
đức, lối sống. Họ đã đánh mất uy tín xã hội của chính mình, chúng ta vô cùng
5
tức giận và bi quan về những kẻ đội lốt thầy giáo. Nhưng nhìn lại những người
đó cũng chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh, trong nhà trường những người
tâm huyết với nghề nhiều gấp hàng trăm hàng ngàn lần.
Cho đến ngày hôm nay tôi cũng đã học với rất nhiều thầy cơ giáo có thể
nhiều thầy cơ khơng cịn nhớ về tơi những tơi ln nhớ về thầy cơ. Nếu khơng
có thầy cơ hẳn tơi khơng thể ngồi được ở ngôi trường đại học.
Và giờ đây tôi đang dần tiếp bước của thầy cô, tương lai tôi cũng là một
người thầy, trong tôi luôn đọng lại những giá trị phẩm chất nhân cách của thầy
cô. Và tôi cũng tin rằng mình sẽ học hỏi và đạt được những điều đó.
Những ngày 20/11 hàng năm lịng tơi ln hướng về thầy cô mặc dù đang
học ở xa nhưng những ngày này tôi về quê và đi chúc tết thầy cơ dành những
tình cảm trân trọng nhất của mình đến thầy cô những người đã dẫn đường chỉ lối
để cho minh có một tương lai tươi sáng.
1.3. Thực trạng của nền giáo dục hiện nay.
Những năm học gần đây tồn ngành giáo dục đang tham gia vào cơng
cuộc vận động “Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục” ở các trường học nói chung, từ năm học 2007 – 2008, hệ thống các
trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp liên tục bắt tay vào thực
hiện cuộc vận động “Nói khơng với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng
nhu cầu xã hội” nhằm chân hưng nền giáo dục nước nhà. Năm học 2009 – 2010
được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định năm học tập trung cho chủ đề “Đổi mới
quản lý, nâng cao chất lượng và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Đối với
thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục, hưởng ứng cuộc vận động này chẳng là
gì khác hơn là ngẫm lại đặc điểm nghề mình để lịng mình trong sáng, tự mình
đổi mới phương pháp dạy học, cải tiến và nâng cao chất lượng quản lý giáo dục
để góp phần vào sự nghiệp phát triển của nền giáo dục.
Hệ thống giáo dục nước ta trong thời gian qua nặng về giáo dục lý thuyết,
trong đó phần lý thuyết cũng đặt năng về giáo dục chính trị và nhẹ về thực hành,
6
tỷ lệ trường dạy kỹ thuật, dạy nghề so với giáo dục phổ thông là thấp một cách
bất thường so với yêu cầu của nền kinh tế. Đây là lý do tại sao lao động có kỹ
thuật, có kỹ thuật trong lực lượng công nhân không đủ hoặc không đạt yêu cầu.
Hệ đại học tuy trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn
cịn yếu kém so với yêu cầu. Nội dung và phương pháp giảng dạy còn chậm đổi
mới, sinh viên học một cách thụ động, do đó khi ra trường khó tìm kiếm cơng ăn
việc làm, phải dựa vào mối quan hệ thân quen hoặc mối quan hệ khác để tìm
việc làm, sau đó tự đào tạo hoặc tự thích nghi với u cầu cơng việc.
Ngồi ra cấp đào tạo đại học cịn có những hiện tượng bất cập khác. Dù số
giảng viên, giáo sư khơng đủ cho các trường chính quy nhưng trường đại học
hay lớp đào tạo đại học tại chức, chuyên tu thuộc các ngành kinh tế, xã hội lại
vẫn được mở ở khắp nơi, các trường dạy nghề trường kỹ thuật lại không được
phát triển. Hệ quả là chất lượng đào tạo ngày càng kém hơn.
Chính vì thế cho nên ngành giáo dục của nước ta cần phải cải cách đáp
ứng với xu thế phát triển của xã hội.
2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO TRONG THỜI ĐẠI
MỚI.
Dân tộc ta có nền văn hiến lâu đời, với truyền thống “Tôn sư trọng đạo”.
Thời phong kiến thường mỗi xã hội được xác lập bởi quan hệ “Quân – Sư –
Phụ”. “Quân – Sư – Phụ” thể hiện vị trí, vai trò của người thầy giáo còn quan
trọng hơn cả cha, chỉ đứng sau vua.
Thật vậy, đã bao đời, nhân dân ta truyền tụng câu tục ngữ “Không thầy đố
mày làm nên”, “nhất tự vi sư bán tự vi sư” và lời nhắc nhở “Muốn sang thì bắc
cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”.
Lịch sử từ xưa đến nay lúc nào cũng có biết bao tấm gương về những
người thầy cao quý, có tài, có đức, các bậc thầy đáng kính đó đã đào tạo nên biết
bao thế hệ học trò đầy tài năng, làm nên một đất nước văn hiến. Rõ ràng, từ xưa
đến nay, nhân dân ta luôn tôn vinh người thầy giáo và quý trọng nghề dạy học.
7
Vì thế, khơng phải khơng có lý, nhà trường xưa kia quy đinh học trò phải xưng
“con” với thầy. Nghĩa vụ của người học trò đối với thầy là phải giống như đối
với cha mẹ. Tình cảm thầy trị là tình cảm thuỷ chung, như nhất.
Trước kia, trong một ngơi làng, người thầy là người có học vấn cao nhất.
Trật tự đó ít khi thay đổi nên bản thân người thầy khơng có nhu cầu tự đổi mới,
kiến thức của ông thầy truyền dạy không cần phải xem xét, truy nguyên hay đặt
hỏi cách nghĩ phản biện. Những định ngữ mặc nhiên còn giai tăng hơn nữa cách
hiểu này như “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, người xưa có bao giờ sai, xưa bàn
nay làm, tứ thập nhi bất hoặc… Đã hơn 40 mười tuỏi là khơng cịn sai lầm,
huống chi thầy.
Ngày nay, chúng ta mở rộng quan niệm về tình thầy trị phải có tình bạn
bè hiểu theo ý nghĩa đúng đắn của khái niệm này. Giàu trí tuệ và đạo đức người
thầy (cơ giáo và thầy giáo) là bậc đáng kính trọng, nhưng khơng phải như ngày
xưa là “Kính nhi viễn chi” (kính trọng, nhưng chỉ dám đứng xa mà chiêm
ngưỡng).
