Bài tập lớn: Tâm lý học
MC LC
MC LC ........................................................................................................ 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 2
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 2
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................... 2
1. Mục đích ....................................................................................................... 2
2. Nhiệm vụ ...................................................................................................... 3
3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
B. NỘI DUNG .................................................................................................. 4
I. CÁI NHÌN KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI .......................................................... 4
1. Nhân cách là gì? ........................................................................................... 4
2. Tầm ảnh hưởng của nhân cách đến việc dạy và đến học sinh ...................... 7
3. Thực trạng của nền giáo dục hiện nay .......................................................... 9
II. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO .............................. 10
1. Nghề mà đối tượng lao động trực tiếp là con người ..................................... 11
2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình .............................. 12
3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội ........................................... 12
4. Nghề địi hỏi tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao ....................................... 13
5. Nghề lao động trí óc chun nghiệp ............................................................. 13
III. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO .................................. 13
IV. PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO ............................................... 17
1. Thế giới khoa học ......................................................................................... 17
2. Lý tưởng thế hệ trẻ ....................................................................................... 18
3. Lòng yêu trẻ ................................................................................................. 18
4. Lòng yêu nghề nghiệp .................................................................................. 19
5. Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người thầy giáo ............ 19
6. Thực trạng hiện nay ...................................................................................... 20
V. NĂNG LỰC ................................................................................................. 22
1. Nhóm năng lực dạy học ................................................................................ 25
2. Nhóm năng lực giáo dục .............................................................................. 27
3. Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động ......................................................... 29
VI. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐÓNG GÓP .......................................................... 29
C. KT LUN ................................................................................................. 34
GVDH: Dơng Thị Linh
1
Bài tập lớn: Tâm lý học
A. PHN M U
I. Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề nhân cách và sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm
lí học và cũng là "mắt lưới" của cả hệ thống khoa học về con người, vừa có ý
nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác, tâm
lí đã góp phần làm sáng tỏ một vấn đề xung quanh nhân cách, như vấn đề bản
chất tâm lí nhân cách, các con đường hình thành nhân cách...
Chưa bao giời giáo dục đất nước bị nhiều tổn thất như bây giờ. Tổn thất
về chương trinh giáo dục,với nhưng tranh cãi bất tận về sự sai đúng trong mơ
hình, trong phương án, trong nội dung, chương trình sách giáo khoa. Tổn thất về
chất lượng giáo dục giữa những tỉ lệ phần trăm.học thật và tỉ lệ phân trăm đỗ
ảo,với những căn bệnh thành tích đã trở thành vấn nạn. Tổn thất về thi cử, với sự
kiện điển hình về thói gian lận trong thi cử tại Hà Tây và cịn có thể có nhiều Hà
Tây khác…nhưng đặc biệt là về vấn đề phẩm cách nhà giáo của chúng ta. Hiện
nay bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đã có từ lâu đời
để lại. Ngày nay những giá trị ấy đang dần dần phai mờ đi và thay vào đó là
những lỗ thủng lớn về nhân cách nhà giáo.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích
Vấn đề nhân cách người thầy giáo trong thời đại mới, thời đại ngày nay
gần như khơng có mấy ai chú ý tới. Các nhà quản lý chỉ quan tâm tới việc nâng
cao chất lượng giáo dục và việc đổi mới phương pháp dạy, mà chưa chú ý đến
việc quan trọng nhất là cần phải quan tâm đến vấn đề nhân cách của người giáo
viên nhiều hơn. Vì vậy đề tài này đưa ra nhằm đưa ra thực trạng về nhân cách
của người giáo viên hiện nay. Đồng thời chúng ta cũng cần cảnh báo cho các nhà
quản lý thấy được từ đó sẽ có hướng cải cách phù hợp hơn, nhằm phát triển toàn
diện nền giáo dục nước nhà. Quy định về đạo đức nhà giáo là cơ sở để các nhà
giáo nỗ lực tự rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh, đồng
thời là một trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát nhà giáo nhằm
xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và
lương tâm nghề nghiệp trong sáng, có tính tích cực học tập, không ngừng nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và cách ứng xử
chuẩn mực, thực sự là tấm gương cho người học noi theo.
GVDH: Dơng Thị Linh
2
Bài tập lớn: Tâm lý học
2. Nhim v.
Khi t nc đang bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập và sự
cạnh tranh vơ cùng khốc liệt. Chỉ có những quốc gia khơng ngừng đổi mới, chỉ
có các cơng ty có năng lực cạnh tranh thực sự, chỉ có những người có ý trí, tri
thức và kỹ năng mới biến thời cơ thành kết quả thành cơng cho mình và cho đất
nước.
Giáo dục đóng vai trị rất to lớn, trong việc hội nhập quốc tế và sự phát
triển kinh tế nói riêng của Việt Nam và nói chung tồn quốc tế. Vì vậy khi nói
đến giáo dục là phải kể ngay đến việc nâng cao chất lương dạy và học, việc đổi
mới. Vấn đền cần chú ý nhất đó là phẩm chất cuả nhà giáo hiện nay. Đó là yếu
tố quan trọng nhất, nó ảnh hưởng đến chất lượng dạy và hoc, đến việc hình
thành nhân cách của học sinh. Phẩm chất nhân cách của nhà giáo thể chất lượng
giáo dục mới đảm bảo, hiệu quả giáo dục mới cao.
Vì vậy khi nói đến hiệu quả giáo dục của nhà giáo là một đề tài cần thiết
và cần bàn tới trong xã hội ngày nay.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Khi nghiên cứu về đề tài “nhân cách của nhà giáo”. Chúng ta cần có một
phương pháp nghiên cứu phù hợp và khoa học như sau:
- Thứ nhất: Chúng ta cần có một cái nhìn khái qt và tổng thể (khái
niệm, tầm ảnh hưởng của nhân cách nhà giáo đến việc dạy học và đến học sinh).
- Thứ hai: Cần hiểu được đặc điểm lao động của người thầy giáo.
- Thứ ba: Cần nắm được cấu trúc nhân cách người thầy giáo.
- Thứ tư: Thấy được phẩm chất của người thầy giáo.
- Thứ năm: Năng lực của người thầy giáo.
+ Nhóm năng lực dạy học.
+ Nhóm năng lực giáo dục.
+ Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.
- Thứ sáu: một số kiến nghị.
B. NỘI DUNG
I. CÁI NHÌN KHÁI QUÁT V TI
GVDH: Dơng Thị Linh
3
Bài tập lớn: Tâm lý học
hiu c vn chúng ta cần trả lời các câu hỏi sau:
1. Nhân cách là gì?
Con người là thực thể của tự nhiên, cái nhân chỉ là một người trong xã hội
cộng đồng. Khái niệm nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lý cái nhân với
tư cách thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người người - cuộc hoạt động có ý thức và giao lưu.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân,
biểu hiện bản chất và giá trị xã hội của con người.
Như vậy nhân cách là sự tổng hồ khơng phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá
nhân. Những thuộc tính tâm lý tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp
độ: Cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân, và cấp độ biểu hiện ra bằng
hoạt động và các sản phẩm.
