Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

nhân cách người giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.65 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy. Điều
này cho thấy, nghề giáo là một nghề rất cao cả, ln được xã hội kính trọng và
u quý từ ngàn xưa đến nay. Xã hội dù có phát triển đến đâu thì vị trí, vai trị
của người thầy giáo, cơ giáo trong lịng mỗi con người vẫn được khẳng định với
sự kính u và tơn trọng. Với mỗi chúng ta, khoảng thời gian đi học là khoảng
thời gian đẹp nhất, với nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đáng giữ gìn trân trọng nhất.
Trong ký ức đó, bạn bè, trường lớp và thầy cơ là hình ảnh khơng bao giờ phai.
Thầy, cô giáo là những người đã truyền đạt các kiến thức, những kinh nghiệm
sống cho con người từ khi chập chững bước vào đời cho đến khi họ trưởng
thành, những kiến thức và kinh nghiệm đó có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau của
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và cả những kiến thức để hình thành nhân
cách con người, góp phần tạo dựng một xã hội tốt đẹp. Như nhà bác học Lê
Quý Đôn đã từng nói “Phi trí bất hưng” nghĩa là quốc gia muốn hưng thịnh thì
khơng thể khơng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục .Giáo dục là sinh mệnh của
mỗi quốc gia “giáo dục là gốc rễ để gây nền chính trị “ (Phan Bội Châu) . Đại
hội Đảng tồn quốc lần thứ XI cũng đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hố, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
là khâu then chốt”. Đại hội cũng đã xác định: Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo
viên; xã hội hố giáo dục, đào tạo; khuyến khích các hoạt động khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng hợp tác quốc tế và tăng ngân sách
cho hoạt động giáo dục, đào tạo (GD-ĐT). Phát triển đội ngũ nhà giáo với cơ
cấu hợp lý, có chất lượng sẽ là động lực quan trọng để đổi mới và nâng cao chất
lượng GD-ĐT, góp phần quan trọng tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế.
Đồng thời, Đại hội cũng đã chỉ ra các giải pháp cơ bản phát triển đội ngũ giáo
viên, trong đó coi giải pháp: "xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp
1




ứng yêu cầu về chất lượng”, là khâu then chốt, là tiền đề trong đổi mới GD-ĐT
hiện nay. Chủ trương “Phát triển đội ngũ giáo viên là khâu then chốt trong đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo” thể hiện tư duy và nhận thức cách
mạng, khoa học, toàn diện, triệt để và sâu sắc của Đại hội XI. Qua đây chúng ta
cũng phần nào thấy được “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu “,nhiệm vụ
của giáo dục là nâng cao dân trí ,đào tạo nhân lực ,bồi dưỡng nhân tài ,đào tạo
con người mới ,có kiến thức ,có phẩm chất cách mạng , có kĩ năng xây dựng và
bảo vệ đất nước ...Và người đảm bảo sứ mệnh quan trọng và thiêng liêng đó
khơng ai khác là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục - Những người vẫn
được xã hội tôn vinh sự nghiệp “Trồng người” - đạo đức của nhà giáo có ảnh
hưởng to lớn đến hình thành nhân cách , đạo đức của người học .Bởi vậy việc
nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo là vấn đề vơ cùng quan trọng đặt ra ở
bất kì thời điểm nào , nhất là trong giai đoạn hiện nay .
Trong những năm qua , lớp lớp thế hệ nhà giáo đã nỗ lực hết mình , vượt
qua bao khó khăn, gian khổ để đào tạo cho quê hương , đất nước những thế hệ
con người mới có tri thức cao , có phẩm chất đạo đức tốt, có kĩ năng nghề
nghiệp , kĩ năng sống , đáp ứng sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc .Đa số đội
ngũ nhà giáo của ngành tâm huyết , có tinh thần trách nhiệm , tận tụy với công
việc , sáng tạo và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục . Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của đất nước , do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường
cùng với đời sống cịn nhiều khó khăn , một số nhà giáo chưa thực sự gương
mẫu , đang có nguy cơ suy thoái về phẩm chất đạo đức, nhân cách, xói mịn
lương tâm nghề nghiệp...
Hiện nay ,chúng ta ko quá bất ngờ khi trên các phương tiện truyền thông,
báo chí ngày càng khơng ít vụ việc thầy giáo đánh học sinh, lạm dụng uy quyền
để thực hiện lợi ích cá nhân của mình , nhiều học sinh đã bỏ học vì chán ghét
giáo viên của mình ...Tất cả đều liên quan đến nhân cách người thầy.Trước thực
trạng đó đã thôi thúc tôi chọn đề tài “nhân cách người giáo viên “ đề nghiên cứu