Quan hệ thầy trò là quan hệ giữa hai con người, hai nhân cách, hai thành
viên trong cộng đồng, cùng mục đích và lẽ sống. Bởi vậy đứng ở góc độ con
người và nghĩa vụ cơng dân, thì thầy và trị là bình đẳng. Trong quan hệ thầy trị
ngày nay phải có tính dân chủ.
Mặt khác đứng ở góc độ nhà trường, ở kỷ cương trường học, thì thầy phải
là thầy, trị phải là trị. Hiểu bình đẳng vào dân chủ - với tư cách cơng dân –
trong quan hệ thầy trị, khơng phải sự ruồng rã “Cá đối bàng đầu” “Cá mè một
lứa”. Cách xưng hô “Em’’ với thầy cô khi thầy cô đáng tuổi cha mẹ, thậm chí
đáng tuổi ơng, bà mình, có lẽ có điều bất ổn.
Để quan hệ thầy trị đạt được chuẩn mực đạo đức cần có nhiều điều kiện.
Có điều kiện ở chính chủ quan người thầy và học trị: có điều kiện khách quan
do nhà nước và xã hội tạo nên.
8
Về mặt chủ quan, phẩm chất người thầy được biểu hiện ở hai mặt: tri thức
khoa học chuyên sâu và tư cách, đạo đức cao đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy
“Giáo viên phải chú ý cả tài và đức – Tài là văn hố, chun mơn, đức là chính
trị. Muốn cho học sinh có đức, thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo,
cơ giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ em”.
Về mặt khách quan, nhà nước và xã hội cần tạo điều kiện để “thầy phải ra
thầy”. Lương giáo viên thấp so với nhiều ngành nghề khác, tiền thưởng cuối
năm hầu như khơng có gì, đời sống giáo viên cịn nhiều khó khăn. Việc dạy
thêm của giáo viên thật ra cũng chỉ là vạn bất đắc dĩ.
Bên cạnh đó chỉ lối sống thực dụng của một phần lớn dân cư – lối sống
chạy theo đồng tiền bằng bất cứ cách nào. Cùng với việc không coi trọng chất
xám, sự xâm hạn đến nhân cách và cả tính mạng của một số giáo viên, do kẻ xấu
bất chấp đạo lý pháp luật gây ra,… Tất cả những cái đó, làm cho uy tín xã hội
của người thầy bị xúc phạm, bị giảm sút nghiêm trọng.
Bác Hồ dạy “Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo tốt là
những anh hùng vô danh”. Nhân dân ta ln tơn vinh người thầy giáo địng thời
cũng đòi hỏi rất cao về phẩm chất người thầy.
Chúng ta hẳn có người đã đọc câu thơ.
“Ngày mai trái đất vắng thầy
Trái tim người ngơ ngác giữa bầy về đâu
Đò ơi! Ai chở qua cầu
Cho em hiểu nối cạn sâu lòng người
Hướng dương mọc chốn xa vời
Ai cầm tay dắt lên trời tìm sao”.
Bài thơ đã phần nào nói lên vai trị vơ cùng quan trọng của người thầy
trong đời sống xã hội. Tôn sư trọng đạo là một nét son văn hố chói ngời trong
9
dịng chảy văn hố dân tộc Việt Nam, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử,
người thầy vẫn giữ một vị trí quan trọng trong tâm thức bao triệu con người.
Người thầy trong xã hội hiện đại rất cởi mở và gần gũi. Không những là
người truyền đạt kiến thức từ sách vở, người thầy đóng vai trị là người đi trước,
truyền đạt kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm sống và cả kinh nghiệm ứng xử
cho học trò của mình. Người thầy của thời đại mới khơng nhồi nhét mớ kiến
thức khơ cứng từ sách vở vào học trị như cái thời người học phải ê a “Tứ thư
ngũ kinh” người thầy hôm nay là người thầy mở đường để học trò tự thân vận
động nhiều hơn. Thầy sẽ là người gieo hạt, nhưng hạt muốn vươn thành cây thì
phải dựa vào chính mình. Điều đó khơng có nghĩa là thầy khơng thương học trị
của mình, thầy thương lắm chứ ! Vì thầy muốn học trị phải đi trên chính đơi
chân của mình, biến kiến thức mình góp nhặt được thành tri thức của bản thân :
và khi đứng trên chính đơi chân của mình thì người học sẽ biết cách tự đứng dậy,
sau những lần vấp ngã, tự tin và bản lĩnh hơn khi đối mặt với khó khăn, thử
thách.
Nói như vậy để thấy rằng người thầy trong xã hội nào cũng đóng vai trị
rất quan trọng, và cũng được sự đón nhận trân trọng của xã hội. Đứng trên góc
nhìn của một người trong xã hội hiện đại, tơi đề cao vai trị, vị trí của người thầy
trong thời đại ngày này. Và vì thế tơi càng biết ơn sâu sắc những người thầy,
người cơ của mình, những người đã đặt vào hành trang của tôi chiếc chìa khố
và đào tạo tơi có đủ bản lĩnh, niềm tin và nghị lực để mở cánh cửa vào đời.
3. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
Lao động của người giáo viên, lao động sư phạm là loại hình lao động đặc
biệt. Hiểu được loại lao động này, chúng ta mới có được những quyết định quản
lý thích hợp. Bất cứ lao động nào cũng có ba khâu: sử dụng công cụ lao động,
tác động lên đối tượng lao động và tiêu phí sức lao động.
Kế thừa truyền thống nho học, Người thầy được Gia đình và Xã hội Việt
Nam tôn vinh -Những người Thầy “đạo cao, đức trọng” được xem như bậc hiển
thánh... Thế nhưng, thời buổi kinh tế thị trường, người thầy cũng phải bươn chải,
cũng phải lo miếng cơm manh áo... Khó thật, sống sao đây cho sáng Đức thầy?
