Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

NHAN CACH NGUOI THAY GIAO 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.16 KB, 49 trang )

Mở đầu
A. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế phát triển xà hội đòi hỏi một nguồn lực rất lớn
để góp phần xây dựng đất nớc, con ngời với t cách là chủ thể
của mọi sự sáng tạo, mọi của cải vật chất và văn hoá, chủ thể
xây dựng xà hội công bằng, dân chủ, văn minh. Con ngời phát
triển cao vỊ trÝ t, cêng tr¸ng vỊ thĨ chÊt, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực xà hội, đồng thời
là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa XÃ Hội.
Đối với Giáo Dục- Đào Tạo đội ngũ giáo viên là lực lợng chính
thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nớc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đà nói: không có thầy giáo thì không có
giáo dục. Trong xà hội hiện đại vai trò của ngời thầy đợc đánh
giá ở cách nhìn mới và tầm cao mới. Luật giáo dục 2005 đÃ
khẳng định: nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lợng giáo dục.Đảng ta khẳng định Giáo viên là
nhân tố quyết định chất lợng của giáo dục và đơc x· héi t«n
vinh. Giáo viên phải có đủ đức, tài”. thống đạo đức nghề nghiệp, ảnh hưởng
tiêu cực đến đạo đức người thầy: Hiện tượng Thực tế, trong nhiều năm qua, dù
khó khăn nhưng giá trị đạo đức cao đẹp: Lòng yêu nghề; việc đề cao “Đạo lý
làm người” lấy “Dạy người”, “Dạy nghề” làm lẽ sống; coi trọng danh dự, xác
lập vị trí của mình bằng tài năng, đức độ; vì thế hệ trẻ mà “Hành nghề” vẫn
được giáo viên dạy nghề gìn giữ và phát huy. Đối diện với thực tế hiện nay, đạo
đức giáo viên dạy nghề phải vượt qua được rào cản và một số biểu hiện lệch lạc,
bất cập, làm suy giảm truyền đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, các tệ
nạn xã hội khác... dường như ngày càng lấn át phẩm giá con người, trong đó có
người thầy giáo, tác động xấu đến tình cảm, nguyện vọng của những người dạy
nghề...Để giáo viên dạy nghề giữ được truyền thống Nhà giáo Việt Nam coi

1



nghề dạy nghề là nghề kiếm sống đặc biệt, giáo viên dạy nghề là tấm gương trực
tiếo giáo dục học sinh, sinh viên học nghề. Cần phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cụ thể là:
Đối với giáo viên dạy nghề, luôn phải thể hiện sự cần cù, chịu khó, tận
dụng tối đa thời gian để học tập, rèn luyện; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Coi trọng bồi dưỡng ý trí, khát vọng và trí
hướng vươn lên hồn thiện năng lực sư phạm, kiến thức, kỹ năng nghề, biết tự
kiềm chế, tự học để có hiểu biết sâu rộng về chuyên mơn nghiệp vụ, khai thác và
sử dụng triệt để có hiệu quả thiết bị dạy nghề để truyền kiến thức, kỹ năng, trí
lực, thái độ nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên học nghề. Xây dựng cho đội
ngũ giáo viên dạy nghề niềm tin, lịng nhân ái, vị tha, ln tôn trọng và yêu mến
con người, say xưa với sự nghiệp dạy nghề, có tình cảm dân tộc sâu sắc và lòng
tự trọng cao. Yêu thương, quý mến học sinh học nghề, phải luôn gắn liền, kết
hợp nhuần nhuyễn với sự khiêm tốn, giản dị trong sinh hoạt; sống lạc quan, giàu
hoài bão, trung thực, thẳng thắn và cầu thị...
Như vậy nhân cách ngời giáo viên là một trong những vấn
đề lớn của xà hội ngày nay. Nó ảnh hởng tới sự phát riển của
đất nc.

2


B. Nội dung
1. Một số khái niệm
Nhân cách là gì?
Nhân cách đợc hiểu nh mặt đạo đức,giá trị của cong ngời.Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn
tâm lý hoc đại cơng nêu lên định nghĩa nh sau.
Nhân cách là những đặc điểm,những thuộc tính tâm
lý của cá nhân,biểu hiện bản sắc và giá trị xà hội của con ngời.Nhân cách la sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể

của con ngời mà chỉ là những đặc điểm quy định con ngời
la một thành viên của xà hội nói lên bộ mặt tâm lý xà hội giá trị
cốt cách làm ngời của mỗi cá nhân.
Trong t tởng Hồ Chí Minh, vấn đề nhân cách đợc ngời đề
cập đến trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách.
Ngời khẳng định nếu không có đạo đức thì tài năng cũng vô
dụng. Ngời viết: Cũng nh sông có nguồn thì sông mới có nớc,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Ngời phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài
giỏi đến mấy cũng không lÃnh đạo đợc nhân dân (Hồ Chí
Minh, 1959, Sửa đổi lề lối làm việc, nhà xuất bản sự thật, Hà
Nội ).
Thứ hai, nhân cách là t cách làm ngời, mỗi ngời đều có t
cách của mình, Hồ Chí Minh xác định rất rõ t cách của ngời

3


Đảng viên, ngời Đoàn viên ngay trong sáu điều Bác dạy Công
An nhân dân, năm điều Bác dạy học sinh thể hiện rõ nét
về điều này.
Thứ ba, Hồ Chí Minh đà đề cập đến những phẩm chất
của nhân cách bao gồm: nhân, nghiÃ, trí, dũng, liêm. Nhân là
thơng yêu, lòng giúp đỡ mọi ngời, nghĩa là ngay thẳng, đối xử
với ngời theo lẽ phải, trí là đầu óc trong sáng, hành sự công
việc có lợi cho đoàn thể, dũng là dũng cảm trong lao động,
trong chiến đấu nhng cũng phải dũng cảm tự phê bình bản
thân, khắc phục sữa chữa những sai lầm khuyết diểm để từ
đó tiến bộ. Bản thân ngời cũng là sự hoà quyện nhiều phẩm