với mong muốn có thể góp phần nâng cao nhận thức của một bộ phận giáo viên
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, xứng đáng với kì vọng , tin cậy của xã hội
với sự nghiệp trồng người.
2


CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NHÂN CÁCH
I: LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nhân cách là vấn đề được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Khảo sát các cơng trình khoa học nghiên cứu về nhân cách, chúng ta thấy có
nhiều định nghĩa về nhân cách. Với mỗi ngành khoa học nghiên cứu khoa học
với mỗi cơng trình nghiên cứu , tùy vào u cầu , mục đích nghiên cứu cụ thể ,
các nhà khoa học lại xây dựng một định nghĩa khác nhau về nhân cách.
Tư tưởng về nhân cách đã được Arixtot (384-322 TCN) – nhà triết học cổ
Hi Lạp – Bàn đến khi ông cho rằng , con người là một “ động vật chính trị “
(Joon poltikon) . Ở đây , bước đầu Arixtot đã thấy được vai trò xã hội của giáo
dục tác động đến sự phát triển của con người như là một nhân cách . Đến cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX , hai nhà tâm lí học người Đức - Dilthey và Spanger
mới đưa ra khái niệm nhân cách . Theo các ông, nhân cách là cái mặt nạ có tính
chất xã hội của cái tơi bên trong. Khi nào cái mặt nạ đó trùng với cái tơi thì nhân
cách phát triển chin muồi. Thuật ngữ nhân cách (Personalyti) xuất phát từ tiếng
la tinh cổ đại Persona(cá tính) và tiếng latinh trung cổ personalitas, nghĩa gốc
của từ mặt nạ , chỉ vẻ bề ngoài của cá nhân.
Ngày nay, xã hội ngày càng văn minh , phát triển thì mối quan hệ người
với người ngày càng trở nên phức tạp nên vấn đề yêu cầu về nhân cách tốt, có
đạo đức của mỗi con người là một vấn đề ngày càng được quan tâm , được chú ý
nhiều do vậy đòi hỏi việc nghiên cứu về vấn đề nhân cách cũng ngày càng trở
nên cấp thiết trong nhiều lĩnh vực như kinh tế-chính trị,ngoại giao,giáo dục. Chỉ
khi trong mỗi con người nhận thức hiểu biết rõ về nhân cách thì từ đó mới có thể
phát huy được bản thân và điều chỉnh hành vi của mình sao cho hợp lí , đúng với

chuẩn mực của xã hội .... Đây là vấn đề quan trọng và rất cần thiết trong mối
quan hệ giữa con người với con người ,điều đó địi hỏi chúng ta phải nghiên cứu
sâu hơn trong vấn đề nhà trường với mối quan hệ thầy (cô) giáo với học sinh
THPT để từ đó phần nào đánh giá nhìn nhận được tình hình phát triển nhân cách
3