10
Trong xã hội nghề dạy học hình thành sớm nhất. Nó ra đời khi nền sản
xuất xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Trong quá trình lao động sản
xuất người ta cần phải truyền lại cho nhau những kinh nghiệm đấu tranh với
thiên nhiên có hiệu quả để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mới đầu ở mức
thấp, người ta có thể truyền đạt một cách trực tiếp thành quả lao động tập thể,
người này theo kinh nghiệm của người khác. Nhưng khi kinh nghiệm đã phong
phú theo sự phát triển của sản xuất thị truyền đạt phải đòi hỏi đến vai trò của
người trung gian. Đó là thầy giáo. Như vậy nghề dạy học gắn chặt với lao động
sản xuất của xã hội, góp phần hình thành phẩm chất nǎng lực cần thiết của con
người lao động.
3.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đang
lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này không phải là vật vô tri vô
giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ
của người thợ mộc ... mà là một con người rất nhạy cảm với những tác độgn của
môi trường bên ngồi theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Như vậy
người giáo viên phải lựa chọn và gia công lại những tác động xã hội và tri thức
lồi ngd bằng lao động sư phạm của mình nhằm hình thành con người đáp ứng
yêu cầu của xã hội. Đối tượng đó vừa là khách vừa là chủ thể của q trình giáo
dục. Tác động đến đối tượng đó không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như
nhau. Hiệu qủa đó cũng khơng tỷ lệ thuận với số lần tác động. Do đó, trong tay
người giáo viên phải có vơ số phương án để tác động đến đối tượng, khơng thể
rập khn máy móc như lao động khác. Bản thân đối tượng lao động đã quyết
định tính đặc thù của lao động sư phạm của nghề dạy học.
Cũng là đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, nhưng con người với tư
cách là đối tượng của thầy giáo cũng khơng hồn tồn giống với con người trong
quan hệ với thầy thuốc, chị bán hành… đó là con người đang trong thời kỳ
chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của con người. Hoạt động chính là người thầy
giáo là điều khiển và tổ chức trẻ lĩnh hội, thông thái những kinh nghiệm, những
tinh hoa mà lồi người tích lũy được và biến chúng trở thành những nét nhân
cách của chín mình. Khơng ai trong xã hội ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi nữa
cũng không thế thay thế được thức năng của người thầy giáo. Nghề thầy giáo có
ý nghĩa chính trị kinh tế to lớn
11
3.2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình
Thế cơng cụ của người giáo viên là gì? Có người cho rằng chỉ là kiến
thức. Theo tơi đó mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Bởi vì trong xã hội ta
ngày nay con người mới phải phát triển tồn diện chứ khơng chỉ có kiến thức
đơn thuần. Đúng là tri thức có vai trị quan trọng đối với con người, là vũ khí để
bảo vệ cuộc sống tri thức vô cùngcần thiết đối với mỗi giáo viên. Đối với cuộc
đời nó là cơng cụ lao động trí óc và tay chân. Nhưng Mác nói: "Hồn cảnh tạo ra
con người trong chừng mực con người tạo ra hồn cảnh". Bản thân tri thức
khơng thể hồn thành con người mới, con người chỉ hình thành thơng qua hoạt
động lao động sản xuất và đấu tranh xã hội một cách tích cực và tự giác. Ngồi
ra trí thức cịn có cơng cụ nữa là để hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả, đó
chính là lao động sư phạm của người giáo viên. Như vậy công cụ chủ yếu của
lao động sư phạm là người giáo viên với tồn bộ nhân cách của mình. Nhân cách
này càng tinh xảo, càng hồn hảo thì sản phẩm làm ra càng hồn thiện. Nhân
cách đó bao gồm tâm hồn, tư tưởng, phong cách sống cũng như sinh hoạt của
người giáo viên. Từ đó chúng ta có thể thấy rõ hơn, nếu người giáo viên thiếu
nhân cách thì khơng thể giáo dục nhân cách cho học sinh
Nghề nào cũng bằng công cụ để gia công vào vật liệu tạo ra sản phẩm.
Cơng cụ càng tốt, càng hiện đại thì kết quả gia cơng càng cao. Cơng cụ đó thể
hiện ở trong hay ở ngoài người lao động.
Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để
tác động vào học sinh. Công cụ chủ yếu của người thầy giáo là chính bản thân
ơng ấy, là nhân cách của chính mình. Cho nên ngươi, nghề thầy giáo địi hỏi
những phẩm chất và năng lực rất cao. Hơn nữa nghề thầy giáo là nghề lao động
nghiêm túc không được phép tạo ra thứ phẩm.
3.3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội
Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái xản suất
của cải vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra của cải vất chất và của cải tinh
thần cần có sức lao động. Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vất chất hay
tinh thần ở trong con người, trong nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có
để sản xuất ra sản phẩm vất chất hay tinh thần có ích cho xã hội. Cho nên chức
năng của giáo dục chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con
người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội đó. Những
12
sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, là tình
thường đồng bào, đồng loại, là đức tính cần cù sáng tạo, là trí thức, lịng u lao
động, lao động có tổ chức, có kỹ thuật và năng suất cao .
3.4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuất và tính sáng tạo cao
Người thầy giáo tồi là người đem chân lý sẵn, còn người thầy giáo giỏ là
người biết dạy học sinh đi tìm chân lý. Thực hiện cơng việc dạy học theo tinh
thần đó, rõ ràng địi hỏi người thầy giáo phải dữa trên những nền tảng khoa học
giáo dục và có kỹ năng sử dụng chúng và từng tình huống sư phạm cụ thể, thích
ứng với từng cá nhân. Quan niệm của nhà giáo như vậy và yêu cầu người thầy
giáo thực hiện chức năng xã hội của mình theo yêu đó thì cơng việc của họ địi
hỏi tính khoa học cao và tính khoa học cao đến mức khi thể hiện nó như một
người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ, một nhà thơ của quá trình sư phạm.
3.5. Nghề lao động trí óc chun nghiệp
Lao động trí óc có hai đặc điểm nổi bật: Phải có một thời lỳ khởi động,
Nghĩa là thời kỳ để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra hệ quả. Có “qn tính”
của trí tuệ. Do những đặc điểm của lao động trí óc chuyên nghiệp như trên cho
nên công việc của người thầy giáo khơng hẵn đóng khung trong khơng gian lớp
học, thời gian xác định…
Thông qua những đặc điểm lao động của người thầy giáo, chúng ta phải
đặt ra nhiều đòi hỏi trong phẩm chất và năng lực của người thầy giáo. Càng
minh chứng tính khách qua, quan trọng yêu cầu đối với nhân cách nhà giáo dục.