Nhưng nhân cách của người giảng viên là gì? Nó gồm những gì? Nói đến
nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và
giá trị tinh thần của mỗi người. Như vậy có thể hiểu rằng nhân cách là một hệ
thống bao gồm phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Trong phẩm chất của người
thầy giáo, trước hết phải có năng lực chun mơn. Điều này được hình thành
dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau mà trước hết là trình độ học vấn của người
thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực
tế đất nước như lịch sử, địa lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật. Thế giới quan của
giảng viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái độ đối với hoạt động của
giảng viên như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, kết hợp giữ
nội dung học tập và thực tiễn cuộc sống cũng như phương pháp xử lý và đánh
giá họat động, biểu hiện tâm lý của sinh viên. Yếu tố thứ hai đóng vai trị hạt
nhân trong cấu trúc phẩm chất người thầy giáo là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Lý
tưởng của giảng viên có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách sinh
viên và nó biểu hiện bằng lịng say mê nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp, sự
tận tụy với sinh viên, với công việc, tác phong làm việc nghiêm túc, có trách
nhiệm và lối sống giản dị, chân tình. Những điều này sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp
trong tâm trí người sinh viên; chúng có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Lý tng o to th h tr khụng
GVDH: Dơng Thị Linh
4
Bài tập lớn: Tâm lý học
phi l cỏi cú sn mà người giảng viên phải rèn luyện tích cực mới có được rồi
qua đó, nhận thức của người thầy về nghề nghiệp càng được nâng cao lên, tình
cảm nghề nghiệp càng tăng lên. Yếu tố thứ ba của phẩm chất giảng viên là lịng
u sinh viên - đó là sự u thương, tận tình và ân cần với học trị. Tôi nghĩ đối
với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu sắc trong
con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động
sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô
cùng quan trọng. Người giảng viên sẽ không có thái độ phân biệt trong cách đối
xử giữa học trị thơng minh và học trị chậm hiểu mà quan tâm một cách thiện ý
đến học trò, tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là người thầy thiếu nghiêm khắc,
khơng tạo động lực cho sinh viên phấn đấu học tập. Lịng u học trị ln đan
lồng và gắn bó chặt chẽ với lịng u nghề. Có thể nói, nhà giáo chỉ yêu nghề
khi còn biết yêu thương những người học trị của mình, bởi từ tình u thương
lớn lao dành cho học trò, cho nghề nghiệp, người giảng viên mới có động lực để
ln phấn đấu, rèn luyện. Bàn đến nét phẩm chất này, chúng ta có thể nói rằng:
“Để đạt được thành tích trong cơng tác, người thầy giáo phải có một phẩm
chất - đó là tình u. Người thầy giáo có tình u trong cơng việc là đủ cho họ
trở thành giảng viên tốt”. Bàn đến lòng yêu học trị, u nghề thì khơng thể
khơng nói đến mối quan hệ thầy trị. Nó đóng một vai trị quan trọng trong công
việc giáo dục sinh viên của thầy giáo. Nội dung, tính chất và các xử lý mối quan
hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học. Một sinh viên không thể nào
tôn trọng, khâm phục hay học hỏi được gì tốt đẹp khi người thầy của sinh viên
đó có những biểu hiện khơng đứng đắn về mặt nhân cách hay yếu kém về mặt
chuyên môn. Người thầy như một tấm gương để sinh viên soi vào đó, khám phá
những điều mình chưa biết và phấn đấu hồn thiện bàn thân mình. Để có thể là
tấm gương sáng cho sinh viên, người thầy giáo phải tích cực rèn luyện chun
mơn, phải sống đúng mực, chân tình, cơng bằng, khiêm tốn, phải biết tự chiến
thắng với những thói hư tật xấu của bản thân và có những kỹ năng điều khiển
tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm
Đặc điểm cơ bản của nhân cỏch
GVDH: Dơng Thị Linh
5
Bài tập lớn: Tâm lý học
Cú th xem nhõn cỏch như một cấu trúc tâm lý ổn định thống nhất, mang
tính tích cực và tính giao lưu với tư cách là chức năng xã hội, giá trị xã hội cốt
cách làm nhân cách của cá nhân. Vì thế ta thường nói đến 4 đặc điểm của nhân
cách như sau:
a.Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa
đức và tài của con người. Trong nhân cách có sự thống nhất hài hòa giữa các cấp
độ: Cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Ở cấp
độ thứ 3 xem xét giá trị xã hội của nhân cách ở những hoạt động, ở những mối
quan hệ xã hội mà nhân cách gây nên biến đổi ở những nhân cách khác
b.Tính ổn định của nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng
trong mỗi cá nhân. Những đặc điểm tâm lý nói lên bộ mặt tâm lý xã hội là người
của mỗi cá nhân.Vì thế nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc
đời cộng đồng, biểu hiện trong hoạt động và mối quan hệ giao lưu của cá nhân
trong xã hội.Vì thế các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối
khó hình thành và cũng khó mất đi.
c.Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và gián tiếp là sản phẩm của xã hội.Vì
thế nhân cách mang tính tích cực. Mặt khác con người tích cực tìm kiếm những
cách thức, các phương thức thỏa mạn nhu cầu là một q trình tích cực có mục
đích, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động do sự phát
triển xã hội quy định nên.
d.Tính giao lưu của nhân cách.
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt
động và trong mỗi quan hệ giao lưu với những nhân cách khác.Nhu cầu giao lưu
được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người, con người sinh ra và lớn
lên ln có nhu cầu quan hệ giao tiếp với người khác, với người khác.
2.Tầm ảnh hưởng của nhân cách đến việc dạy và đến học sinh
GVDH: D¬ng ThÞ Linh
6
Bài tập lớn: Tâm lý học
Phong cỏch s phm ca các giáo viên sẽ
ảnh hưởng lớn đến tư duy và nhân cách học
sinh
(LĐ) - Những người thầy chính là những người "lái đị qua sơng", dìu
dắt các thế hệ trẻ trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Vậy nên, phong cách sư phạm và rất nhiều những yếu tố khác trong nhà
trường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tư duy, nhân cách của học trò.
Nhà trường là nơi giáo dục toàn diện cho học sinh. Người thầy giáo có vai
trị quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cũng như định hướng, bồi dưỡng
và hình thành nhân cách cho các em.
Vì thế, cách ứng xử của giáo viên đối với mỗi hành vi của học sinh là điều
không thể xem thường.
Quả thực, trước thời kỳ cải cách giáo dục, người thầy được coi là nhân vật
tâm điểm trong dạy và học. Người thầy quyết định sự đúng sai, thầy giảng giải,
học trò lắng nghe, đọc chép.
Nhưng hiện nay, vai trò này thuộc về học sinh - người thầy chỉ là người
hướng dẫn, chỉ đạo để học sinh lĩnh hội kiến thức. nói như vậy khơng có nghĩa
là thầy là thứ yếu, nếu khơng có người thầy, khó có thể nói đến chất lượng giáo
dục.
Người làm nghề giáo được xã hội trân trọng gọi bằng từ “thầy” - trân
trọng không chỉ bởi thầy là người truyền đạt tri thức mà cịn u mến vì nhân
cách, vì thầy là tấm gương mà trò noi theo.
Vậy nhưng gần đây, khơng ít những vụ bạo lực học đường đã diễn ra
khiến dư luận phẫn nộ, những vụ đi cửa trước, chạy cửa sau để con cái được
điểm cao, vào trường tốt… cũng làm nhiều người mất đi phần nào niềm tin vào
nhân cách nhà giáo. Liệu có phải người thầy ó t ỏnh mt mỡnh v xung
cp?
GVDH: Dơng Thị Linh
7
Bài tập lớn: Tâm lý học
Cng tõm s ca thy Nguyễn Viết Thịnh: “Ngày xưa có chuyện thầy phạt
trị nhưng cũng chỉ dừng ở những hành động như tét vào tay, bắt quay mặt vào
tường…
Có một thế hệ các thầy hết sức đáng kính trọng. Những thế hệ ấy có người
đã được đặt tên phố, những tấm gương của những người tự học, tận tuỵ đúng
như từ “Phụng sự tổ quốc”. Thực sự đã có những con người đó. Lịch sử đã đặt
lên vai hò nhiệm vụ khai phá, đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục mới của đất
nước...