của thế hệ trẻ .Nhưng điều cần thiết và quan trọng cốt yếu nhất là trước tiên
những người có khả năng hướng dẫn ,chỉ dạy đặc biệt là người giáo viên phải
có một nhân cách tốt , có thể hiểu được tâm lí của từng độ tuổi, hiểu được
nguyên nhân dẫn tới nhiều hành động sai trái của các em , biết quan tâm , chia
sẻ , giúp đỡ động viên các em, phải dạy cho các em thấy được cách dùng tình
yêu thương để bù đắp những sự mất mát , đau thương, biết được dùng bạo lực là
không nên , không nên thờ ơ ,vô cảm khi thấy người gặp hoạn nạn mà không
giúp đỡ … để từ đó bồi đắp cho học sinh nhân cách cao đẹp và tạo ra một thế hệ
có những người có đủ đức , đủ tài để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước và để
lại được cho nhiều thế hệ sau nữa nhiều bài học, nhiều tấm gương về nhân cách
tốt. Bên cạnh những mặt tốt của đa số giáo viên u nghề, có lịng nhiệt huyết ,
quan tâm góp phần phát triển nhân cách của học sinh thì vẫn cịn tồn tại một số
người giáo viên có phương hướng giáo dục nhân cách sai lệch , có những hành
vi , cử chỉ không phù hợp với tư cách của người giáo viên đã gián tiếp “đầu độc”
tâm hồn của học sinh và khiến tạo ra một số suy nghĩ tiêu cực trong người học
sinh về nhân cách của giáo viên từ đó gây ra những định hướng , hành động sai
lệch trong các em. Vì thế chúng ta phải nghiên cứu thật kĩ càng , đi sâu vào tìm
hiểu nhân cách để từ đó góp phần xây dựng, bồi đắp nhân cách , nếp sống tốt
cũng như loại bỏ , giảm bớt được phần nào những suy nghĩ , hành động tiêu cực
trong nhân cách của mỗi con người.
II: TÌM HIỂU CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
1:Khái niệm nhân cách
1.1:Khái niệm con người,cá tính,cá nhân,nhân cách

Con người :là thành viên của cộng đồng,một xã hội,vừa là một thực thể
tự nhiên,vừa là một thực thể xã hội. Có một định nghĩa về con người được thừa
nhận khá rộng rãi là: “Con người là một thực thế sinh vật-xã hội và văn hoá”.
Với quan niệm này cần nghiên cứu tiếp cậncon người theo cả ba mặt: sinh
vật,tâm lí,xã hội.
Cá nhân :khái niệm cá nhân dùng để chỉ một người cụ thể của một cộng
4


đồng,thành viên của xã hội. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật-xã hội và văn
hoá, nhưng được xem xét cụ thể riêng ở từng người với các đăc điểm về sinh
lí,tâm lí và xã hội để phân biệt cá nhân với cá nhân khác trong một cộng đồng.
Cá tính :khái niệm cá tính dùng để chỉ cái đơn chất ,có mottj khơng
hai,khơng lặp lại trong tâm lí( hoặc sinh lí) của cá thể động vật hoặc cá thể(cá
nhân) người.
Nhân cách:khái niệm nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội,tâm lí của cá
nhân với tư cách thành viên của một xã hội nhất định,là chủ thể của các quan hệ
người-người của hoạt động có ý thức và guiao lưu
1.2:Khái niệm nhân cách trong tâm lí học
Có rất nhiềuđịnh nghĩa và quan niệm khác nhau về nhân cách. Ngay từ
năm 1949,G.Allport đã dẫn ra trên 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lí
học về nhân cách
Hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học
tâm lí. Có thể nêu lên một số học thuyêt sau: Thuyết phân tâm của
S.Freud,thuyết siêu đẳng và bù trừ của A.Adler. thuyết lo lắng của K.Horney,
thuyết phát huy bản ngã của A.Maslow. thuyết đặc trưng của G.Allport, thuyết
nhu cầu tâm lí của H.Murray ,thuyếttương tác xã hội của Mead , thuyết cá nhân
của R.Sears, lí thuyết nhân cách của nhà tâm lí học Xơ Viết:
A.N.Lêơnchier,A.V.Pêtrovxki........
Quan điểm sinh vật hoá nhân cách: coi bản chất nhân cách nằm trong

các đặc điểm hình thể (Krestchmev), ở góc mặt (C.Lombrozo) ,ở thể trạng thái
(Sheldon).ở bản năng vô thức (S.Fread)......
Quan điểm xã hội hoá nhân cách lấy các quan hệ xã hội (gia đình ,họ
hàng,hàng xóm...) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lí
của cá nhân
Các nhà tâm lí học khoa học cho rằng khái niệm nhân cách là một phạm
trù xã hội, có bản chất xã hội-lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội
dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc
5


điểm nhân cách của từng người
Có một số định nghĩa về nhân cách như sau:
-

“Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và
đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” (A.G.Côvaliôav)