Những mặt khác nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho nhà giáo một vị trí tinh
thần và sự ưu đãi vất chất sứng đáng.
4. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO
Nói đến nhân cách là nới đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo
nên bản sắc (nét đặc trưng) và giá trị tinh thần (giá trị làm người) của mỗi người.
Như vậy cấu trúc nhân cách là một hệ thống gồm hai bộ phận: Phẩm chất (đức)
và năng lực (tài).
Nói đến phẩm chất là nói đến thái độ người đó đối với hiện thực (tự nhiên,
xã hội, người khác và bản thân) có nghĩa là nó là hệ thống những thuộc tính tâm
lý biểu hiện các mỗi quan hệ xã hội cụ thể đó thường được thể hiện ra hành
động, hành vi và cách sử sự đối con người, công việc, tổ chức…
13
Nói đến năng lực là nới đến mặt hiện quả của các tác độn, tác động vào
con người, vào sự việc và tạo ra hiện quả.
Phẩm chất và năng lực đều là tổ chức của ba yếu tố tâm lý cơ bản: Nhận
thức, tình cảm, ý chí. Cho nên mặt phẩm chất của nhân cách bao gồm ý thức,
niềm tin, đạo đức (nhận thức) mà biểu hiện tập trung là thế giới quan và lý
tưởng, đạo đức, tình cảm và ý chí đạo đức (biểu hiện tập trung ở nhân cách).
Trong cấu trúc nhân cách của người thầy có thể kể đến những thành phần sau
đây:
Các phẩm chất: Thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ lòng
yêu trẻ, lòng yêu nghề. Những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của
người thầy giáo.
Các năng lực sư phạm: Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và
giáo dục, trí thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực
ngôn ngữ, năng lực vạch dự án, phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp
sư phạm, năng lực cảm hóa học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm năng
lực tổ chức hoạt động sư phạm
Nhân cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoạt động.Thông qua một
tổng hòa các quan hệ giáo dục, thang giá trị, hệ thống giá trị, thước đo giá trị và
định hướng giá trị, con người trở thành nhân cách.
Nhân cách có cấu trúc phức tạp, nhiều nội dung linh hoạt. Có nhiều quan
niệm khác nhau về cấu trúc nhân cách:
- Quan niệm nhân cách bao gồm 3 lĩnh vực cơ bản là:
+ Nhận thức
+ Rung cảm
+ Hành động (trong đó có cả hành động ý chí và những kỹ năng kỹ xảo,
thói quen)
- Quan niệm nhân cách bao gồm 4 tiểu cấu trúc:
+ Xu hướng
+ Kinh nghiệm (kể cả tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen)
+ Đặc điểm các q trình tâm lý (ý chí, cảm xúc hành động...)
+ Các thuộc tính sinh học của cá nhân (khí chất, giới...)
- Quan niệm nhân cách bao gồm các tầng khác nhau:
+ Tầng nổi: Gồm các hiện tượng tâm lý được ý thức và tự ý thức.
14
+ Tầng sâu: Gồm các hiện tượng tâm lý vô thức và tiềm thức
Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính trị) bao gồm:
- Thế giới quan, nhân sinh quan
- Lập trường
- Thái độ chính trị, thái độ lao động
- Lý tưởng niềm tin
Năng lực xã hội hóa: Khả năng thích ứng, khả năng sáng tạo, khả năng cơ
động, linh hoạt, mềm dẻo trong cuộc sống xã hội
Phẩm chất cá nhân
- Các tính nết ,thói quen.
- Ham muốn, hứng thú
Năng lực chủ thể hóa: Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu hiện cái
riêng, sáng kiến, bản lĩnh
Phẩm chất ý chí
- Tính kỷ luật, tự chủ
- Tính mục đích, quả quyết
- Tính phê phán, hồi nghi khoa học
Năng lực hành động: Khả năng hành động có mục đích, có điều khiển,
chủ động tích cực
Cung cách ứng xử
- Tác phong, tính khí
- Lễ tiết
Năng lực giao lưu: khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với người
khác.
Giá trị nhân cách thể hiện ba khía cạnh:
- Giá trị là sản phẩm vật chất và tinh thần do con người, nhóm người,
cộng đồng dân tộc và loài người tạo ra.
- Giá trị là phẩm giá , phẩm chất của con người, nhóm người, cộng đồng
dân tộc và lồi người .
- Giá trị là biểu hiện mối quan hệ của con người dưới góc độ lợi ích, đánh
giá đối với tồn tại chung quanh.
Hệ thống giá trị gồm 4 nhóm
15
- Nhóm 1: Các giá trị cốt lõi: hịa bình, tự do, việc làm, gia đình, sức
khỏe, an ninh, tự trọng, cơng lý, tình nghĩa, sống có mục đích, niềm tin, tự lập,
nghề nghiệp, học vấn.
- Nhóm 2: Các giá trị cơ bản: Sáng tạo, tình u, chân lý.
- Nhóm 3: Các giá trị có ý nghĩa: Cuộc sống giàu sang, cái đẹp.
- Nhóm 4: Các giá trị khơng đặc trưng: Địa vị xã hội.
Thang giá trị là một tổ hợp giá trị xếp theo thứ tự tầng bậc ưu tiên.
Thước đo giá trị là thang giá trị được vận dụng để đánh giá và tự đánh giá
một hiện tượng xã hội, một cử chỉ, một cách ứng xử, hoặc được sử dụng để thực
hiện một hoạt động, một hành động, hành vi.
Định hướng giá trị là cơ sở để hướng tới một sư lực chọn, một cách đánh
giá, một cách nhìn, một niềm tin, một mục đích tiến tới. Cơng việc cốt lõi của
định hướng giá trị chính là giáo dục giá trị.
Nhân cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoạt động. Thơng qua một
tổng hịa các quan hệ giáo dục, thang giá trị, hệ thống giá trị, thước đo giá trị và
định hướng giá trị, con người trở thành nhân cách.
Nghiên cứu con người để tìm ra qui luật hình thành và phát triển NC con
người và nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước.