Bây giờ khơng có thì khơng đúng. Thường các đánh giá càng lùi xa càng
có giá trị. Có thể hơm này cũng tiếp xúc những người thầy bình dị khác. Giáo
dục phổ thông, ĐH lớn hơn nhiều”.“Một giáo viên đánh học sinh được truyền
thông nhắc đi nhắc lại quá nhiều, trong khi một người thầy thương binh miệt
mài dạy học trò liệu có được truyền đi với tần số bằng 1/10 không?
Là người trong ngành và đi nhiều, tôi vô cùng trân trọng những người đó.
Họ thực sự đem lại hạnh phúc cho trẻ thơ. Truyền thông phải nhắc nhiều hơn
những người thầy đó, những giáo viên ở các vùng nghèo. Những người hết lịng
vì ngành sẽ cảm thầy bị xúc phạm nếu như suốt ngày truyền thông nhắc đến tấm
gương xấu kia” - thầy Thịnh bày tỏ.
Quả thực, nhân cách nghề giáo là vấn đề được nhắc đi nhắc lại khá nhiều
hiện nay. Chúng ta vô cùng tức giận, và bi quan về những kẻ đội lốt thầy giáo.
Nhưng nhìn lại, những người đó cũng chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh,
trong nhà trường những người tâm huyết với nghề cịn nhiều gấp hàng trăm
ngàn lần.
Cơ giáo trẻ Trần Thị Hảo (THPT Nghi Lộc 1, Nghệ An) tâm sự: “Tôi đã
từng học rất nhiều thầy cô. Các thầy cơ có thể khơng cịn nhớ tới tơi nhưng tơi
ln nhớ về họ. Nếu khơng có thầy cơ hẳn khơng có tơi của ngày hơm nay”.
Thực tế, trong mắt của học trị, hình ảnh người thầy hiện đại gần gũi hơn,
đời thường hơn, nhưng những người thầy nhân cách, tận tâm với nghề và hết
lòng yêu thương học trò vẫn ln là thần tượng của học trị.
Khơng phải “thầy nói gì nghe nấy” nhưng như cơ bé Trịnh Hồng Ngọc
(lớp 8, THCS Giảng Võ, Hà Nội): “Chúng em chịu ảnh hưởng khá nhiều từ thầy
cơ. Cũng có những người thầy khơng có lương tâm nhưng đó chỉ là số ít. Trong
mắt bọn em, thầy cơ vẫn rất thân thương”.
GVDH: D¬ng ThÞ Linh
8
Bài tập lớn: Tâm lý học
3. Thc trng ca nn giáo dục hiện nay
Hệ thống giáo dục của nước ta trong thời gian qua nặng về giáo dục lý
thuyết, trong đó phần lý thuyết cũng đặt nặng về giáo dục chính trị và nhẹ về
thực hành. Tỷ lệ trường dạy kỹ thuật, dạy nghề so với giáo dục phổ thông là thấp
một cách bất thường so với yêu cầu của nền kinh tế. Đây là lý do tại sao lao
động có kỹ thuật, có kỷ luật trong lực lượng cơng nhân không đủ hoặc không đạt
yêu cầu.
Hệ đại học tuy trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn
còn yếu kém so với yêu cầu. Nội dung và phương pháp giảng dạy chậm được
đổi mới. Sinh viên học một cách thụ động, do đó khi ra trường khó kiếm cơng ăn
việc làm, phải dựa vào mối quan hệ thân quen hay vào một khả năng khác để có
một việc làm, sau đó từng bước tự đào tạo hay tự thích nghi với u cầu của
cơng việc.
Ngồi ra, việc đào tạo cấp đại học cịn có những hiện tượng bất cập khác:
dù số giảng viên, giáo sư không đủ cho các trường chính quy nhưng trường đại
học hay lớp đào tạo đại học dạng tại chức, chuyên tu thuộc các ngành kinh tế, xã
hội lại vẫn được mở ra khắp nơi; các trường kỹ thuật, trường nghề lại không
được phát triển. Hệ quả là chất lượng đào tạo ngày càng kém hơn.
Từ thực trạng giáo dục đó, có những bất cập sau đây cần phải xử lý ngay:
- Cơ cấu, tỷ lệ phân bổ giữa hệ phổ thông trung học với hệ trung học kỹ
thuật và dạy nghề phải cân đối hơn, thỏa mãn cho được nhu cầu lao động cho
phát triển kinh tế. Các loại hình đào tạo đều có thể liên thơng nhau để mọi học
viên đều có cơ hội học lên cao về sau.
- Hệ đại học, cao đẳng phải có được quy chế tự chủ rộng rãi hơn, được
chủ động trong nội dung chương trình, chọn phương pháp giảng dạy phù hợp.
Nhà trường được chủ động về thu nhận học viên, chọn lựa giảng viên, cấp bằng
tốt nghiệp và tự chủ về tài chính.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nên cho phép Việt kiều, doanh nhân nước ngoài
đang đầu tư tại Việt Nam hay các trường nước ngồi mở trường học. Như thế
mới có thể nhanh chóng hội tụ thêm những kinh nghiệm cụ thể.
Phương pháp giáo dục mới phải giúp và buộc học sinh sử dụng tốt công
cụ thông tin trên mạng để bổ sung kiến thức còn thiếu. Mục tiêu và phương phỏp
GVDH: Dơng Thị Linh
9
Bài tập lớn: Tâm lý học
ging dy cng phi thay đổi. Chúng ta xem q trình dạy và học thơng qua ba
tầng tiếp thu của học sinh như sau:
- Nếu chỉ dừng ở tầng 1 - tiếp nhận thông tin. Khi ấy thầy giảng, trò nghe
và ghi nhớ. Trò cần học thuộc với hy vọng sử dụng kiến thức đó để kiếm sống.
Điều này ngày xưa thì được, nhưng nay có thể khơng được, nếu chẳng may điều
thầy dạy khơng còn đúng với thực tế nữa.
- Tầng 2 diễn ra khi đã có sự trao đổi thơng tin và tạo thơng tin mới, tức là
thầy và trị có sự trao đổi trong quá trình dạy và học nhằm bám sát thực trạng xã
hội, giúp trò sau này dễ dàng vận dụng được những điều đã học vào những môi
trường thực tế hết sức đa dạng.
- Tầng 3 là rèn luyện cách tiếp cận, hình thành phương pháp tư duy sáng
tạo. Trong quá trình giảng bài với những bài học khác nhau, người thầy phải
chọn những nội dung để kết cấu thành hệ thống bài giảng nhằm từng bước hình
thành một phương pháp tư duy, tạo nên kỹ năng sáng tạo cho trị. Kết quả là trị
sẽ có phương pháp tiếp cận thực tế độc đáo và hiệu quả, có kỹ năng giải quyết
vấn đề ở tầm tư duy ngang bằng thời đại.
Như vậy, điều hết sức quan trọng mà thầy cần rèn cho trò tại trường là
phương pháp tiếp cận thơng tin, quan sát và nhận dạng vấn đề, hình thành nhận
thức mới đúng đắn và ngang bằng với trình độ chung của học sinh cùng bậc ít
nhất là của các nước tiên tiến trong khu vực.
II. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
Lao động của người giáo viên, lao
động sư phạm là loại hình lao động đặc biệt.
Hiểu được loại lao động này, chúng ta mới có
được những quyết định quản lý thích hợp.
Bất cứ lao động nào cũng có ba khâu: sử
dụng cơng cụ lao động, tác động lên đối
tượng lao động và tiêu phí sức lao động.
Kế thừa truyền thống nho học, Người
thầy được Gia đình và Xã hội Việt Nam tôn
vinh -Những người Thầy “đạo cao, đức
trọng” được xem như bậc hiển thánh... Thế
GVDH: D¬ng ThÞ Linh
10
Bài tập lớn: Tâm lý học
nhng, thi bui kinh t thị trường, người thầy cũng phải bươn chải, cũng phải
lo miếng cơm manh áo... Khó thật, sống sao đây cho sáng Đức thầy?