chất nhân cách: anh hùng và nhà văn hoá, nhà quân sự và nhà
thơ, nghệ sĩ. 1.1 c iờm nhõn cách người thây giáo
Trong giáo dục, tất cả đều phải dựa vào nhân cách của người giáo viên bởi
sức mạnh giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách con người chân chính. Khơng có
một điều lệ và chương trình nào, không một cơ quan giáo dục nào, dù nghĩ ra
một nhân cách khôn khéo đến đâu cũng không thể thay thế được nhân cách
trong sự nghiệp giáo dục... Khơng có sự tác động cá nhân trực tiếp của người
giáo dục đối với người được giáo dục thì khơng thể có được giáo dục chân chính
thấm sâu vào tính cách. Chỉ có cá nhân mới có thể tác động tới sự phát triển và
quyết định của cá nhân, chỉ có bằng tính cách mới tạo ra được tính cách. Vì vậy,
trong giáo dục nhà trường điều quan trọng nhất là lựa chọn người giáo dục,
chính họ phải biết tác động đến người được giáo dục khơng chỉ bằng lời nói mà
cịn bằng tấm gương”. Theo L.X.Vugôtxki người lớn phải mang lại cho con trẻ
khu vực phát triển gần nhất, còn phát triển là một quá trình phụ thuộc vào sự
hình thành phương hướng có mục tiêu. Điều đó đặt ra những yêu cầu nhất định
đối với nhân cách của người lớn, trước hết là nhân cách của thầy giáo, người
chịu trách nhiệm điều khiển sự phát triển của trẻ em, tích cực tạo ra nhân cách
của nó.
4


Hoạt động sư phạm đặt ra những yêu cầu rất cao về nhân cách của người
thầy giáo.
Nhà trường luôn luôn chú trọng đến ý nghĩa của tấm gương người thầy
giáo trong giáo dục đạo đức cho học sinh. Quan điểm giáo dục được thể hiện rất
rõ trong ý tưởng của K.Mác nêu ra trong thời đại của mình rằng “nếu anh muốn
ảnh hưởng đến những người khác thì anh phải là người thực sự tác động và đi
trước những người khác”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời cách mạng luôn quan tâm đến
sự nghiệp giáo dục. Về phương pháp giáo dục, Người đặc biệt chú ý phương

pháp nêu gương. Đây là phương pháp giáo dục mà Người cho là rất sinh động và
có sức thuyết phục cao, vì “Một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền”. Thầy, cô giáo là những tấm gương sáng có tác dụng rất
lớn trong giáo dục thế hệ trẻ “Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt”, “Thầy xấu thì ảnh
hưởng xấu”, “Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải mực thước cho người ta bắt
chước”.
A.X. Macarencơ khi nói về vai trò của tập thể trong sự nghiệp giáo dục đã
nhận xét các trường hợp ảnh hưởng của tấm gương và có chú ý đến chúng trong
thực tiễn sư phạm của mình.
Vấn đề ảnh hưởng cá nhân của mỗi thầy giáo đối với học sinh được thể
hiện trong cuốn sách của N.V.Cudơmina. Bà viết: “Do sự tác động của thầy giáo
mà hình thành thế giới quan đạo đức, trí tuệ và định hướng nghề nghiệp ở học
sinh”, tiếp theo: “Nhân cách của thầy giáo, tính chất, hệ thống các mối quan hệ
qua lại của thầy giáo đối với học sinh là tấm gương, là hình mẫu. Thêm nữa, đó
khơng phải là tấm gương tiêu cực. Nhiệm vụ của thầy giáo là tạo ra một cách
tích cực và có mục tiêu các nét tính cách cho học sinh”.
Phân tích các cơng trình nghiên cứu lao động của người giáo viên cho
thấy rằng các đặc điểm nhân cách chủ đạo của người giáo viên là thế giới quan
duy vật mác- xít. Đặc điểm nhân cách đó có mối liên hệ chặt chẽ với tình cảm
đạo đức làm cho lao động của người thầy giáo có lý tưởng và hữu ích. Để thực
5


hiện được vai trị của mình thầy giáo cần phải có các đặc điểm nhân cách sau
đây: Quan hệ ân cần với học sinh, cơng tâm, trung thực, nhiệt tình, không đánh
giá thiên vị các kiến thức và hành vi của học sinh, có tính u cầu cao, sức mạnh
ý chí, nhẫn nại, tự chủ, tính nguyên tắc khiêm tốn, cẩn thận.
Nghiên cứu về các đặc điểm và phẩm chất nhân cách của người thầy giáo
cho thấy rằng có một số năng lực dạy học của giáo viên (khả năng giải thích rõ
ràng tài liệu, tính yêu cầu cao, sự hứng thú với môn học, v.v...), số khác là các

năng lực giáo dục (sự công tâm, ân cần, thái độ như nhau đối với tất cả học sinh,
hiểu họ, biết khả năng tổ chức, v.v...) và các phẩm chất cá nhân (khiêm tốn, u
đời, có đầu óc tự phê bình, có văn hố, tính kiên quyết, nhẫn nại, v.v...). Sự hình
thành các phẩm chất này diễn ra trong sự thống nhất và ở mức độ cao sẽ tạo nên
sức mạnh ảnh hưởng của thầy giáo đối với học sinh.
Nhiều tác phẩm nghiên cứu cịn cho thấy khơng có một nghề nghiệp nào
mà nhân cách của con người, lòng tin, hành vi đạo đức của họ, thái độ đối với
con người, với sự nghiệp lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và có tính quyết định
như nghề thầy giáo, thậm chí hình dáng bên ngồi của thầy giáo cũng ảnh hưởng
đến sự hình thành uy tín của họ. Để hoạt động có kết quả người thầy giáo cịn
phải có cả những năng lực sư phạm chuyên biệt. Sự kết hợp thống nhất các đặc
điểm nhân cách của người thầy giáo là điều kiện để đạt được kết quả cao trong
giảng dy v giỏo dc tr em.
3. Cấu trúc nhân cách
Nhân cách có cấu trúc phức tạp, nhiều nội dung, linh hoạt.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách :
- A. G. Côvaliôv cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm : các
quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm
lý cá nhân.
- Có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực
cơ bản : nhận thức( bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ),