5. PHẨM CHẤT CỦA THẦY GIÁO
Trong phẩm chất tư cách của người thầy giáo trước hết phải có thế giới
quan khoa học sau khi vạch trần tính chất bịp bợm cái gọi là giáo dục phi chính
trị Đảng, V LêNin khẳng định “Nền giáo dục mới có trách nhiệm phải gắn hoạt
động cảu giáo viên với nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa”và cần bồi dưỡng
một đội ngũ những người làm công tác giáo dục và giảng dạy gắn bó chất chẽ
với Đảng, với lý tưởng của Đảng và thấm nhuần tinh thần của Đảng.
Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới quan Mác - LêNin Bao gồm
những quan điểm duy vật biến chứng về các quy luật phát triển tự nhiên, xã hội
và tư duy. Thế giới quan Mác - Lênin của người thầy giáo trước hết, dù là trình
độ học vấn của người thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy (chẳng
hạn: Qua thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động cũng
như thái độ của ơng ta đối với hoạt động đó như việc lựa chọn nội dung và
phương pháp giảng dạy và giáo dục,việc kết hợp giữa giáo dục và giảng dạy với
16
thực tiễn cuộc sống, cũng như phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện
tâm lý học sinh.
Tóm lại thế giới quan Mác - LêNin là kim chỉ nam giúp cho người thầy
giáo đi tiên phong trong đội ngũ những người xây dựng xã hội XHCN, xây
dựng niềm tin cho thế hệ đang lớn lên, và chống mọi biểu hiện của tư tưởng xa
lạ.
5.1. Thế giới khoa học
Trong phẩm chất nhân cách của người thầy giáo trước hết phải có thế giới
khoa học
5.2. Lý tưởng thế hệ trẻ
Lý tưởng thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo
lý tưởng là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo ln đi lên phía trước,
thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác lý tưởng
của thầy giáo có hình ảnh sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh.
Lý tưởng đạo tạo của thế hệ trẻ của người thầy giáo thể hiện ra ngoài bằng
niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh
với công việc, tác phong làm việc cần cù trách nhiệm lối sống giản dị và lối
sống và nhân tính.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ khơng phải là cái gì có sẵn, cũng khơng phải
là cái gì truyền từ người này qua người khác bằng cách áp đặt. Đáp lại sự hình
thành và phát triển là một quá trình hoạt động tích cực trong cơng tác giáo dục.
Chính trong q trình đó nhận thức về nghề càng được nâng cao, tình cảm nghề
nghiệp ngày càng tỏ rõ quyết tâm cao.
Vì tác dụng to lớn của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong trường sư phạm
phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu trường sư phạm
không giáo dục lý tưởng SS nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như
A X, Macarencơ đánh giá là “khơng giáo dục gì hết”
5.3. Lịng u trẻ
Lịng u người, trước hết là yêu trẻ là trong những phẩm chất đạo đức
cao quý của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong phong cách người thầy
giáo vì lịng thương người đó là đạo lý cuộc sống lịng u thương người, u trẻ
càng săn sóc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu “tôi nghĩ
17
rằng đối với một nhà giáo dục điều chủ yếu là tính người, đó là nhu cầu sâu sắc
trong con người. Có lẽ những mầm mống những hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt
động sáng tạo đầy tính người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều
vo cùng quan trọng. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì họ sẽ
có một tài sản vơ giá: đó là tính người mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân
cần chu đáo lòng thú vị”.
Lòng yêu trẻ được thầy giáo thể hiện:
Trong thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ kể cả các em học
kém và vơ kỷ luật .
Người thầy giáo có lịng u thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần
giúp đỡ họ bằng ý kiến hoặc hành động thực tế cảu mình một cách chân thành
và giản dị. Đối với họ không bao giờ có thái độ phân biệt đối xử dù có những
em chưa ngoan hoặc chậm hiểu.
Tuy nhiên lịng u trẻ của thầy giáo thể pha trộn với những nét ủy mị,
mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ, mà ngược lại.
Tóm lại, có thể nói rằng đó là bí quyết thành cơng của người thầy giáo sâu
sắc là bắt nguồn từ một thứ tính vơ cảm vơ cùng sâu sắc, đó là tình u trẻ.
5.4. Lịng u nghề (u lao động sư phạm)
Lịng u nghề và u trẻ gắn bó chắt chẽ với nhau, lồng với nhau. Càng
yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu càng yêu người mới có cơ sở để
u nghè khơng có lịng thương người, u trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những
động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì lý tưởng nghề
nghiệp.
Người thầy giáo là người ln nghĩ đến sức cống hiến cho sự nghiệp đào
tạo cho thế hệ trẻ của mình trong cơng tác giảng dạy và sự giáo dục, họ luôn
làm việc với tinh thần trách nhiệm cao luôn luôn cải tiến nội dung và phương
pháp khơng tự thảo mạn với trình độ hiểu biết và dạy nghề của mình người kỹ
sư có tâm hồn một cách xứng đáng.
Chúng ta có thể khẳng định có vai trò của phẩm chất này trong cấu trúc
nhân cách người thầy giáo bằng cách mượn câu nói của LN.Tơnxơi: “Để đạt
được thành tích trong cơng tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất.
18
5.5. Một số phẩm chất đạo đức (nét tinh cánh) và phẩm chất ý chí của
người thầy giáo
Khác với hoạt động khác, hoạt động cua người thầy giáo nhằm làm thay
đổi con người (học sinh). Do vậy mỗi quan hệ thầy trò như một vấn đề quan
trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mỗi quan hệ này ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng dạy học nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan hệ với
học sinh, sao cho qua đó khơi dậy ở họ được tính tích cực hoạt động thì các chất
lượng dạy - học sẽ được nâng cao.
Hơn nữa, người thầy giáo giáo dục học sinh không những bằng những
hành động trực tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng
thái độ và hành vi của chính mình đối vơi hiện thực.
Những phẩm chất đạo đức và nhân tố để tạo ra sự cân bằng theo quan
điếm sư phạm trong các mỗi quan hệ cụ thể giữa thầy và trò. Những phẩm chất ý
chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo
thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.
5.6. Thực trạng hiện nay
Những gì dưới đây được bạn xem là phẩm chất và năng lực cần thiết của
mỗi giáo viên (xếp thứ hạng theo tỉ lệ phiếu được học sinh lựa chọn tán thành)?