Trong xã hội nghề dạy học hình thành sớm nhất. Nó ra đời khi nền sản
xuất xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Trong quá trình lao động sản
xuất người ta cần phải truyền lại cho nhau những kinh nghiệm đấu tranh với
thiên nhiên có hiệu quả để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mới đầu ở mức
thấp, người ta có thể truyền đạt một cách trực tiếp thành quả lao động tập thể,
người này theo kinh nghiệm của người khác. Nhưng khi kinh nghiệm đã phong
phú theo sự phát triển của sản xuất thị truyền đạt phải đòi hỏi đến vai trị của
người trung gian. Đó là thầy giáo. Như vậy nghề dạy học gắn chặt với lao động
sản xuất của xã hội, góp phần hình thành phẩm chất nǎng lực cần thiết của con
người lao động.
1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đang
lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này không phải là vật vô tri vô
giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ
của người thợ mộc ... mà là một con người rất nhạy cảm với những tác độgn của
mơi trường bên ngồi theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Như vậy
người giáo viên phải lựa chọn và gia công lại những tác động xã hội và tri thức
loài ngd bằng lao động sư phạm của mình nhằm hình thnàh co người đáp ưng
yêu cầu của xã hội. Đối tượng đó vừa là khách vừa là chủ thể của quá trình giáo
dục. Tác động đến đối tượng đó khơng phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như
nhau. Hiệu qủa đó cũng khơng tỷ lệ thuận với số lần tác động. Do đó, trong tay
người giáo viên phải có vơ số phương án để tác động đến đốitượng, khơng thể
rập khn máy móc như lao động khác. Bản thân đối tượng lao động đã quyết
định tính đặc thù của lao động sư phạm của nghề dạy học.
Cũng là đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, nhưng con người với tư
cách là đối tượng của thầy giáo cũng khơng hồn tồn giống với con người trong
quan hệ với thầy thuốc, chị bán hành… đó là con người đang trong thời kỳ
chuận bị, đang ở buổi bình minh của con người. Hoạt động chính là người thầy
giáo là điều khiển và tổ chức trẻ lĩnh hội, thơng thái những kinh nghiệm, những
tinh hoa mà lồi người tích lũy được và biến chúng trở thành những nét nhân
cách của chín mình. Khơng ai trong xã hội ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi nữa
GVDH: D¬ng ThÞ Linh
11
Bài tập lớn: Tâm lý học
cng khụng th thay th được thức năng của người thầy giáo. Nghề thầy giáo có
ý nghĩa chính trị kinh tế to lớn
2. Nghề mà cơng cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình
Thế cơng cụ của người giáo viên là gì? Có người cho rằng chỉ là kiến
thức. Theo tơi đó mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Bởi vì trong xã hội ta
ngày nay con người mới phải phát triển tồn diện chứ khơng chỉ có kiến thức
đơn thuần. Đúng là tri thức có vai trị quan trọng đối với con người, là vũ khí để
bảo vệ cuộc sống tri thức vô cùngcần thiết đối với mỗi giáo viên. Đối với cuộc
đời nó là cơng cụ lao động trí óc và tay chân. Nhưng Mác nói: "Hồn cảnh tạo ra
con người trong chừng mực con người tạo ra hoàn cảnh". Bản thân tri thức
khơng thể hồn thành con người mới, con người chỉ hình thành thơng qua hoạt
động lao động sản xuất và đấu tranh xã hội một cách tích cực và tự giác. Ngồi
ra trí thức cịn có cơng cụ nữa là để hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả, đó
chính là lao động động sư phạm của người giáo viên. Như vậy công cụ chủ yếu
của lao động sư phạm là người giáo viên với toàn bộ nhân cách của mình. Nhân
cách này càng tinh sảo, càng hồn hảo thì sản phẩm làm ra càng hồn thiện.
Nhân cách đó bao gồm tâm hồn, tư tưởng, phong cách sống cũng như sinh hoạt
của người giáo viên. Từ đó chúng ta có thể thấy rõ hơn, nếu người giáo viên
thiếu nhân cách thì khơng thể giáo dục nhân cách cho học sinh
Nghề nào cũng bằng công cụ để gia công vào vật liệu tao ra sản phẩm.
Công cụ càng tốt, càng hiện đại thì kết quả gia cơng càng cao. Cơng cụ đó thể
hiện ở trong hay ở ngoài người lao động.
Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để
tác động vào học sinh. Công cụ chủ yếu của người thầy giáo là chính bản thân
ơng ấy, là nhân cách của chính mình. Cho nên ngươi, nghề thầy giáo địi hỏi
những phẩm chất và năng lực rất cao. Hơn nữa nghề thầy giáo là nghề lao động
nghiêm túc không được phép tạo ra thứ phẩm.
3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội
Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái xản suất
của cải vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra của cải vất chất và của cải tinh
thần cần có sức lao động. Sức lao động chính là tồn bộ sức mạnh vất chất hay
tinh thần ở trong con người, trong nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có
để sản xuất ra sản phẩm vất chất hay tinh thần có ích cho xã hội. Cho nên chức
GVDH: Dơng Thị Linh
12
Bài tập lớn: Tâm lý học
nng ca giỏo dc chớnh là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con
người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội đó. Những
sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, là tình
thường đồng bào, đồng loại, là đức tính cần cù sáng tạo, là trí thức, lịng u lao
động, lao động có tổ chức, có kỹ thuật và năng suất cao .
4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuất và tính sáng tạo cao
Người thầy giáo tồi là người đem chân lý sẵn, còn người thầy giáo giỏ là
người biết dạy học sinh đi tìm chân lý. Thực hiện cơng việc dạy học theo tinh
thần đó, rõ ràng đòi hỏi người thầy giáo phải dữa trên những nền tảng khoa học
giáo dục và có kỹ năng sử dụng chúng và từng tình huống sư phạm cụ thể, thích
ứng với từng cá nhân. Quan niệm của nhà giáo như vậy và yêu cầu người thầy
giáo thực hiện chức năng xã hội của mình theo u đó thì cơng việc của họ địi
hỏi tính khoa học cao và tính khoa học cao đến mức khi thể hiện nó như một
người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ, một nhà thơ của quá trình sư phạm.
5. Nghề lao động trí óc chun nghiệp
Lao động trí óc có hai đặc điểm nổi bật: Phải có một thời lỳ khởi động,
Nghĩa là thời kỳ để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra hệ quả. Có “qn tính”
của trí tuệ. Do những đặc điểm của lao động trí óc chun nghiệp như trên cho
nên công việc của người thầy giáo khơng hẵn đóng khung trong khơng gian lớp
học, thời gian xác định…
Thông qua những đặc điểm lao động của người thầy giáo, chúng ta phải
đặt ra nhiều đòi hỏi trong phẩm chất và năng lực của người thầy giáo. Càng
minh chứng tính khách qua, quan trọng yêu cầu đối với nhân cách nhà giáo dục.
Những mặt khác nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho nhà giáo một vị trí tinh
thần và sự ưu đãi vất chất sứng đáng.
III. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO
Nói đến nhân cách là nới đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo
nên bản sắc (nét đặc trưng) và giá trị tinh thần (giá trị làm người) của mỗi người.
Như vậy cấu trúc nhân cách là một hệ thống gồm hai bộ phận: Phẩm chất (đức)
và năng lực (tài).
Nói đến phẩm chất là nói đến thái độ người đó đối với hiện thực (tự nhiên,
xã hội, người khác và bản thân) có nghĩa là nó là hệ thống những thuộc tớnh tõm
GVDH: Dơng Thị Linh
13
Bài tập lớn: Tâm lý học
lý biu hin cỏc mi quan hệ xã hội cụ thể đó thường được thể hiện ra hành
động, hành vi và cách sử sự đối con người, cơng việc, tổ chức…
Nói đến năng lực là nới đến mặt hiện quả của các tác độn, tác động vào
con người, vào sự việc và tạo ra hiện quả.