6


tình cảm ( rung cảm, thái độ ) và ý chí ( phẩm chất, ý chí, kỹ
năng, kỹ xảo, thói quen)
- K.K.Platônôv nêu lên bốn kiểu cấu trúc của nhân c¸ch nh
sau:
+ TiĨu cÊu tróc cã ngn gèc sinh häc ( bao gồm khí chất,

giới tính, lứa tuổi và đôi khi cả những thuộc tính bệnh lí).
+ Tiểu cấu trúc về đặc điểm của các quá trình tâm lý (
cảm gi¸c, tri gi¸c, trÝ nhí, t duy…).
+ TiĨu cÊu tróc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực
+ Tiểu cấu trúc xu hớng nhân cách : nhu cÇu, høng thó, lÝ
tëng, thÕ giíi quan, niỊm tin…
- Cã quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm các tầng
khác nhau :
+ Tầng nổi : gồm các hiện tơng tâm lý đợc ý thức và tự ý
thức.
+ Tầng sâu : gồm các hiên tợng tâm lý vô thức, tiềm thức.
- Có quan điểm cho rằng nhân cách gồm bốn khối :
+ Xu hớng : quy định tính lựa chọn của các thái độ và
tính tích cực của con ngời. Bao gåm hƯ thèng nhu cÇu, høng
thó, lÝ tëng, niỊm tin và nhân sinh quan, thế giới quan.
+ Khả năng : là năng lực tổng hợp các thuộc tính cá nhân.
Bao gồm : năng lực chung, năng lực chuyên biệt, năng lực cải
tạo và sáng tạo, năng lực học tập và nghiên cứu
+ Phong cách hành vi : do tính cách và khí chất quyết
định. Tính cách là hệ thống thái độ của con ngời đối với thế
giới khách quan và đối với bản thân. Khí chất là những thuộc
tính cá nhân của tâm lý con ngời quy định sắc thái bªn

7


ngoài của đời sống tinh thần, là một mặt của bản chất con ngời.
+ Hệ thống điều khiển : còn gọi là cái tôi của nhân cách,
tự điều chỉnh, tự kiểm tra và đièu chỉnh hành vi, hành động

của cá nhân. Có thể coi đây là quan niệm bao quát đầy dủ
và hợp lý hơn cả.
- Cấu trúc nhân cách của đức và tài : đức và tài là cách
nói quen thc cđa ViƯt Nam (phï hỵp víi quan niƯm câu trúc
nhân cách bốn khối) và đợc xếp thành 2 mặt thống nhất đức
và tài. Theo quan niệm này thì đức và tài là phẩm chất và
năng lực dới sự chỉ đạo của ý thức bản ngà tức là cái tôi ý thức
hay đơn giản là tôi, bao hàm trong đó những đặc tính riêng
biệt để phân biệt tôi với những cá nhân khác.
Đức là phẩm chất :
+ Phẩm chất xà hội ( hay đạo đức chính trị) : thế giới
quan, niềm tin, lý tởng, lập trờng, thái độ chính trị, thái độ
lao động.
+ Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức t cách) : các nết, các
thói, các thú (ham muèn).
+ PhÈm chÊt ý chÝ: tÝnh kû luËt, tÝnh tự chủ, tính mục
đích, tính quả quyết, tính phê phán
+ Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí
Tài là năng lực:
+ Năng lực xà hội hoá: khả năng thích ứng, năng lực sáng
tạo, cơ động, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống xÃ
hội.

8


+ Năng lực chủ thể hoá: khả năng biểu hiện tính độc
đáo, đặc sắc, khả năng biểu hiện cái riêng, cái bản lĩnh
của cá nhân.
+ Năng lực hành động, khả năng hành động có mục

đích, có điều khiển, chủ động, tích cực.
+ Năng lực giao tiếp : khả năng thiết lập và duy trì quan hệ
với ngời khác.
Tóm lại, cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, bao gồm
nhiều thành tè cã mèi quan hƯ qua l¹i chÕ íc lÉn nhau, tạo nên
một bộ mặt tơng đối ổn định nhng cũng rât cơ động. Nhờ
có cấu trúc nhân cách nh vậy mà cá nhân có thể làm chủ đợc
bản thân, thể hiên tính mềm dẻo, linh hoạt cao với t cách là chủ
thể đầy sáng tạo.
3.1 Cấu trúc nhân cách của ngời thầy giáo
Cấu trúc nhân cách là tổng thể những phẩm chất và
năng lực tạo nên bản sắc( nét đặc trng) và giá trị tinh
thần( giá trị làm ngời) của mỗi ngời. Nh vậy cấu trúc của nhân
cách là mét hƯ thèng gåm 2 bé phËn: phÈm chÊt( ®øc) và năng
lực( tài).
Bác Hồ đà dạy ngời cán bộ cách mạng vừa phải có đạo đức
vừa phải có tài," Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó, có tài mà không có đức là ngời vô dụng"; Ngời cán bộ phải
"vừa hồng, vừa chuyên", hồng là đức, là phẩm chất chính trị,
chuyên là chuyên môn, là năng lực.
Cấu trúc nhân cách của ngời thầy giáo là tập hợp những
yếu tố cấu thành bao gồm: các phẩm chất, thế giới quan khoa
học, lý tởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề
nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động củ ng-

9


ời thầy giáo. Các năng lực: năng lực hiểu học sinh trong quá
trình dạy học và giáo dục; tri thức và tầm hiểu biết, năng lực

chế biến tài liệu học tập, dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực
vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp s
phạm, năng lực
Cảm hoá" học sinh, năng lực đối xử khéo léo s phạm,
năng lực tổ chức hoạt động s phạm, năng lực giải quyết những
vấn đề nảy sinh trong thực tế dạy học _ giáo dục...
4. Vị trí vai trò ngời giáo viên
Câu ngạn ngữ không thầy đố mày làm nên.Từ xa xa đÃ
minh xác sự tôn vinh vai trò của ngời thầy đối với xà hôi.Trong
thời đại mới thầy cô giáo đợc xà hội gọi chung là ngời thầy.
Trớc kia, trong một ngôi làng, ngời thầy là ngời có học vấn
cao hơn. Trật tự đó ít thay đổi nên bản thân ngơi thầy
không có nhiều nhu cầu tự đổi mới. Kiến thức mà ông thầy
truyền dạykhông cần phải xem xét, truy nguyên hay đặt đòi
hỏi cách nghĩ phiến diện. Quả thực trớc thời kỳ cải cách giáo
dục,ngời thầy đợc coi là nhân vật tâm điểm trong dạy và học.
Ngời thầy quyết định sự đúng sai thầy giảng bài học trò lắng
nghe đọc chép.
Nhng hiện nay vai trò này thuộc về học sinh ngời thầy
chỉ là ngời hớng dẫn chỉ đạo để học sinh lĩnh hội kiến thức
nói nh vậy không có nghĩa là thầy là thứ yếu nếu không có
thầy khó có thể nói đến chất lợng giáo dục.
Ngời làm nghề giáo dục đợc xà hội tôn trọng gọi bằng từ
thầy trân trọng không chỉ bởi thầy là ngời truyền đạt tri thức
mà còn yêu mến vì nhân cách vì thầy là tấm gơng mà trò
noi theo.