-

“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang tồn bộ thuộc tính và phẩm chất
tâm lí,qui định của hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội”
(E.V.Sơrơkhơva)
Từ những điều trên ,có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách như sau:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân ,biểu
hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người
Như vậy, nhân cách là sự tổng hoà khống phái các đặc điểm cá thể của
con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên
của xã hội,nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi
cá nhân . Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba

cấp độ: cấp đọ bên trong cá nhân ,cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra
hoạt động và các sản phẩm của nó
2:Các đặc điểm nhân cách
Có thể xem xét nhân cách như một cấu trúc tâm lí ổn định, thống nhất
mang tính tích cực và giao lưu với tư cách là chức năng xã hội , guiá trị xã
hội,cốt cách làm nhân cách của cá nhân . Vì thế người ta thường nói đến 4 đặc
điểm cơ bản của nhân cách như sau:
2.1 Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa
đức và tài của con người. Trong nhân cách có sự thống nhất hài hoà giữa các cấp
độ: Cấp độ bên trong cá nhân ,cấp độ liên cá nhân và cấp đọ siêu cá nhân . Cấp
độ thứ ba xem xét giá trị xã hội của nhân cách ở những hoạt động .ở những mối
quan hệ xã hội mà nhân cách gây nên như biến đổi ở những nhân cách khác.
Chính vì thế các nhà tâm lí học Xơ Viết đã viết “ Nhân cách chỉ có thể trong sự
thống nhất của ba bình diện ( cá nhân,liên cá nhân,siêu cá nhân ) như là sự đại
6


diện lí tưởng của cá nhân trong những cá nhân khác, trong các mối quan hệ của
nóvới cá nhân ấy. Trong chính bản thân nó mhư là một đại diện của cái toàn
thể,được khám phá qua thực tế của xã hội”
Vì thế ,khi đánh giá về nhân cách của bất kỳ một cá nhân nào , chúng ta
cần đánh giá tính thống nhất của nó chứ khơng tách riêng từng nét,từng thc
tính để đánh giá. Khi rèn luyện và hình thành nhân cách phải hồn thiện một
cách đồng bộ, khơng giáo dục nhân cách theo “từng phần”.
Ví dụ: Ở Bác Hồ có sự thống nhất giữa đức và tài......
2.2: Tính ổn định của nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lí tương đối ổn định , tiềm tàng
trong mỗi cá nhân . Những đặc điểm tâm lí nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội của cá
nhân , quy định giá trị xã hội làm người của mỗi cá nhân . Vì thế nhân cách là

cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc đời cộng đồng , biểu hiện trong hoạt
động và mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong xã hội . Vì thế các đặc điểm
nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và cũng khó mất
đi . Trong thực tế từng nét nhân cách(từng thuộc tính,từng phẩm chất) có thể bị
thay đổi do cuộc sống , nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành
một cấu trúc trọn vẹn , tương đối ổn định . Do tính ổn định của nhân cách , khi
đánh giá nhân cách , chỉ đánh giá những phẩm chất hoặc những nét tính cách
khá ổn định của nhân cách . Đồng thời trong quá trình hình thành hay điều chỉnh
nhân cách cần chú ý khơng nóng vội, địi hỏi kết quả nhanh chóng
Ví dụ : Một người nào đó có tính cách rất hay nóng nảy và rất hay qt
mắng trước những chuyện mà người đó khơng vừa lịng và khi người đó muốn
sửa đổi tính cách của mình thì cũng rất khó khăn để có thể thay đổi được.
2.3: Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và gián tiếp , là sản phẩm của xã hội .
Vì thế nhân cách mang tính tích cực . Một cá nhân được thừa nhận là một nhân
cách khi nào anh ta tích cực hoạt động trong những hình thức đa dạng của
nó,nhờ vào việc nhận thức , cải tạo sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo
7


chính bản thân mình . Giá trị đích thực của nhân cách , chức năng xã hội và cốt
cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách các nhà
tâm lí học cũng đã chỉ rõ hệ thống nhu cầu của cộng đồng là nguồn gốc và động
lực chủ yếu của nhân cách . Tính tích cực của nhân cách biểu hiện trong q
trình thỏa mãn các nhu cầu của nó. Con người khơng thỏa mãn bằng các đối
tượng có sẵn mà nhờ công cụ , nhờ lao động con người đã biến đổi, đã sáng tạo
ra các đối tượng làm cho nó phù hợp với nhu cầu của bản thân. Mặt khác con
người tích cực tìm kiếm những cách thức , các phương thức thỏa mãn các nhu
cầu là một quá trình tích cực có mục đích , trong đó con người làm chủ được
những hình thức hoạt động do sự phát triển xã hội quy định nên.