Phẩm chất và năng lực đều là tổ chức của ba yếu tố tâm lý cơ bản: Nhận
thức, tình cảm, ý chí. Cho nên mặt phẩm chất của nhân cách bao gồm ý thức,
niềm tin, đạo đức (nhận thức) mà biểu hiện tập trung là thế giới quan và lý
tưởng, đạo đức, tình cảm và ý chí đạo đức (biểu hiện tập trung ở nhân cách).
Trong cấu trúc nhân cách của người thầy có thể kể đến những thành phần sau
đây:
Các phẩm chất: Thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ lòng
yêu trẻ, lòng yêu nghề. Những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của
người thầy giáo.
Các năng lực sư phạm: Năng lực hiểu học sinh trong q trình dạy học và
giáo dục, trí thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực
ngôn ngữ, năng lực vạch dự án, phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp
sư phạm, năng lực cảm hóa học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm năng
lực tổ chức hoạt động sư phạm
Nhân cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoạt động.Thơng qua một
tổng hịa các quan hệ giáo dục, thang giá trị, hệ thống giá trị, thước đo giá trị và
định hướng giá trị, con người trở thành nhân cách.
Nhân cách có cấu trúc phức tạp, nhiều nội dung linh hoạt. Có nhiều quan
niệm khác nhau về cấu trúc nhân cách:
- Quan niệm nhân cách bao gồm 3 lĩnh vực cơ bản là:
+ Nhận thức
+ Rung cảm
+ Hành động (trong đó có cả hành động ý chí và những kỹ năng kỹ xảo,
thói quen)
- Quan niệm nhân cách bao gồm 4 tiểu cấu trúc:
+ Xu hướng
+ Kinh nghiệm (kể cả tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen)
+ Đặc điểm các q trình tâm lý (ý chí, cảm xúc hành động...)
+ Các thuộc tính sinh học ca cỏ nhõn (khớ cht, gii...)
GVDH: Dơng Thị Linh
14
Bài tập lớn: Tâm lý học
- Quan nim nhõn cỏch bao gồm các tầng khác nhau:
+ Tầng nổi: Gồm các hiện tượng tâm lý được ý thức và tự ý thức.
+ Tầng sâu: Gồm các hiện tượng tâm lý vô thức và tiềm thức
- Quan niệm nhân cách bao gồm 4 khối:
+ Xu hướng: Qui định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của
con người. Bao gồm hệ thống nhu cầu, hứng thú lý tưởng, niềm tin và nhân sinh
quan (thế giới quan).
+ Khả năng: là năng lực tổng hợp các thuộc tính cá nhân. Bao gồm: năng
lực chung, năng lực chuyên biệt, năng lực cải tạo và sáng tạo, năng lực học tập
và nghiên cứu .
+ Phong cách hành vi do tính cách và khí chất qui định. Tính cách là hệ
thống thái độ của con người đối với hệ thống thế giới khách quan và đối với bản
thân. Khí chất là những thuộc tính cá thể của tâm lý qui định động thái của hoạt
động tâm lý của con người qui định sắc thái bên ngoài của đời sống tinh thần, là
một mặt của bản chất con người.
+ Hệ thống điều khiển: Còn gọi là cái tôi của nhân cách, tự điều chỉnh, tự
kiểm tra và điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá nhân. Có thể đây là quan
niệm bao quát đầy đủ và hợp lý hơn cả.
Đức và tài là cách nói quen thuộc của Việt Nam (phù hợp với quan niệm
cấu trúc nhân cách 4 khối) và được sắp xếp thành 2 mặt thống nhất đức và tài.
Theo quan niệm này thì đức và tài là phẩm chất và năng lực dưới sự chỉ đạo của
ý thức "bản ngã " tức là cái tôi Đức (phẩm chất ) Tài (năng lực ).
Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính trị) bao gồm:
- Thế giới quan, nhân sinh quan
- Lập trường
- Thái độ chính trị, thái độ lao động
- Lý tưởng niềm tin
Năng lực xã hội hóa: Khả năng thích ứng, khả năng sáng tạo, khả năng cơ
động, linh hoạt, mềm dẻo trong cuộc sống xã hội
Phẩm chất cá nhân
- Các tớnh nt ,thúi quen.
- Ham mun, hng thỳ
GVDH: Dơng Thị Linh
15
Bài tập lớn: Tâm lý học
Nng lc ch th húa: Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu hiện cái
riêng, sáng kiến, bản lĩnh
Phẩm chất ý chí
- Tính kỷ luật, tự chủ
- Tính mục đích, quả quyết
- Tính phê phán, hoài nghi khoa học
Năng lực hành động: Khả năng hành động có mục đích, có điều khiển,
chủ động tích cực
Cung cách ứng xử
- Tác phong, tính khí
- Lễ tiết
Năng lực giao lưu: khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với người
khác.
Giá trị nhân cách thể hiện ba khía cạnh:
- Giá trị là sản phẩm vật chất và tinh thần do con người, nhóm người,
cộng đồng dân tộc và loài người tạo ra.
- Giá trị là phẩm giá , phẩm chất của con người, nhóm người, cộng đồng
dân tộc và loài người .
- Giá trị là biểu hiện mối quan hệ của con người dưới góc độ lợi ích, đánh
giá đối với tồn tại chung quanh.
Hệ thống giá trị gồm 4 nhóm
- Nhóm 1: Các giá trị cốt lõi: hịa bình, tự do, việc làm, gia đình, sức
khỏe, an ninh, tự trọng, cơng lý, tình nghĩa, sống có mục đích, niềm tin, tự lập,
nghề nghiệp, học vấn.
- Nhóm 2: Các giá trị cơ bản: Sáng tạo, tình yêu, chân lý.
- Nhóm 3: Các giá trị có ý nghĩa: Cuộc sống giàu sang, cái đẹp.
- Nhóm 4: Các giá trị không đặc trưng: Địa vị xã hội.
Thang giá trị là một tổ hợp giá trị xếp theo thứ tự tầng bậc ưu tiên.
Thước đo giá trị là thang giá trị được vận dụng để đánh giá và tự đánh giá
một hiện tượng xã hội, một cử chỉ, một cách ứng xử, hoặc được sử dụng để thực
hiện một hoạt ng, mt hnh ng, hnh vi.
GVDH: Dơng Thị Linh
16
Bài tập lớn: Tâm lý học
nh hng giỏ tr l cơ sở để hướng tới một sư lực chọn, một cách đánh
giá, một cách nhìn, một niềm tin, một mục đích tiến tới. Cơng việc cốt lõi của
định hướng giá trị chính là giáo dục giá trị.
Nhân cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoạt động. Thông qua một
tổng hòa các quan hệ giáo dục, thang giá trị, hệ thống giá trị, thước đo giá trị và
định hướng giá trị, con người trở thành nhân cách.
Nghiên cứu con người để tìm ra qui luật hình thành và phát triển NC con
người và nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước.
IV. PHẨM CHẤT CỦA THẦY GIÁO
Trong phẩm chất tư cách của người thầy giáo trước hết phải có thế giới
quan khoa học sau khi vạch trần tính chất bịp bợm cái gọi là giáo dục phi chính
trị Đảng, V LêNin khẳng định “Nền giáo dục mới có trách nhiệm phải gắn hoạt
động cảu giáo viên với nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa”và cần bồi dưỡng
một đội ngũ những người làm cơng tác giáo dục và giảng dạy gắn bó chất chẽ
với Đảng, với lý tưởng của Đảng và thấm nhuần tinh thần của Đảng.
Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới quan Mác - LêNin Bao gồm
những quan điểm duy vật biến chứng về các quy luật phát triển tự nhiên, xã hội
và tư duy. Thế giới quan Mác - Lênin của người thầy giáo trước hết, dù là trình
độ học vấn của người thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy (chẳng
hạn: Qua thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động cũng
như thái độ của ông ta đối với hoạt động đó như việc lựa chọn nội dung và
phương pháp giảng dạy và giáo dục,việc kết hợp giữa giáo dục và giảng dạy với
thực tiễn cuộc sống, cũng như phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện
tâm lý học sinh.
Tóm lại thế giới quan Mác - LêNin là kim chỉ nam giúp cho người thầy
giáo đi tiên phong trong đội ngũ những người xây dựng xã hội XHCN, xây
dựng niềm tin cho thế hệ đang lớn lên, và chống mọi biểu hiện của tư tưởng xa
lạ.
1. Thế giới khoa học
Trong phẩm chất nhân cách của người thầy giáo trc ht phi cú th gii
khoa hc
GVDH: Dơng Thị Linh
17
Bài tập lớn: Tâm lý học
2. Lý tng th h trẻ
Lý tưởng thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo
lý tưởng là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo ln đi lên phía trước,
thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác lý tưởng
của thầy giáo có hình ảnh sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh.
Lý tưởng đạo tạo của thế hệ trẻ của người thầy giáo thể hiện ra ngoài bằng
niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh
với công việc, tác phong làm việc cần cù trách nhiệm lối sống giản dị và lối
sống và nhân tính.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ khơng phải là cái gì có sẵn, cũng khơng phải
là cái gì truyền từ người này qua người khác bằng cách áp đặt. Đáp lại sự hình
thành và phát triển là một q trình hoạt động tích cực trong cơng tác giáo dục.
Chính trong q trình đó nhận thức về nghề càng được nâng cao, tình cảm nghề
nghiệp ngày càng tỏ rõ quyết tâm cao.
Vì tác dụng to lớn của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong trường sư phạm
phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu trường sư phạm
không giáo dục lý tưởng SS nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như
A X, Macarencơ đánh giá là “khơng giáo dục gì hết”
3. Lịng u trẻ
Lịng yêu người, trước hết là yêu trẻ là trong những phẩm chất đạo đức
cao quý của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong phong cách người thầy
giáo vì lịng thương người đó là đạo lý cuộc sống lịng u thương người, u trẻ
càng săn sóc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu “tôi nghĩ
rằng đối với một nhà giáo dục điều chủ yếu là tính người, đó là nhu cầu sâu sắc
trong con người. Có lẽ những mầm mống những hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt
động sáng tạo đầy tính người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều
vo cùng quan trọng. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì họ sẽ
có một tài sản vơ giá: đó là tính người mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân
cần chu đáo lòng thú vị”.
Lòng yêu trẻ được thầy giáo thể hiện:
Trong thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ kể cả các em học
kém và vụ k lut .
GVDH: Dơng Thị Linh
18
Bài tập lớn: Tâm lý học
Ngi thy giỏo cú lũng yêu thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần
giúp đỡ họ bằng ý kiến hoặc hành động thực tế cảu mình một cách chân thành
và giản dị. Đối với họ khơng bao giờ có thái độ phân biệt đối xử dù có những
em chưa ngoan hoặc chậm hiểu.
Tuy nhiên lòng yêu trẻ của thầy giáo thể pha trộn với những nét ủy mị,
mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ, mà ngược lại.
Tóm lại, có thể nói rằng đó là bí quyết thành công của người thầy giáo sâu
sắc là bắt nguồn từ một thứ tính vơ cảm vơ cùng sâu sắc, đó là tình u trẻ.
4. Lịng u nghề (u lao động sư phạm)
Lịng u nghề và u trẻ gắn bó chắt chẽ với nhau, lồng với nhau. Càng
yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu càng yêu người mới có cơ sở để
u nghè khơng có lịng thương người, u trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những
động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì lý tưởng nghề
nghiệp.
Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến sức cống hiến cho sự nghiệp đào
tạo cho thế hệ trẻ của mình trong cơng tác giảng dạy và sự giáo dục, họ luôn
làm việc với tinh thần trách nhiệm cao luôn luôn cải tiến nội dung và phương
pháp khơng tự thảo mạn với trình độ hiểu biết và dạy nghề của mình người kỹ
sư có tâm hồn một cách xứng đáng.
Chúng ta có thể khẳng định có vai trị của phẩm chất này trong cấu trúc
nhân cách người thầy giáo bằng cách mượn câu nói của LN.Tơnxơi: “Để đạt
được thành tích trong cơng tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất
5. Một số phẩm chất đạo đức (nét tinh cánh) và phẩm chất ý chí của
người thầy giáo
Khác với hoạt động khác, hoạt động cua người thầy giáo nhằm làm thay
đổi con người (học sinh). Do vậy mỗi quan hệ thầy trò như một vấn đề quan
trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mỗi quan hệ này ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng dạy học nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan hệ với
học sinh, sao cho qua đó khơi dậy ở họ được tính tích cực hoạt động thì các chất
lượng dạy - học sẽ được nâng cao.
Hơn nữa, người thầy giáo giáo dục học sinh không những bằng những
hành động trực tiếp của mình mà cịn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng
thái độ và hành vi ca chớnh mỡnh i vi hin thc.
GVDH: Dơng Thị Linh
19
Bài tập lớn: Tâm lý học
Nhng phm cht o c và nhân tố để tạo ra sự cân bằng theo quan
điếm sư phạm trong các mỗi quan hệ cụ thể giữa thầy và trị. Những phẩm chất ý
chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo
thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.
6. Thực trạng hiện nay
Những gì dưới đây được bạn xem là phẩm chất và năng lực cần thiết của
mỗi giáo viên (xếp thứ hạng theo tỉ lệ phiếu được học sinh lựa chọn tán thành)?
1.Công bằng,không thiên vị, phân biệt đối xử với HS: 97,2%
2. Không đe nẹt, thành kiến, trù dập HS: 90,6%
3. Gần gũi cảm thơng với HS: 87,8%
4. Khuyến khích nâng đỡ HS học tập rèn luyện: 86,9%
5. Khơng tính tốn so đo hơn thiệt: 85,9%
6. Tốt bộ mơn: 85,9%
7. Có hiểu biết rộng rãi: 82,2%
8. Ln vui vẻ hịa nhã: 82,2%
9. Khơng nên tăng thu nhập bằng những việc làm không phù hợp với nghề
nghiệp và danh hiệu nhà giáo: 80,4%
10. Vị tha, hết lịng vì HS: 79,4%
Trên đây là kết quả thăm dò bằng phiếu được thực hiện với 200 HS THPT
tại Hà Nội (nội thành và ngoại thành, công lập và dân lập, trường điểm và
trường bình thường). Tất cả chỉ là tham khảo để suy nghĩ và xác định những giải
pháp cho một vấn đề lớn, ưu tiên hàng đầu, có ý nghĩa đột phá: xây dựng đội
ngũ nhà giáo, lực lượng chủ công quyết định đối với sự nghiệp chấn hưng nền
giáo dục của nước nhà.
Từ thống kê thể hiện qua biểu đồ, ta thấy những biểu hiện xấu bị học sinh
phản đối nhất (điểm số trên 15, nghĩa là đa số không chấp nhận) bao gồm: ăn hối
lộ: 17,92 điểm; xúc phạm học sinh yếu kém: 17,33 điểm; nói tục: 17,1 điểm;
uống rượu trước khi đến lớp: 17,09 điểm; điểm số khơng trung thực: 15,92
điểm; có thái độ thành kiến với một số học sinh nào đó: 15,22 điểm.