10



Sự phát triển của xà hội ngày nay có tốc độ nhanh. Cách
nhìn, cách hiểu và cách dạy của ngời thầy tất nhiên phải luôn
đổi mới. Ngày xa, khi dạy học trò, thầy không phải lo phim ảnh
đồi truỵ, những cảnh báo bạo lực trong game ảnh hởng xấu
đến tâm lý trẻ vị thành niên, hoặc sinh viên Đại Học nếu chịu
khó truy cập mạng không ít kiến thức của thầy đà tự biến
thành bảo tàng buồn tẻ
Nói nh thế để thấy rằng vai trò và trách nhiệm của ngời
thầy ngày nay nặng nề lắm:
Thứ nhất, ở cấp mầm non, tiểu học, ngời thầy phải là mẹ
hiền, đúng nh mơ ớc của trẻ thơ. Nếu thầy cô chỉ lo kiếm gạo,
làm thêm thì làm sao đủ kiên nhẫn để truyền ®¹t kiÕn thøc,
®đ thêi gian ®Ĩ giao thoa, céng hëng về tình cảm với học trò.
Thứ hai, ở cấp THCS, THPT nếu không hiểu biết về tâm lý
học sinh của lứa tuổi đang trở thành ngời lớn chúng đòi hỏi sự
sâu sắc của hiểu biết, sự tôn trọng và sự khẳng định thì
làm sao quan hệ thầy trò có thể là tấm gơng đẹp.
Thứ ba, ở trờng Đại học của thời hiện đại là lò lửa thử vàng
của kiến thức đích thực của say mê và hiểu biết. Chắc chắn
rằng những bài giảng khô khan, đọc chép, nhng kiến thức cũ
mòn sẽ làm hỏng các thế hệ đang học nghề để trởng thành
tấm gơng cũ mòn sẽ phản ánh tồi, chuyển hớng lệch lạc những
nhận thức và nhân cách.
Ngời thầy đợc xà hội trân trọng và tôn vinh bởi những
đóng góp lớn lao không có phần thởng nào có ý nghĩa đối với
ngời thầy bằng sự tin tởng và sự tôn trọng của học trò và xà hội.
Đúng nghĩa ngời thầy ngày nay là phải có một hành trang
luôn luôn s¸ng.

11



Qua đây ta có thể thấy đợc vai trò của ngời thầy rất
quan trọng với tuổi trẻ và t sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất
nớc. Nói nh vậy để thấy rằng ngời thầy trong xà hội nào cũng
đóng vai trò rất quan trọng, và cũng đợc sự đón nhận của xÃ
hôi .Đứng trên góc nhìn của ngời trong xà hội hiên đại ngày
nay.Và vì thế tôi càng biết ơn sâu sắc những ngời thầy,ngời
cô của mình những ngời đà đă vào hành trang của tôi chiếc
chìa khoá và đào tạo tôi có đủ bản lĩnh niềm tin và nghị lực
để mở cành cửa vào đời.
5. Đặc điểm lao động của ngời thầy giáo
Trong xà hội nghề dạy học đơc hình thành sớm nhất. Nó
ra đời khi nền sản xuất phát triển đến một trình độ nhất
định, trong quá trình lao động, sản xuất ngời ta phải truyền
lại cho nhau những kinh nghiệm chiến đấu với thiên nhiên có
kết quả để tạo ra của cải vật chất cho xà hội. Mới đầu ở mức
thấp ngời ta cso thể truyền đạt một cách trực tiếp thành quả
lao động của tập thể, ngời này theo kinh nghiệm của ngời
khác. Nhng khi kinh nghiệm đà phong phú theo kinh nghiệm
của sản xuất thì sự truyền đạt đòi hỏi đến sự truyền đạt của
ngời trung gian. Đó là thầy giáo. Nh vậy nghề dạy học gắn chặt
với lao động sản xuất của xà hội, góp phần hình thành phẩm
chất năng lực cần thiết cho ngời lao động
Con ngời là lực lợng sản xuất chủ yếu, nên nghề dạy học
ngời giáo viên có quan hệ chặt chẽ đến việc xây dựng lực lợng
lao động cho xà hội, đến việc tăng năng suất lao động, x· héi
h«m nay nèi tiÕp x· héi h«m qua, kh«ng ph¶i chØ cã thõa hëng
kinh nghiƯm s¶n xt vËt chÊt để đa xà hội tiến lên, mà còn
thừa hởng những giá trị tinh thần, văn hoá xà hội, nó củng cè vµ


12


phát triển hoặc phá bỏ hệ t tởng thống trị cũ của xà hội đà lỗi
thời. Vì vậy ngời giáo viên muốn hay không muốn đều phải
tham gia vào vận mệnh tơng lai của dân tộc. Việc làm đúng
hay không đúng của ngời giáo viên sẽ góp phần tiến lên hay cản
trở sự phát triển của xà hội.
Lao động ccủa ngời giáo viên là sản phẩm loại hình đặc
biệt có những đặc điểm cơ bản sau :

5.1 Nghề mà đối tợng quan hệ trực tiếp là con ngời
Đối tợng lao động của ngời giáo viên là con ngời, là thế hệ
trẻ đanglớn lên với nhân cách của nó. Đối tợng này không phải là
vật vô tri vô giác nh tấm vải của ngời thợ may, viên gạch của ngời thợ hồ hay khúc gỗ của ngời thợ mộcMà là những con ngời
đang trong thời kỳ chuẩn bị, đang ở tuổi bình minh của cuộc
đời đó là học sinh với tất cả những phức tạp của lứa tuổi, của
những con ngời đang lớn,đang trởng thành, đó là những đối
tợng hết sức sinh động và rất nhạy cảm với những hoạt động
của môi trờng bên ngoài theo hớng tích cực và cả hớng ngợc lại.
XÃ hội tơng lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tuỳ thuộc
vào nội dung và chất lợng của thời kỳ chuẩn bị này. Thực chất
nội dung và chất lợng của thời kỳ chuẩn bị này là hình thành
những phẩm chất và năng lực của con ngời mới, đáp ứng yêu
cầu của xà hội đang phát triển. Hoạt động chính của thầy giáo
là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh hội, thông trải những kinh
nghiệm, tinh hoa mà loài ngời tích luỹ đợc và biến chúng
thành những nét nhân cách của chính mình. Hiệu quả, chất
lợng của quá trình này phụ thuộc vào nhân cách đội ngũ nhµ