Ví dụ : trong nhân cách của mỗi con người thì có nhận thức và lí trí vì thế
khi nhìn nhận về sự vật , hiện tượng con người có thể nhận biết được mặt tốt của
sự vật , hiện tượng đó để từ đó phát huy , tiếp thu và phát triển hơn nữa cũng
như thấy được mặt xấu để từ đó hạn chế lại và tránh mắc sai lầm.
2.4: Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành , phát triển , tồn tại và thể hiện trong hoạt
động và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác . Nhu cầu giao
lưu được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người gia nhập vào các
quan điểm xã hội , lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội .
Đồng thời cũng qua giao lưu mà con người được đánh giá , được nhìn nhận theo
quan hệ xã hội. Qua giao lưu, con người đóng góp các giá trị phẩm chất nhân
cách của mình cho người khác , cho xã hội. Một nguyên tắc giáo dục cơ bản là
giáo dục bằng tập thể, trong tập thể . Chính nhân cách được hình thành trong
mối quan hệ giao lưu và hoạt động cùng nhau, hoạt động tập thể.
Ví dụ: Tính giao lưu của nhân cách được thể hiện qua hoạt động giao tiếp
khi mình đi học . Khi tiếp xúc , nói chuyện với bạn bè , thầy cơ chúng ta có thể
học hỏi, tiếp thu được thêm các hành động,tính cách tốt như tốt bụng, hòa đồng ,
biết chia sẻ , cảm thơng , giúp đỡ người gặp khó khăn… nhưng bên cạnh đó
cũng có những hành động,tính cách khơng tốt như rủ rê bạn bè uống rượu bia,
8


đánh bài bạc, không giúp đỡ, chia sẻ khi người khác gặp hoạn nạn….
3: BẢN CHẤT CỦA NHÂN CÁCH
Là nhân tính của con người đã được trường phái nhân văn nhấn mạnh .
Đại diện của trường phái này là C.Rơgiơ,A.Matxlau,G.Ơnpooc… những người ở
trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người, đến
những đặc tính riêng của mỗi người , kinh nghiệm của con người . Những nhu
cầu tiếp xúc, tình u, lịng kính trọng đều có tính chất bản năng, đặc trưng cho
giống người.


Nhân cách là dộng cơ tự bảo hành ( G.Ônpooc) , là nhu

cầu(A.Muray), là tương tác xã hội (G.H.Mít) là lo lắng (K.Hoocnay). Những
quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật con người , phủ nhận bản
chất xã hội của nhân cách.
4: Cấu trúc của nhân cách
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc của nhân cách:
-

A.G. Coovaliov cho rằng cấu trúc của nhân cách bao gồm : các q trình tâm lí ,
các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân

-

Có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản : Nhận thức( ban
gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ),tình cảm( rung động , thái độ ) và ý chí
(phẩm chất ý chí ,kĩ năng kĩ xảo ,thói quen).

-

K.K.Platonov nêu lên 4 tiểu cấu trúc của nhân cách như sau :
+ Tiểu cấu trúc của nguồn gốc sinh học (bao gồm khí chất ,giới tính,lứa
tuổi và đơi khi cả những thuộc tính về bệnh lí)
+ Tiểu cấu trúc về đặc điểm của q trình tâm lí ( cảm giác , tri giác ,trí
nhớ,tư duy…)
+ Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm ,tri thức, kĩ năng , kĩ xảo , năng lực…
+ Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách : nhu cầu , hứng thú, lí tưởng, thế giới
quan, niềm tin…
- Quan điểm coi nhân cách gồm 4 nhóm thuộc tính tâm lí điển hình của cá