Những khuyết điểm nào thuộc loại rất có hại đối với hình ảnh người giáo
viên? Trong số sáu biểu hiện xấu nói trên thì có hai biểu hiện là “nói tục” và
“uống rượu trước khi đến lớp” thuộc về tác phong và do đó có thể dễ dàng nhận
được sự góp ý từ học sinh hay đồng nghiệp để sa cha. Vỡ th theo quan im
GVDH: Dơng Thị Linh
20
Bài tập lớn: Tâm lý học
riờng ca chỳng tụi thỡ đó khơng phải là những lỗi thuộc loại rất có hại đối với
hình ảnh người giáo viên.
Biểu hiện “ăn hối lộ” có điểm số phê phán cao nhất. Tuy nhiên theo ý kiến
riêng của chúng tơi thì đó khơng phải là một lỗi phổ biến và dễ bị học sinh nhận
thấy. Do đó chúng tơi khơng xếp lỗi này vào loại rất có hại cho hình ảnh người
giáo viên.
Ba biểu hiện xấu cịn lại theo chúng tơi là hết sức nguy hiểm đối với hình
ảnh người giáo viên vì đây là ba lỗi phổ biến, dễ mắc phải ở giáo viên và cũng
dễ bị học sinh nhận ra.
Đặc biệt, theo quan điểm của chúng tôi, các giáo viên cần hết sức tránh lỗi
“xúc phạm học sinh yếu kém” bởi vì lỗi này chẳng những bị học sinh phản đối
gay gắt mà cịn là một lỗi rất khó nhận ra, khó bị phản ánh vì nó diễn ra dưới
nhiều cấp độ và nhiều hình thức, thậm chí nhiều giáo viên cịn ngộ nhận những
hành động của mình là có tính sư phạm, vì lợi ích của các em.
Những khuyết điểm nào ở người giáo viên mà học sinh cho là có thể tạm
chấp nhận được?
Nhìn chung các em có xu hướng châm chước cho những khuyết điểm của
người giáo viên trong đời sống xã hội và phản đối mạnh những biểu hiện, những
khuyết điểm thể hiện trong môi trường sư phạm, ảnh hưởng trực tiếp đến các
em.
Tuy nhiên khơng phải vì vậy mà người giá, lối sống vì những biểu hiện
này tuy không bị học sinh phản đối quyết liệt nhưng về lâu về dài sẽ có ảnh
hưởng rất xấu đến sự hình thành nhân cách và quan điểm của học sinh, khiến
cho học sinh khó trở thành những cơng dân tốt nếu được giáo dục bởi những
người thầy có quan điểm sai lệch.
Ví dụ: có thái độ vọng ngoại, chê bai con người và sản phẩm của Việt
Nam.
Đặc biệt, đáng ngạc nhiên là “đi trễ”, một lỗi của giáo viên có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của học sinh lại không bị các em phản đối mạnh. Điều này
cũng thể hiện rằng ý thức kỷ luật về giờ giấc của các em chưa cao, rất khơng có
lợi cho tương lai các em cũng như sự phát triển của xã hội. Các quý thầy cô cần
đặc biệt quan tâm giáo dc cỏc em v vn ny
GVDH: Dơng Thị Linh
21
Bài tập lớn: Tâm lý học
V. NNG LC
Xó hi ta từ xưa đã có truyền thống tơn sư trọng đạo. Những bậc thầy như
Chu Văn An thời nào cũng đựợc nhân dân ngưỡng mộ và kính trọng. Ngay trong
hồn cảnh chiến tranh ác liệt mấy chục năm trước đây, khó khăn trăm bề, mà
ngành giáo dục vẫn hoạt động có hiệu quả, xứng đáng là bông hoa đẹp của đất
nước, cũng là nhờ cái tinh thần trọng thầy, ham học, chuộng tri thức của người
dân.
Thế nhưng, từ vài chục năm lại đây, cùng với những khó khăn kinh niên
của giáo dục, vị thế người thầy trong xã hội ta xuống thấp đáng lo ngại. Tất
nhiên ngày nay, hoàn cảnh xã hội, điều kiện giảng dạy, học tập, đã khác trước
nhiều thì những quan niệm về người thầy cũng phải thay đổi, không thể cứ giữ
mãi những khuôn mẫu cứng nhắc của mấy chục năm về trước. Nhiều vấn đề mới
xuất hiện cần phải được nghiên cứu, xem xét, nhìn nhận lại, để kịp thời điều
chỉnh chủ trương, chính sách cho thích hợp. Trong đó đặc biệt quan trọng là
nhận thức về người thầy trong nhà trường hiện đại. Tơi nói nhà trường hiện đại
vì muốn hiện đại hóa đất nước thì phải bắt đầu bằng việc hiện đại hóa giáo dục,
không thể tiếp tục để cho nhà trường tụt hậu thêm nữa.
Có người cho rằng, do sự bùng nổ cách mạng công nghệ thông tin, hàng
lọat phương tiện kỹ thuật ra đời hỗ trợ đắc lực cho việc học, thì vị trí ơng thầy
lui dần xuống hàng thứ yếu, hay ít ra người thầy khơng cịn giữ vai trị quyết
định then chốt trong nhà trường như trước đây nữa. Ý kiến này mới nghe xem ra
có lý, nhưng đã khơng được khoa học và kinh nghiệm thưc tiễn xác nhận. Trong
số các nghiên cứu khoa học đáng chú ý về vấn đề này có cơng trình của J. Hattie
trong đó, dựa trên những dữ liệu về hơn 50 triệu học sinh mọi lứa tuổi và thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau, và dùng phương pháp phân tích nhân tố để khảo sát
ảnh hưởng tương đối của các yếu tố khác nhau đến chất lượng giáo dục, như:
trình độ, khả năng tiếp thu, tinh thần ham học của người học, năng lực, phương
pháp giảng dạy của thầy, chất lượng và sự phong phú các phương tiện hỗ trợ học
tập, đặc biệt là về công nghệ thông tin, v.v… tác giả đã đi đến kết luận là ngay
cả trong nhà trường hiện đại, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thì
vai trị quyết định nhất đối với chất lượng giáo dục vẫn thuộc về các yếu tố liên
quan trực tiếp tới người thầy. Thầy giỏi vẫn là nhân tố quyết định nhất đối với
hiệu quả giáo dục trong nhà trng hin i.
GVDH: Dơng Thị Linh
22
Bài tập lớn: Tâm lý học
Cng cú ngi ngh rng theo phương pháp sư phạm tiên tiến phải lấy học
sinh làm trung tâm, đề cao việc tự học, phát huy tối đa tính tích cực tự giác của
học sinh, cho nên học sinh chứ không phải thầy giáo là nhân vật trung tâm trong
nhà trường. Thật ra các yêu cầu vừa nói về phương pháp giáo dục tiên tiến đã
được nêu ra từ nhiều thế kỷ trước, sở dĩ gần đây được nhấn mạnh đặc biệt là do
bước vào kinh tế tri thức việc rèn luyện tính năng động sáng tạo cho học sinh
được nhìn nhận là cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhưng đó chỉ là nói nhiệm vụ của
thầy, những việc thầy cần làm, các phương pháp thầy cần áp dụng để nâng cao
hiệu quả giảng dạy, chứ khơng phải vì những việc ấy mà giảm nhẹ vai trị của
thầy. Chính vì thế trong một tài liệu giới thiệu khá đầy đủ về phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm, tác giả R. Batliner đã khẳng định ngay ở trang
đầu: “giáo viên là yếu tố chủ chốt quyết định việc dạy và học có chất lượng”.