13


giáo, không một ai trong xà hội, không một loại máy móc hiện
đại nào trong kỹ thuật có thể thay thế đợc chức năng của thầy
giáo. Chính vì thế, có nhiều ý kiến đà cho rằng nghề thầy
giáo là nghề cã ý nghÜa chÝnh trÞ, kinh tÕ to lín.
5.2. NghỊ mà nhân cách của ngời giáo viên ảnh hởng trực tiếp tới phẩm chất nhân cách của học sinh:
" Để tạo ra nhân cách ngời học thì trớc hết ngời thầy giáo
phải biết thuyết phục học sinh bằng nhân cách của mình...",
đó là nhận xét của ông Nguyễn Tùng Liêm, hiệu trởng trờng
phổ thông trung học dân lập Đinh Tiên Hoàng( Hà Nội) tại cuộc
bàn tròn về" Đạo đức nhà giáo, chuẩn nghề nghiệp giáo viên và
Cán bộ quản lý có cơ sở giáo dục trong việc xây dựng Luật nhà
giáo " của bộ Giáo dục và Đào tạo.Nghĩa là trong quá trình giáo
dục và dạy học, ngời thấy dùng nhân cách của mình để tác
động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác ngộ
về lý tởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là
trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối
sống, cách xử sự và kỹ thuật giao tiếp của ngời thầy giáo... Sản
phẩm lao động của ngời giáo viên không chỉ dừng lại ở quá
trình truyền thụ kiến thức mà lớn hơn là xây dựng nhân cách
con ngời. Để tạo dựng nhân cách, giáo viên cần quan tâm, sâu
sát học sinh, hiểu xuất phát điểm về nhận thức, hoàn cảnh, cá
tính của từng em để điều chỉnh phơng pháp day cho phù hợp.
Nói đơn giản, ngời thầy giáo không chỉ dạy chữ, mà còn dạy
ngời. Hay nh UNESCO: ngời dạy phải tạo cho học sinh thấy rõ
việc học ở trờng là" để biết, để làm, để cùng chung sống,
để làm ngời". Và để tạo dựng nhân cách học sinh, ngời thầy

giáo phải có nhân cách, phải là tấm gơng sáng cho học sinh noi

14


theo. Nh vậy, công cụ chủ yếu của lao động s phạm là ngời
giáo viên với toàn bộ nhân cách của mình. Nhân cách càng
tinh xảo, càng hoàn hảo thì s phạm càng hoàn thiện. Từ đó
chúng ta có thể thấy rõ hơn, nếu ngời giáo viên thiếu nhân
cách thì không thể giáo dục nhân cách cho học sinh. Chính
vì vậy nghề thầy giáo luôn đòi hỏi những yêu cầu về phẩm
chất và năng lực rất cao. Tính nghề nghiệp là một đòi hỏi,
đồng thời cũng tạo ra điềukiện để cho ngời giáo viên tự rèn
luyện mình, Thế nên việc xây dựng, nâng cao năng lực đội
ngũ nhà giáo là một yêu cầu tất yếu khách quan của xà hội, nh
Mac nói: " Bản thân nhà giáo dục cũng phải đợc giáo dục".
5.3 Giáo viên đà tạo cho xà hội một nguồn nhân lực
về tri thức
Để tồn tại và phát triển, xà hội loài ngời phải sản xuất và tái
sản xuất của cải vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra mọi
cảu cải thì đều cần đến sức lao động. Sức lao động chính
là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con ngời,
trong nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có để s¶n
xuÊt ra s¶n phÈm cã Ých cho x· héi. ChÝnh vì vậy, chức năng
của giáo dục chính là xây dựng, bồi dỡng, phát huy sức mạnh
đó ở trong con ngời và thầy giáo là lực lợng chủ yếu tạo ra sức
mạnh đó.
Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nớc, bất
khuất, kiên cờng, là tình thơng đồng bào, đồng loại, là đức
tính cần cù, sáng tạo, là tri thức và năng lực để làm chủ thiên

nhiên, xà hội và bản thân, là lòng yêu lao động, lao động có tổ
chức, có kĩ thuật và năng lực cao. Giáo dục là nơi khơi dậy,
vun đắp, bồi dỡng và chắp cánh cho những sức mạnh của con

15


ngời. Ngời thầy giáo mang tri thức, tình yêu, niềm đam mê...
của mình để đa thế hệ trẻ đến với thÕ giíi tri thøc, thÕ giíi
cđa khoa häc, c«ng nghƯ.
Trong thời đại ngày nay, khi mọi mặt xà hội ngày càng
phát triển, dẫn đến làm thay đổi vị trí của ngời lao động.
Nếu nh trớc đây ngời lao động dùng năng lợng cơ bắp gia công
tạo ra sản phẩm cho xà hội thì ngày nay vị trí đó dần thay
thế bằng máy móc và nh vậy ngời lao động từ vị trí là gia
công nay ở vị trí ngời chỉ huy gia công. Công việc chính của
họ là dùng "năng lợng thần kinh" để" bấm nút", để lập chơng
trình cho máy móc gia công tạo ra sản phẩm xà hội. Nói cách
khác họ lao động chủ yếu bằng sức mạng tinh thần, sức mạnh
trí tuệ. Chính nhà trờng, ngời thầy giáo là ngời tạo ra sức mạnh
đó theo phơng thức sản xuất mở rộng.
5.4 Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật,
và tính sáng tạo cao.
Nhà s phạm ngời Đức Deiterweg đà từng nói:" Ngời thầy
giáo tồi là ngời mang chân lí đến sẵn, ngời thầy giáo giỏi là
ngời biết đa học sinh đi tìm chân lý". Để thực hiện đợc công
việc theo tinh thần đó đòi hỏi ở ngời giáo viên năng lực cao. Với
đặc thù nghề nghiệp giáo dục là mang tri thức khoa học đến
với thế hệ trẻ, là hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh yêu cầu ngời giáo viên phỉa dựa trên nền tảng khoa học

giáo dục, có kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình huống cụ
thể thích ứng với từng cá nhân sinh động.
Giáo dục hiện đại nhằm hình thành nên những con ngời
mới với đầy đủ: đức, trí, thể, mỹ, lao động. Để thực hiện đợc
mục tiêu đó, ngời thầy giáo không đơn thuần chỉ là giáo viên