1.Công bằng,không thiên vị, phân biệt đối xử với HS: 97,2%
2. Không đe nẹt, thành kiến, trù dập HS: 90,6%
3. Gần gũi cảm thông với HS: 87,8%
4. Khuyến khích nâng đỡ HS học tập rèn luyện: 86,9%
5. Khơng tính tốn so đo hơn thiệt: 85,9%
6. Tốt bộ mơn: 85,9%
7. Có hiểu biết rộng rãi: 82,2%
8. Ln vui vẻ hịa nhã: 82,2%
9. Khơng nên tăng thu nhập bằng những việc làm không phù hợp với nghề
nghiệp và danh hiệu nhà giáo: 80,4%
10. Vị tha, hết lịng vì HS: 79,4%
Trên đây là kết quả thăm dò bằng phiếu được thực hiện với 200 HS THPT
tại Hà Nội (nội thành và ngoại thành, công lập và dân lập, trường điểm và
trường bình thường). Tất cả chỉ là tham khảo để suy nghĩ và xác định những giải
pháp cho một vấn đề lớn, ưu tiên hàng đầu, có ý nghĩa đột phá: xây dựng đội
19
ngũ nhà giáo, lực lượng chủ công quyết định đối với sự nghiệp chấn hưng nền
giáo dục của nước nhà.
Từ thống kê thể hiện qua biểu đồ, ta thấy những biểu hiện xấu bị học sinh
phản đối nhất (điểm số trên 15, nghĩa là đa số không chấp nhận) bao gồm: ăn hối
lộ: 17,92 điểm; xúc phạm học sinh yếu kém: 17,33 điểm; nói tục: 17,1 điểm;
uống rượu trước khi đến lớp: 17,09 điểm; điểm số không trung thực: 15,92
điểm; có thái độ thành kiến với một số học sinh nào đó: 15,22 điểm.
Những khuyết điểm nào thuộc loại rất có hại đối với hình ảnh người giáo
viên? Trong số sáu biểu hiện xấu nói trên thì có hai biểu hiện là “nói tục” và
“uống rượu trước khi đến lớp” thuộc về tác phong và do đó có thể dễ dàng nhận
được sự góp ý từ học sinh hay đồng nghiệp để sửa chữa. Vì thế theo quan điểm
riêng của chúng tơi thì đó khơng phải là những lỗi thuộc loại rất có hại đối với
hình ảnh người giáo viên.
Biểu hiện “ăn hối lộ” có điểm số phê phán cao nhất. Tuy nhiên theo ý kiến
riêng của chúng tơi thì đó khơng phải là một lỗi phổ biến và dễ bị học sinh nhận
thấy. Do đó chúng tơi khơng xếp lỗi này vào loại rất có hại cho hình ảnh người
giáo viên.
Ba biểu hiện xấu cịn lại theo chúng tơi là hết sức nguy hiểm đối với hình
ảnh người giáo viên vì đây là ba lỗi phổ biến, dễ mắc phải ở giáo viên và cũng
dễ bị học sinh nhận ra.
Đặc biệt, theo quan điểm của chúng tôi, các giáo viên cần hết sức tránh lỗi
“xúc phạm học sinh yếu kém” bởi vì lỗi này chẳng những bị học sinh phản đối
gay gắt mà cịn là một lỗi rất khó nhận ra, khó bị phản ánh vì nó diễn ra dưới
nhiều cấp độ và nhiều hình thức, thậm chí nhiều giáo viên cịn ngộ nhận những
hành động của mình là có tính sư phạm, vì lợi ích của các em.
Những khuyết điểm nào ở người giáo viên mà học sinh cho là có thể tạm
chấp nhận được?
Nhìn chung các em có xu hướng châm chước cho những khuyết điểm của
người giáo viên trong đời sống xã hội và phản đối mạnh những biểu hiện, những
khuyết điểm thể hiện trong môi trường sư phạm, ảnh hưởng trực tiếp đến các
em.
Tuy nhiên khơng phải vì vậy mà người giá, lối sống vì những biểu hiện
này tuy không bị học sinh phản đối quyết liệt nhưng về lâu về dài sẽ có ảnh
20
hưởng rất xấu đến sự hình thành nhân cách và quan điểm của học sinh, khiến
cho học sinh khó trở thành những công dân tốt nếu được giáo dục bởi những
người thầy có quan điểm sai lệch.
Ví dụ: có thái độ vọng ngoại, chê bai con người và sản phẩm của Việt
Nam.
Đặc biệt, đáng ngạc nhiên là “đi trễ”, một lỗi của giáo viên có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của học sinh lại không bị các em phản đối mạnh. Điều này
cũng thể hiện rằng ý thức kỷ luật về giờ giấc của các em chưa cao, rất khơng có
lợi cho tương lai các em cũng như sự phát triển của xã hội. Các quý thầy cô cần
đặc biệt quan tâm giáo dục các em về vấn đề này
6. NĂNG LỰC
Xã hội ta từ xưa đã có truyền thống tôn sư trọng đạo. Những bậc thầy như
Chu Văn An thời nào cũng đựợc nhân dân ngưỡng mộ và kính trọng. Ngay trong
hồn cảnh chiến tranh ác liệt mấy chục năm trước đây, khó khăn trăm bề, mà
ngành giáo dục vẫn hoạt động có hiệu quả, xứng đáng là bông hoa đẹp của đất
nước, cũng là nhờ cái tinh thần trọng thầy, ham học, chuộng tri thức của người
dân.
Thế nhưng, từ vài chục năm lại đây, cùng với những khó khăn kinh niên
của giáo dục, vị thế người thầy trong xã hội ta xuống thấp đáng lo ngại. Tất
nhiên ngày nay, hoàn cảnh xã hội, điều kiện giảng dạy, học tập, đã khác trước
nhiều thì những quan niệm về người thầy cũng phải thay đổi, không thể cứ giữ
mãi những khuôn mẫu cứng nhắc của mấy chục năm về trước. Nhiều vấn đề mới
xuất hiện cần phải được nghiên cứu, xem xét, nhìn nhận lại, để kịp thời điều
chỉnh chủ trương, chính sách cho thích hợp. Trong đó đặc biệt quan trọng là
nhận thức về người thầy trong nhà trường hiện đại. Tơi nói nhà trường hiện đại
vì muốn hiện đại hóa đất nước thì phải bắt đầu bằng việc hiện đại hóa giáo dục,
khơng thể tiếp tục để cho nhà trường tụt hậu thêm nữa.