Mà cũng dễ hiểu thôi: lọai trừ những trường hợp xuất chúng đặc biệt, cịn đối
với số đơng học sinh, từ tiểu học cho đến đại học, muốn phát huy và phát triển
nội lực mà khơng có thầy giỏi thì làm sao được. Đành rằng khi đã có thầy tốt thì
đối với mỗi học sinh, kết quả học tập phụ thuộc chủ yếu vào cố gắng của bản
thân, song khi bàn đến chất lượng giáo dục thì phải xem xét cái phần gia tăng
của nội lực nhờ tác động của giáo dục mà phát huy và phát triển thêm được, cái
đó mới là thước đo chất lượng, hiệu quả của giáo dục, chứ khơng phải bản thân
cái nội lực sẵn có của học sinh. Cho nên, dù có nhiều cách học khơng cần có
thầy trực tiếp, song theo kinh nghiệm của bản thân tôi cũng như của nhiều người
đã từng tự học là chính, thì cách học hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian, công sức
nhất, vẫn là học với thầy giỏi. It ra có thầy giỏi thì tránh được những đường
vịng khơng cần thíết và đỡ mất cơng mị mẫm tìm hướng đi giữa các rừng kiến
thức. Đương nhiên thầy không phải là nhân tố quyết định duy nhất, nhưng xét
cho kỹ có thể nói khơng có nhân tố đơn lẻ nào quan trọng hơn.
Sứ mạng của nhà trường, của thầy là phải thông qua giáo dục mà đánh
thức cái tiềm năng trong mỗi học sinh, khơi dậy và phát triển cái nội lực đó của
họ. Sứ mạng đó thật cao quý và quan trọng. Thầy không chỉ dạy cho học sinh
học, mà còn phải từng bước dạy cho học sinh biết tự học, tự đọc sách, tìm tịi,
tra cứu, phát hiện ra điều mới, và ở bậc đại học hay nghiên cứu thì tập dượt sáng
tạo ra tri thức mới, nghĩa là phát huy tích cực nội lực của mỡnh thụng qua tri
GVDH: Dơng Thị Linh
23
Bài tập lớn: Tâm lý học
thc m phỏt trin trớ tuệ, phát triển tư duy, rèn luyện nhân cách, chứ không phải
chỉ tiếp thu tri thức một cách thụ động, dù là tri thức tiên tiến.
Gần đây cũng có ý kiến cho rằng khơng phải thầy, mà chương trình đào
tạo mới là yếu tố quyết định nhất đối với chất lượng đại học. Nếu quả vậy thì
vấn đề chất lượng đại học quá đơn giản, vì chỉ cần cải tiến chương trình đào tạo,
thậm chí bê ngun xi chương trình đào tạo của một trường nổi tiếng ở nước
ngoài vào là giải quyết được. Tiếc thay khơng có thầy giỏi thì làm sao xây dựng
được và thực hiện được chương trình đào tạo tốt. Có lẽ trên thế giới chỉ duy nhất
các đại học của ta mới không xem trọng trình độ, năng lực thực tế của đội ngũ
thầy giáo và do đó trong hàng chục năm khơng hề đặt nặng vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển chọn thầy giáo, mặc dù sự hụt hẫng của đội ngũ này đã được báo
động từ lâu. Trong khi đó thì tuyển chọn và công nhận GS, PGS làm rất tắc
trách, gây thêm nhiều lo lắng cho chất lượng đại học. Còn ở các nước tiên tiến
thì trái lại họ đặt tất cả uy tín, danh tiếng (chứ khơng phải “thương hiệu”, như
một số người bắt đầu nói đến) của một đại học trước hết vào việc xây dựng một
đội ngũ giảng dạy có chất lượng, trình độ cao. Chỉ cần biết có bao nhiêu giáo sư
nổi tiếng dạy ở một trường là đủ cho người ta tin tưởng trường đó, khơng phải vì
người ta ít quan tâm chương trình đào tạo mà vì người ta cho rằng có nhiều thầy
giỏi thì mới có chương trình đào tạo tốt. Cịn khơng có thầy giỏi thì dẫu chương
trình đào tạo hay bao nhiêu họ cũng tin rằng chất lượng đào tạo chẳng ra gì (tất
nhiên khơng loại trừ cá biệt có sinh viên học trường đó mà vẫn rất giỏi). Cái
điều đơn giản này mà chúng ta cịn mơ hồ thì e rằng sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu
là nhiều đại học tụt dần xuống “phổ thông cấp 4” như nhiều người đang lo ngại.
Tóm lại, câu nói: “khơng thầy đố mầy làm nên”, cũng như “học thầy
khơng tầy học bạn” đều có phần chân lý của nó và đều khơng nên hiểu một cách
cực đoan, máy móc. Bất kể thế nào, khơng có thầy giỏi, về cả hai mặt năng lực
chun mơn và phẩm chất đạo đức, thì khó có thể có một nền giáo dục thật sự có
chất lượng, dù cho người học thơng minh, có đầy đủ nội lực, và dù cho chương
trình đào tạo tiên tiến.
Như vậy muốn có thầy giỏi, thầy ra thầy, trong nhà trường hiện đại thật
không dễ chút nào. Càng không dễ trong một xã hội và một thế giới đang
chuyển biến chóng mặt, ở đó nhiều vấn đề, nhiều kiến thức, nhiều quan niệm
mới hơm qua cịn được chấp nhận, hơm nay đã có th khụng cũn thớch hp na.
GVDH: Dơng Thị Linh
24
Bài tập lớn: Tâm lý học
Trong lỳc ú mc tiờu giáo dục không phải chỉ nhằm đào tạo con người làm
ngay được một nghề nghiệp, một công việc cụ thể trước mắt mà cịn phải nhìn
xa hơn, đào tạo những con người có khả năng thích ứng linh họat với những
hồn cảnh, những nghề nghiệp, những cơng việc ln ln thay đổi sau này,
những con người thạo việc, năng động, sáng tạo, biêt lo cho bản thân, cho cộng
đồng, đồng thời cũng là những cơng dân có trách nhiệm với xã hội, với đất
nước.
Kỳ vọng của xã hội đối với người thầy như thế cao quá chăng ? Đúng là
vậy, song tơi nghĩ chỉ khi nào một xã hội có can đảm đặt lên vai người thầy một
sứ mạng rất trọng đại, và làm hết trách nhiệm của mình để tạo điều kiện đầy đủ
cho người thầy thực hiện sứ mạng đó thì khi ấy xã hội mới khơng cịn phải lo
lắng nhiều đến tương lai. Còn trái lại, kỳ vọng quá thấp ở người thầy, hoặc chỉ
biết đòi hỏi mà khơng chăm lo một cách có trách nhiệm để cho thầy có đủ điều
kiện vật chất và tinh thần làm trọn sứ mạng cao cả của mình, thì chưa biết các
thế hệ đời sau sẽ nghĩ gì về thế hệ hôm nay.
Mặc dù kỳ vọng rất cao ở đội ngũ thầy giáo của chúng ta và rât tin tưởng
ở tiềm lực cũng như tâm huyết của đội ngũ ấy, trong lịng tơi vẫn day dứt một
câu hỏi: khi nào thì các khó khăn của các thầy, các cơ mới được thơng cảm và
tháo gỡ hết, có cách gì để tâm huyết và tài năng của các thầy, các cô, khơng bị
lãng phí vào những chuyện phi lý mà tơi tin chắc phần lớn các thầy, các cô đều
không mong muốn, để tất cả chúng ta cùng chung sức chấn hưng giáo dục, vì
tương lai con em, vì đất nước ngàn năm văn hiến của chúng ta ?
Hoạt động của người thầy của ngưòi thầy giáo biểu hiện ở tất cả các hình
thức khác nhau của cơng tác sư phạm nhưng tựu chung lại ở hai dạng đặc trưng:
công tác dạy học và công tác giáo dục.
Sau đây ta sẽ xét một số năng lực đỉnh hình trong các nhóm củ năng lực
sư phạm.
1. Nhóm năng lực dạy học
a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Dạy học là một quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động
dạy học do hai thực thể (thầy và trị) đảm nhiệm. trong q trình đó, chức năng
của thầy là tổ chức và điều khiển hoạt động của trò, chức năng của trò là chiếm
lĩnh nền vn húa xó hi
GVDH: Dơng Thị Linh
25