16


giảng dạy mà còn là ngời nghệ sỹ trên bục gi¶ng, ngêi" trun
lưa" cho häc sinh. TÝnh nghƯ tht cđa việc dạy học thể hiện ở
năng lực truyền đạt của ngời giáo viên làm sao khơi dậy đợc
tiềm năng tiếp thu, phát triển và sáng tạo của ngời học để
nhận thức, cảm nhận và có kỹ năng cao. Ngời giáo viên nào
nắm vững tính khoa học và nghệ thuật của việc dạy học sẽ dạy
cho học sinh có đợc những bậc nhận thức, cảm nhận, kỹ năng
cao. Muốn hấp dẫn học sinh thì trớc hết phải hấp dẫn chính
mình, ngời thầy giáo hớng dẫn học sinh tìm kiếm tri thức phải
nh là ngời nghệ sĩ trên bục giảng để" truyền lửa" nhiệt tình
cho học sinh. Trong quá trình đó đòi hỏi ngời thầy giáo phải
không ngừng sáng tạo, luôn làm mới mình và mỗi tri thức đến
với học sinh là một kho báu đầy màu sắc của khoa học, của
tình yêu, tâm huyết... của ngời giáo viên.
5.5 Lao động của nghề dạy học đòi hỏi phải có vốn
kiến thức phong phú và cốt cách tâm hồn trong sáng.
Nghề dạy học đợc xem là một loại lao động trí óc vì nó
vận dụng trí tuệ, tinh thần. Thật ra, công tác đứng lớp là một
loại lao động bao gồm cả hai mặt tinh thần và thể xác. Dù dạy
ở cấp bậc nào, ngời thầy giáo đều phải lên lớp diễn giảng và
soạn giáo án, chấm bài hay nghiên cứu đề tài lúc ở nhà. Khi

soạn bài, chấm bài, ngời dạy phải dành một số thời gian thích
đáng cho công việc, đồng thời phải động nÃo, phải huy động
vốn học, vốn văn hoá và nghiệp vụ. Và tuỳ theo đối tợng của
cấp học, thầy giáo phải dựa vào vốn sống, trí tuệ và tình cảm
của mình để truyền đạt cho học sinh những kiến thức, kĩ
năng đà quy định trong đề tài. VÝ dơ, ë bËc tiĨu häc vµ trung
häc, häc sinh cã thĨ tiÕp thu sù hiĨu biÕt vµ tõng bíc ph¸t triĨn

17


nhân cách, năng lực thông qua sự hớng dẫn đà đợc giáo viên
chuẩn bị chu đáo và triển khai tại lớp một cách sáng tạo. Ngoài
những hoạt động trên lớp nhiều hoạt động khác của ngời thầy
giáo mang tính chất là lao động trí óc chuyên biệt. Đây vừa là
điểm đặc trng, vừa là yêu cầu cấp thiết trong lao động của
ngời thầy giáo, đòi hỏi cao ở ngời giáo viên những năng lực s
phạm cao..
6. Phẩm chất của ngời thầy giáo
6.1 Thế giới quan khoa học:
Ngời giáo viên thực chất là nhà tổ chức, nhà hoạt động xÃ
hội, ngời tuyên truyền cổ động, ngời tích cực truyền bá
những t tởng cộng sản khoa học và các chỉ thị của Đảng cho
thế hệ trẻ, cho cha mẹ học sinh và cho các tổ chức xà hội khác.
Muốn làm đợc việc đó, trớc hết ngời giáo viên phải có một thế
giới quan đúng đắn.
Thế giới quan của ngời thầy giáo phải đạt tới trình độ của
những niềm tin về mặt t tởng, chính trị, lòng tin mÃnh liệt
vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, lòng trung thành
tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng ngay cả khi trong những hoàn

cảnh đầy khó khăn, gian khổ, đòi hỏi nổ lực phấn đấu hi
sinh. Chỉ có lòng tin nh thế ngời giáo viên mới có thể đào tạo
đợc một thế hệ trong sáng, lành mạnh, kiên cờng, sáng tạo, tài
năng nối tiếp sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Ngời thầy giáo không những là chiến sỹ vô danh trên mặt
trận văn hoá mà còn là chiến sỹ trên mặt trận t tởng, chính trị.
Nhà giáo phải thấm nhuần những t tởng chính trị của Đảng và
Nhà nớc.

18


Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở của nhân cách
ngời giáo viên nhân dân. Nó giúp giáo viên biết cách nhìn
nhận, đánh giá hành vi con ngời, phải giải quyết đúng đắn
vấn đề phức tạp trong lý luận và thực tiễn s phạm. Ngời giáo
viên có thế giới quan đúng đắn không bao giờ nhìn nhận sự
vật một cách hời hợt, phiếm diện. Một học sinh học kém hay
đến lớp chậm, giáo viên không vội vàng kết luận là em đó lời
học, mà biết tìm các nguyên nhân dẫn đến việc học kém và
hay đến lớp muộn của học sinh. Hay đối với một học sinh vi
phạm kỷ luật, giáo viên không chỉ dùng kỷ luật để" trị" mà còn
biết xem xét những quan niệm, những hứng thú của học sinh
có gì còn lệch lạc.
Niềm tin của ngời giáo viên đối với chủ nghĩa cộng sản,
đối với sự lÃnh đạo của Đảng còn thể hiện ở lòng yêu nớc sâu
sắc, sẵn sàng chịu đựng gian khổ trong những điều kiện
thiếu thốn khó khăn về vật chất, tinh thần. Trong những năm
chiến tranh giữ nớc vĩ đại, nhiều giáo viên đà vừa dạy học vừa
là du kích đánh giặc trong thời kỳ chống thực dân Pháp, vừa

dạy học vừa là dân quân, góp phần hạ máy bay giặc Mỹ xâm
phạm bầu trời miền Bắc. Ngời giáo viên đà xung phong vào bộ
đội chiến đấu dũng cảm chống kẻ thù và lập đợc nhiều chiến
công rực rỡ. Ngời giáo viên đà trở thành những nhà thơ, nhà
văn, nhà báo, những kỹ thuật viên trong binh chủng quân đội,
hay những nhà lÃnh đạo quân sự tài ba, nh Đại tớng Võ Nguyên
Giáp là một bức chân dung lớn về những ngời giáo viên anh
hùng vĩ đại. ngời giáo viên âm thầm lặng lẽ ở nơi núi rừng hẻo
lánh để tìm dạy cho đàn em nhỏ không có điều kiện đợc học
tập chu đáo. Những điều đà làm vẻ vang danh hiƯu ngêi gi¸o