Có người cho rằng, do sự bùng nổ cách mạng công nghệ thông tin, hàng
lọat phương tiện kỹ thuật ra đời hỗ trợ đắc lực cho việc học, thì vị trí ơng thầy
lui dần xuống hàng thứ yếu, hay ít ra người thầy khơng còn giữ vai trò quyết
định then chốt trong nhà trường như trước đây nữa. Ý kiến này mới nghe xem ra
có lý, nhưng đã khơng được khoa học và kinh nghiệm thưc tiễn xác nhận. Trong
số các nghiên cứu khoa học đáng chú ý về vấn đề này có cơng trình của J. Hattie
21
trong đó, dựa trên những dữ liệu về hơn 50 triệu học sinh mọi lứa tuổi và thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau, và dùng phương pháp phân tích nhân tố để khảo sát
ảnh hưởng tương đối của các yếu tố khác nhau đến chất lượng giáo dục, như:
trình độ, khả năng tiếp thu, tinh thần ham học của người học, năng lực, phương
pháp giảng dạy của thầy, chất lượng và sự phong phú các phương tiện hỗ trợ học
tập, đặc biệt là về công nghệ thông tin, v.v… tác giả đã đi đến kết luận là ngay
cả trong nhà trường hiện đại, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thơng tin, thì
vai trị quyết định nhất đối với chất lượng giáo dục vẫn thuộc về các yếu tố liên
quan trực tiếp tới người thầy. Thầy giỏi vẫn là nhân tố quyết định nhất đối với
hiệu quả giáo dục trong nhà trường hiện đại.
Cũng có người nghĩ rằng theo phương pháp sư phạm tiên tiến phải lấy học
sinh làm trung tâm, đề cao việc tự học, phát huy tối đa tính tích cực tự giác của
học sinh, cho nên học sinh chứ không phải thầy giáo là nhân vật trung tâm trong
nhà trường. Thật ra các yêu cầu vừa nói về phương pháp giáo dục tiên tiến đã
được nêu ra từ nhiều thế kỷ trước, sở dĩ gần đây được nhấn mạnh đặc biệt là do
bước vào kinh tế tri thức việc rèn luyện tính năng động sáng tạo cho học sinh
được nhìn nhận là cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhưng đó chỉ là nói nhiệm vụ của
thầy, những việc thầy cần làm, các phương pháp thầy cần áp dụng để nâng cao
hiệu quả giảng dạy, chứ không phải vì những việc ấy mà giảm nhẹ vai trị của
thầy. Chính vì thế trong một tài liệu giới thiệu khá đầy đủ về phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm, tác giả R. Batliner đã khẳng định ngay ở trang
đầu: “giáo viên là yếu tố chủ chốt quyết định việc dạy và học có chất lượng”.
Mà cũng dễ hiểu thôi: lọai trừ những trường hợp xuất chúng đặc biệt, cịn đối
với số đơng học sinh, từ tiểu học cho đến đại học, muốn phát huy và phát triển
nội lực mà khơng có thầy giỏi thì làm sao được. Đành rằng khi đã có thầy tốt thì
đối với mỗi học sinh, kết quả học tập phụ thuộc chủ yếu vào cố gắng của bản
thân, song khi bàn đến chất lượng giáo dục thì phải xem xét cái phần gia tăng
của nội lực nhờ tác động của giáo dục mà phát huy và phát triển thêm được, cái
đó mới là thước đo chất lượng, hiệu quả của giáo dục, chứ khơng phải bản thân
cái nội lực sẵn có của học sinh. Cho nên, dù có nhiều cách học khơng cần có
thầy trực tiếp, song theo kinh nghiệm của bản thân tôi cũng như của nhiều người
đã từng tự học là chính, thì cách học hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian, công sức
nhất, vẫn là học với thầy giỏi. It ra có thầy giỏi thì tránh được những đường
22
vịng khơng cần thíết và đỡ mất cơng mị mẫm tìm hướng đi giữa các rừng kiến
thức. Đương nhiên thầy không phải là nhân tố quyết định duy nhất, nhưng xét
cho kỹ có thể nói khơng có nhân tố đơn lẻ nào quan trọng hơn.
Sứ mạng của nhà trường, của thầy là phải thông qua giáo dục mà đánh
thức cái tiềm năng trong mỗi học sinh, khơi dậy và phát triển cái nội lực đó của
họ. Sứ mạng đó thật cao quý và quan trọng. Thầy không chỉ dạy cho học sinh
học, mà còn phải từng bước dạy cho học sinh biết tự học, tự đọc sách, tìm tịi,
tra cứu, phát hiện ra điều mới, và ở bậc đại học hay nghiên cứu thì tập dượt sáng
tạo ra tri thức mới, nghĩa là phát huy tích cực nội lực của mình để thơng qua tri
thức mà phát triển trí tuệ, phát triển tư duy, rèn luyện nhân cách, chứ không phải
chỉ tiếp thu tri thức một cách thụ động, dù là tri thức tiên tiến.