nhân:
Xu hướng , tính cách, khí chất và năng lực
9


- Quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm 2 mặt thống nhất với nhau là đức
và tài.
Gần đây trong một số tài liệu tâm lí học , các tác giả trong nước cho rằng
nhân cách bao gồm 4 khối (hay 4 bộ phận) sau:
+ Xu hướng của nhân cách
+ Những khả năng của nhân cách
+ Phong cách hành vi của nhân cách
+ Hệ thống “cái tôi” (cái tạo ý thức)- hệ thống điểu chỉnh hành vi của
nhân cách
Tóm lại,cấu trúc nhân cách khá phức tạp , bao gồm nhiều thành tố có mối
quan hệ qua lại chế ước lẫn nhau ,tạo nên một bộ mặt tương đối ổn định nhưng
cũng rất cơ động. Nhờ có cấu trúc nhân cách như vậy mà cá nhân có thể làm chủ
được bản thân, thể hiện tính mềm dẻo,linh hoạt cao với tư cách là chủ thể đầy
sáng tạo.
5: Các kiểu nhân cách
Sự hình thành các kiểu nhân cách khơng chỉ phụ thuộc vào chính bản thân
cá nhân mỗi người mà cịn phụ thuộc vào quan hệ xã hội , lịch sử mà con người
đó sống. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại kiểu nhân cách. Tất cả các
cách phân loại đều chỉ mang tính chất tương đối , vì trên thực tế khơng có người
nào chỉ thuộc về một kiểu nhân cách.
Trên thế giới , các nhà bác học đã từng nghiên cứu mẫu người. Theo
Drucker , một triết gia nhân cách Anh , có thể có:
-

Con người tinh thần , tâm linh


-

Con người trí tuệ

-

Con người kinh tế

-

Con người hùng
5.1: Phân loại nhân cách theo hướng giá trị
Spanger(1882-1963), nhà tâm lí học người Anh, thuộc trường phái tâm lí
học mô tả , căn cứ các định hướng giá trị trong hoạt động sống của cá nhân , cho
10


rằng có 5 kiểu nhân cách sau:
-

Người lí thuyết

-

Người chính trị

-

Người kinh tế


-

Người thẩm mĩ

-

Người vị tha
Spanger mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các biểu hiện đặc trưng của các
loại nhân cách mà chưa được lí giải được sự hòa nhập của các loại nhân cách
vào xã hội cũng như vị trí , vai trị của từng loại nhân cách
Karen Horney (1885-1952) , nhà tâm lí học Mỹ , đại diện của phái phân
tâm học , dựa vào định hướng giá trị trong quan hệ người-người , chia ra 3 kiểu
nhân cách:

-

Kiểu người nhường nhịn(bị áp đảo)

-

Kiểu người cơng kích ( mạnh mẽ)

-

Kiểu người hờ hững(lạnh lùng)
5.2: Phân loại nhân cách qua giao tiếp
Căn cứ vào thái đọ học tập của sinh viên , một số tác giả (G.Davit
Goottolit và Khôtkinơ đã nêu lên 4 nhân cách sinh viên như sau:
Kiểu W : Đó là những sinh viên học tập nhằm mục đích chuẩn bị cho

nghề nghiệp tương lai , học có thể hành nghề khi ra trường, họ ít quan tâm tới
các lĩnh vực tri thức và hoạt động chung
Kiểu X : Gồm những sinh viên chỉ lao vào học những môn học mà họ cho
là sẽ cung cấp những tri thức và kinh nghiệm về cuộc sống nói chung, họ khơng
quan tâm tới việc tham gia các cơng việc xã hội, ngồi việc họp hành trong các
tổ chức sinh viên
Kiểu Y : Gồm những sinh viên cố gắng đạt kết quả cao trong học tập ,
nhưng cũng tích cực tham gia các hoạt động chung , coi tập thể sinh viên có ý
nghĩa nhất định đối với sự phát triển của bản thân
Kiểu F : Những sinh viên thuộc kiểu này thường quan tâm tới các hoạt
11