19


viên, góp phần nâng cao uy tín ngời thầy giáo trớc học sinh và
nhân dân.
Dân tộc Việt nam một dân tộc có nền văn hiến hàng
ngàn năm với truyền thống tôn s trọng đạo, một dân tộc rất
coi trọng bản sắc văn hoá của mình và không xem nhẹ tinh
hoa của nhân loại. Vì vậy, dân tộc ấy rất coi trọng lớp ngời
đem lại tinh hoa đó, làm giàu cho tâm hồn mình và nhất là
con em mình thế hệ trẻ, tơng lai của dân tộc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đà sản sinh và nuôi dỡng những
tấm gơng nhà giáo ngời sáng cả cốt cách và tâm hồn. Những
con ngời đó đà tạo nên phẩm chất đạo đức cao đẹp của ngời
thầy trong truyền thống.
Trớc hết, ngời thầy giáo Việt Nam trong truyền thống là
những ngời đà vắt trọng công sức và tâm huyến để trao lại
cho học trò của mình một thứ tài sản vô giá: đạo làm ngời.
Ông thầy là ngời dẫn dắt con ngời trở thành con ngời có đạo

đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng. Học trò nào cũng có thể
tìm thấy trong nhân cách của mình dấn ấn của ngời thầy.
Trên con ®êng ®êi cđa m×nh, ai cịng cã thĨ t×m thÊy trong
sự dạy bảo của thầy những lời khuyên cần thiết cho một cuộc
sống có ý nghĩa.
Thứ hai, ngời thầy giáo tỏng truyền thống Việt Nam là
những ngời có lòng yêu nghề tha thiết, vì tơng lai của thế hệ
trẻ mà hành nghề. Hành nghề vì sự nghiệp giáo hoá chứ
không phải vì danh lợi.
Thứ ba, họ là ngời rất coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh
hiền, lấy dạy chữ, dạy ngời làm lẽ sống.

20


Thứ t, họ là những ngời coi trọng danh dự, lơng tâm, giữ
gìn khí tiết; xác lập vị trí của mình trong xà hội bằng tài
năng và đức độ, bằng học vấn và cống hiến.
Ai sinh ra trên đời này cũng đều cho cha mẹ, sự trởng
thành cũng đều có công lao to lớn của ngời thầy. Ngời thầy
không chỉ dạy ta chữ nghĩa, kiến thức mà còn dạy ta biết làm
ngời cho đúng nghĩa. Nhìn chung những thời kỳ xa xa nền
văn hiến của dân tộc, chúng ta sẽ gặp biết bao nhà giáo mẫu
mực, lỗi lạc. Từ triều Lê, giáo dục nho học ở nớc ta đà phát triển
rộng rÃi, hầu nh không có làng xà nào ở đồng bằng mà không
có các lớp học chữ Hán ở trình độ nhập môn. Dờng nh tất cả
mọi ngời đà theo Nho học đều là thầy dạy, dân ta quen gọi là
thầy đồ. Thầy vừa dạy, vừa học, dạy hết chữ thì để học sinh
đi học thầy đồ khác. Đó là tình trạng phổ biến của trờng lớp
Nho học thời xa.

Lịch sử giáo dục dân tộc dới thời phong kiến vẫn còn lu lại
nhiều tên tuổi của thầy giáo nổi tiếng về đạo đức, khí tiết,
học vấn uyên thâm, về thành tựu đà đào tạo, rèn luyện đợc
nhiều ngời thành đạt, đóng góp cho việc xây dựng đất nớc
trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, đối ngoại và
văn hoá. Có thể nêu tên một số nhà giáo tiêu biểu ấy:
Chu Văn An (1292 1370): Là ngời tài giỏi, đức độ nên đợc nhiều ngời kính trọng. Đời vua Trần Minh Tông ông đợc giao
chức T nghiệp Quốc Tử Giám và phụ trách việc dạy dỗ các Hoàng
Tử, Vơng tôn. Đến đời vua Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin chém
đầu bảy tên nịnh thần nhng không đợc chấp nhận nên cáo
quan về ở ẩn tại núi Phợng Hoàng. Khi ông mất Trần Nghệ Tông

21


truy phong là Văn Trịnh Công rồi cho thờ ở Văn Miếu Quốc Tử
Giám.
Ngày từ khi còn sống nhân dân luôn ca ngợi phẩm chất
thanh cao tuyện với của ông và coi ông là ngời thầy vĩ đại.
Cuộc đời của ông dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm thì bản
chất luôn là một ngời thầy giáo mẫu mực. Ông đợc đánh giá là
nhà sự phạm toàn diện nhất trong lịch sử đất nớc. Trong suốt
cuộc đời hành nghề giáo dục, Chu Văn An đà dạy hầu hết các
học sinh từ thấp đến cao, từ bình dân đến quý tộc. Ông nỗ
lực giảng giải các học thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều
kiện để đa lý thuyết Khổng Mạnh đi dần đến chỗ độc tôn.
Ông có một phơng pháp giảng dạy rất đặc biệt nên hấp dẫn đợc học trò và làm cho mọi ngời phải tôn kính. Tài, đức của ông
làm cho quỷ thần cũng phải kính phục và đến để học tập.
Phan Huy Chú đà ca ngợi: Học nghiệp thuần tuý, tiết tháo cao
thợng, làng Nho nớc Việt trớc sau chỉ có một ông, các ông khác

không thể nào so sánh đợc.
Nguyễn Bình Khiêm (1491 1585): Trong hoàn cảnh lịch
sử thế kỷ XVI, có thể nhận thấy rằng nhân dân Việt Nam
đang có một trông ngóng về một con ngời có tài năng siêu việt
và là chỗ dựa tinh thần cho mọi ngời. Trong bối cảnh đó,
Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện và ngay lập tức đợc đón nhận.
Ngời ta thấy rằng ông quả là bậc hiền tài mà họ trông chờ, ông
mang đủ t cách của một ông thầy đáng để cho họ quý trọng.
Bằng vốn văn hoá phong phú của mình, ông đà cô đúc đợc rất
nhiều triết lý của cuộc sống. Ông nêu ra đợc những phạm trù
biện chứng, ông giáo dục đạo đức làm ngời và phê phán những
thói h tật xấu. Nhng dù khen, che hÃy dạy dỗ thì ngôn ngữ,