Gần đây cũng có ý kiến cho rằng khơng phải thầy, mà chương trình đào
tạo mới là yếu tố quyết định nhất đối với chất lượng đại học. Nếu quả vậy thì
vấn đề chất lượng đại học quá đơn giản, vì chỉ cần cải tiến chương trình đào tạo,
thậm chí bê ngun xi chương trình đào tạo của một trường nổi tiếng ở nước
ngoài vào là giải quyết được. Tiếc thay khơng có thầy giỏi thì làm sao xây dựng
được và thực hiện được chương trình đào tạo tốt. Có lẽ trên thế giới chỉ duy nhất
các đại học của ta mới khơng xem trọng trình độ, năng lực thực tế của đội ngũ
thầy giáo và do đó trong hàng chục năm khơng hề đặt nặng vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển chọn thầy giáo, mặc dù sự hụt hẫng của đội ngũ này đã được báo
động từ lâu. Trong khi đó thì tuyển chọn và công nhận GS, PGS làm rất tắc
trách, gây thêm nhiều lo lắng cho chất lượng đại học. Còn ở các nước tiên tiến
thì trái lại họ đặt tất cả uy tín, danh tiếng (chứ khơng phải “thương hiệu”, như
một số người bắt đầu nói đến) của một đại học trước hết vào việc xây dựng một
đội ngũ giảng dạy có chất lượng, trình độ cao. Chỉ cần biết có bao nhiêu giáo sư
nổi tiếng dạy ở một trường là đủ cho người ta tin tưởng trường đó, khơng phải vì
người ta ít quan tâm chương trình đào tạo mà vì người ta cho rằng có nhiều thầy
giỏi thì mới có chương trình đào tạo tốt. Cịn khơng có thầy giỏi thì dẫu chương
trình đào tạo hay bao nhiêu họ cũng tin rằng chất lượng đào tạo chẳng ra gì (tất
nhiên khơng loại trừ cá biệt có sinh viên học trường đó mà vẫn rất giỏi). Cái
điều đơn giản này mà chúng ta cịn mơ hồ thì e rằng sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu
là nhiều đại học tụt dần xuống “phổ thông cấp 4” như nhiều người đang lo ngại.
23
Tóm lại, câu nói: “khơng thầy đố mầy làm nên”, cũng như “học thầy
khơng tầy học bạn” đều có phần chân lý của nó và đều khơng nên hiểu một cách
cực đoan, máy móc. Bất kể thế nào, khơng có thầy giỏi, về cả hai mặt năng lực
chuyên môn và phẩm chất đạo đức, thì khó có thể có một nền giáo dục thật sự có
chất lượng, dù cho người học thơng minh, có đầy đủ nội lực, và dù cho chương
trình đào tạo tiên tiến.
Như vậy muốn có thầy giỏi, thầy ra thầy, trong nhà trường hiện đại thật
không dễ chút nào. Càng không dễ trong một xã hội và một thế giới đang
chuyển biến chóng mặt, ở đó nhiều vấn đề, nhiều kiến thức, nhiều quan niệm
mới hôm qua cịn được chấp nhận, hơm nay đã có thể khơng cịn thích hợp nữa.
Trong lúc đó mục tiêu giáo dục không phải chỉ nhằm đào tạo con người làm
ngay được một nghề nghiệp, một công việc cụ thể trước mắt mà cịn phải nhìn
xa hơn, đào tạo những con người có khả năng thích ứng linh họat với những
hồn cảnh, những nghề nghiệp, những công việc luôn luôn thay đổi sau này,
những con người thạo việc, năng động, sáng tạo, biêt lo cho bản thân, cho cộng
đồng, đồng thời cũng là những cơng dân có trách nhiệm với xã hội, với đất
nước.
Kỳ vọng của xã hội đối với người thầy như thế cao quá chăng ? Đúng là
vậy, song tơi nghĩ chỉ khi nào một xã hội có can đảm đặt lên vai người thầy một
sứ mạng rất trọng đại, và làm hết trách nhiệm của mình để tạo điều kiện đầy đủ
cho người thầy thực hiện sứ mạng đó thì khi ấy xã hội mới khơng cịn phải lo
lắng nhiều đến tương lai. Còn trái lại, kỳ vọng quá thấp ở người thầy, hoặc chỉ
biết đòi hỏi mà khơng chăm lo một cách có trách nhiệm để cho thầy có đủ điều
kiện vật chất và tinh thần làm trọn sứ mạng cao cả của mình, thì chưa biết các
thế hệ đời sau sẽ nghĩ gì về thế hệ hôm nay.
Mặc dù kỳ vọng rất cao ở đội ngũ thầy giáo của chúng ta và rât tin tưởng
ở tiềm lực cũng như tâm huyết của đội ngũ ấy, trong lịng tơi vẫn day dứt một
câu hỏi: khi nào thì các khó khăn của các thầy, các cơ mới được thơng cảm và
tháo gỡ hết, có cách gì để tâm huyết và tài năng của các thầy, các cô, không bị
lãng phí vào những chuyện phi lý mà tơi tin chắc phần lớn các thầy, các cô đều
không mong muốn, để tất cả chúng ta cùng chung sức chấn hưng giáo dục, vì
tương lai con em, vì đất nước ngàn năm văn hiến của chúng ta ?
24
Hoạt động của người thầy của ngưòi thầy giáo biểu hiện ở tất cả các hình
thức khác nhau của cơng tác sư phạm nhưng tựu chung lại ở hai dạng đặc trưng:
công tác dạy học và công tác giáo dục.
Sau đây ta sẽ xét một số năng lực đỉnh hình trong các nhóm củ năng lực
sư phạm.
6.1. Nhóm năng lực dạy học
a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Dạy học là một quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động
dạy học do hai thực thể (thầy và trò) đảm nhiệm. trong q trình đó, chức năng
của thầy là tổ chức và điều khiển hoạt động của trò, chức năng của trò là chiếm
lĩnh nền văn hóa xã hội
Một thầy giáo có năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bị bài giảng đã biết
tính đến trình độ văn hóa, trinh độ phát của chúng, hinh dung được từng em cái
gì cũng biết, biết đến đâu, cái gì có thể qn hoặc khó hiểu. Đó là năng lực
"thâm nhập" vào thế giới bên trong của trẻ. Vì vậy biểu hiện trước hết củ năng
lực hiểu học sinh là ở chổ, thầy biết xá định được khối lượng kiến thức đã có,
phạm vi lĩnh hội của học sinh và từ đó xác định đựoc mức độ và khối lượng kiến
thức mới cần trình bày cho cơng tác dạy học hay giáo dục. Nó cịn thể hiện ở
chỗ dự đốn được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng mức độ căng thẳng cần
thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.
Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách
nhiệm, thương yêu và sâu xát học sinh, nắm vững mơn mình dạy, am hiểu đầ đủ
về tâm lý học trẻ em, tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần
thiết như sự "tinh ý" sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng khả năng phân tích
tổng hợp.
b. Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo
Đây là một năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng
lực trụ cột của nghề dạy học. Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết rộng
thể hiện ở chỗ:
- Nắm vững và hiểu biết rộng mơn mình phụ trách.
- Thường xun theo dõi xu hướng, những phát minh khoa học do mơn
mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thú lớn
lao đối với nó.
25