22


phong cách và t tởng của ông vẫn rất bình dị, gần gũi. Đó cũng
là một khía cạnh đáng quý trong con ngời ông. Thực ra những
điều ông nói vẫn là sự thực mà ai cũng biết, ông chỉ là ngời
cô đúc, hệ thống lại các triết lý đó rồi dựa vào đó để đi sâu
phân tích, để triết lý đợc đầy đủ hơn. Nhờ vậy, ông đà làm
nổi bật thực trạng xà hội và thức tỉnh đợc lơng tri cao đẹp của
con ngời trong cuộc sống xô bồ. Nhân dân luôn coi trọng ông
là một ngời thầy xuất sắc, một học giả uyên bác đà có công
cảnh tỉnh họ, đà bày cho họ một lối ứng xử thích hợp với từng
hoàn cảnh cụ thể. Biết đợc những cách xử thế đó, nhân dân
lao động có thể tồn tại vững vàng giữa bao nhiêu chuyện mất
còn thị phi của chế ®é phong kiÕn ®ang ë bíc suy vong.
Sang thÕ kû XX, dân tộc ta lại có biết bao nhà giáo lỗi lạc,
đà tiếp bớc những thế hệ đi trớc, làm rạng danh thêm nét đẹp

của nhà giáo Việt Nam. Nh thầy giáo Nguyễn Tất Thành Hồ
Chi Minh, một nhà cách mạng kiệt xuất, một nhà giáo tiêu biểu.
Ngời ta cho r»ng, c¶ ViƯt Nam héi tơ trong Ngêi, c¶ Việt Nam tự
nguyện sống và học tập theo gơng Ngời, trung thành đi theo
con đờng mà ngời đà chọn Chỉ những điều đó cũng đủ
nói lên t cách thầy giáo của Ngời. Và Ngời không chỉ là ngời
thầy của thế kỷ XX mà còn là ngọn lửa sáng soi cho thế kỷ sau.
Các thầy giáo Đặng Thai Mai, Hoàng Nh Mai, Phạm Huy Thông,
Nguyễn Lân cũng đà để lại những dấu ấn không thể phai
mờ trong lòng mỗi ngời dân nớc Việt. Nhìn lại quá khứ, hiện tại,
tơng lai có những ngời đà từ lâu an nghỉ trong lòng đất, có
những ngời tóc đà bạc trắng, có những ngời đang cùng học trò
tiếp tục cuộc hành trình kiếm tìm chân lý mà các thế hệ trớc
còn dang dở. Nhng, những con ngời đó đà tạo nên những nét

23


đẹp về nhân cach, phẩm chất đạo đức cao cả của ngời thầy,
đợc nhân dân tôn vinh và qúy trọng từ xa đến nay trong
truyền thống dân tộc.

6.2 Lí tởng đào tạo thế hệ trẻ
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đà từng dạy:
"Vì lợi ích mời năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng ngời"
Sự nghiệp trồng ngời là s nghiệp của toàn Đảng, toàn dân
và toàn xà hội. Nghành giáo dục là nghành có nhiệm vụ trồng
ngời cho dất nớc. Ngời giáo viên


là ngời định hớng cho việc

đào tạo nhân cách con ngời mới trong xà hội tơng lai. Nhân
cách con ngơi trong xà hội tơng lai nh thế nào phị thuộc và
chịu ảnh hởng rất lớn từ nhân cách của ngời thầy giáo. Chính
vì vậy, ngời giáo viên phải có lý tởng đào tạo thế hệ trẻ, coi
đây là nhiệm vụ thiêng liêng của mình.
Lý tởng đào tạo thế hê trẻ là hạt nhân trong cấu trúc
nhâncách của ngời thầy giáo. Lý tởng là" ngôi sao dẫn đờng"
giúp cho thầy giáo luôn đi về phía trớc, thấy đợc giá trị lớn
laocủa mình đối với thế hệ trẻ.
Khi xà hội ngày càng phát triển đòi hỏi con ngời phải có
đủ đức, trí, thể, mỹ, lao động phục vụ cho đất nớc. Chuyển
mình cùng sự thay đổi của đất nớc ngời giáo viên phải luôn
làm mới mình, thờng xuyên trau dồi kiến thức, phải học hỏi,
đổi mới cùng sự tiến bộ của xà hội. Giáo viên phải xem việc làm
của mình là việc làm cho xà họi và cho chính cuộc đời của
mình. Ngời giáo viên_ là ngời có lý tởng đào tạo ra một thế hệ

24


sáng suốt, có đủ tài và đức, mong muốn cung cấp đủ nhân
lực, vật lực về mặt thể chất cũng nh trí tuệ cho xà hội.
Lý tởng đào tạo thế hệ trẻ của ngời thầy giáo biểu hiện ra
ngoài bằng niềm đam mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lơng tâm
nghề nghiệp, tân tụy hi sinh với công việc, tác phong làm việc
cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình... Những cái
đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy vợy qua mọi khó khăn về tinh
thần và vật chất, hình thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ,

xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Ngời giáo viên không bao giờ đợc quên lời dạy của bác:
"Non sông Việt Nam có trở nên tơi đẹp đợc hay không, dân
tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cờng quốc năm châu hay
không là nhờ vào công sức học tập của các cháu". Ngời giáo viên
phải không ngừng rèn luyện, tu dỡng, phấn đấu. Câu nói của
Bác luôn thôi thúc ngời giáo viên say mê với hoạt động giảng dạy,
để đào tạo thế hệ trẻ, vì sự phồn thịnh của Dân tộc, bởi tơng lai của Đất nớc nắm trong tay thế hệ trẻ.
6.3 Lòng yêu nghề va lòng yêu trẻ
Lòng yêu nghề trớc hết là lòng yêu trẻ, là một trong những
phẩm chất đạo đức cao quý của con ngời, là một phẩm chất
đăc trng trong nhân cách ngời thầy giáo, vì lòng thơng ngời là
đạo lý của cuộc sống. Lòng thơng ngời, lòng yêu trẻ càng sâu
sắc bao nhiêu thì con ngời càng làm đợc nhiều việc vĩ đại
bấy nhiêu. Lòng yêu trẻ, yêu nghề của ngời giáo viên thể hiện ở
lòng yêu lao động dạy học và giáo dục, yêu học sinh và tinh
thần lạc quan s phạm.
Ngời giáo viên thể hiện lòng yêu nghề trớc hết ở thái độ
hăng hái, nhiệt tình thật sự đối với công việc của mình. Lòng

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×