động xã hội ở trường đại học hơn là bản than các mơn khoa học , nghề nghiệp.
Tóm lại, vấn đề các kiểu nhân cách xã hội nói chung của con người và
kiểu nhân cách của sinh viên là vấn đề phức tạp và đang có nhiều quan điểm
khác nhau. Mỗi cách phân loại kiểu nhân cách dựa trên một tiêu chí cụ thể , song
trên thực tế khơng có cá nhân nào chỉ thuộc về một kiểu nhân cách ổn định.
6: Sự hình thành và phát triển nhân cách
6.1: các yếu tố chi phối sự hình thành nhân cách
Nhân cách khơng có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy
mà nhân cách là cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển trong q trình
sống – giao tiếp , vui chơi,học tập, lao động… Như V.I.Lênin đã khẳng định : “
Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lí , đạo đức của xã hội mà nó là
thành viên” . Nhà tâm lí học Xơ Viết nổi tiếng A.N.Lêơnchiev cũng chi ra rằng :
nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và phát triển theo con
đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm ,từ các quan hệ với thế giới tự nhiên ,
thế giới đồ vật , nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các qua hệ xã hội
mà nó gắn bó
Trong quá trình hình thành nhân cách giáo dục , hoạt động giao lưu và tập

thể có vai trị quyết định.
6.1.1: Giáo dục và nhân cách
Giáo dục là hiện tượng xã hội , là q trình tác động có mục đích , có kế
hoạch, ảnh hưởng tự giác chủ động đến con người đưa đến sự hình thành và phát
triển tâm lí, ý thức , nhân cách
Theo nghĩa rộng, giáo dục là tồn bộ tác động của gia đình , nhà trường,
xã hội bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con người. Theo
nghĩa hẹp thì giáo dục có thể xem như là q trình tác động đến tư tưởng, đạo
đức,hành vi của con người ( giáo dục là đạo đức , giáo dục là lao động, giáo dục
là hành vi , lối sống…)
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trị chủ
đạo , điều đó được thể hiện như sau :
12


-

Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách vì
giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định , hình thành một mẫu người
cụ thể cho xã hội – một mô hình nhân cách phát triển , đáp ứng những yêu cầu
của cuộc sống
Ví dụ : Khi chúng ta đến trường để học tập thì thầy (cơ) giáo sẽ dạy cho
chúng ta những điều hay, lẽ phải , góp phần giúp chúng ta nhận thức được đâu là
đúng, đâu là sai, những việc nào nên làm , những việc nào không nên làm để từ
đó giúp chúng ta phần nào nhận thức , phân biệt đúng sai và có sự phát triển
nhân cách một cách đúng đắn nhất.

-

Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau nền văn hóa – lịch sử

để tạo nên nhân cách của mình( qua các mặt nội dung giáo dục )
Ví dụ : Khi chúng ta đi học thì được học mơn lịch sử, qua đó chúng ta đã
thấy được cơng lao to lớn và sự hi sinh dũng cảm của ông cha ta để từ đó tạo nên
trong chúng ta lịng yêu nước, yêu quê hương sâu sắc và biết ơn những người đã
có cơng bảo vệ , xây dựng đất nước được như ngày hôm nay.

-

Giáo dục đưa con người , đưa thế hệ trẻ vào “ vùng phát triển gần” , vươn tới
những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo ra cho thế hệ trẻ một sự phát triển nhanh,
mạnh , hướng về tương lai

-

Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự
hình thành nhân cách như các yếu tó thể chất (bẩm sinh di truyền) , yếu tố hoàn
cảnh sống , yếu tố xã hội, đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt , hạn chế cho
yếu tố trên sinh ra ( như người bị khuyết tật , bị bệnh hoặc có hồn cảnh khơng
thuận lợi )
Ví dụ : Đã có nhiều trường học xây dựng dành riêng cho những người có
năng khiếu về âm nhạc , hội họa để từ đó giúp các em rèn luyện , bồi dưỡng,
phát huy năng khiếu sở trường năng khiếu của mình đồng thời thơng qua đó
cũng bù đắp những thiếu hụt , hạn chế do các yếu tố khác gây ra như có những
chương trình giáo dục đặc biệt cho trẻ em khuyết tật, dạy chữ nổi , kí hiệu bằng
tay hay có chính sách ưu đãi dành cho những người gặp khó khăn …
13


-


Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch về mặt nào đó so với chuẩn mực do tác
động tự phát của mơi trường nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong
muốn của xã hội(giáo dục lại)
Ví dụ: Xây dựng các trại cải tạo nhằm giáo dục trẻ vị thành niên hư
hỏng,có những hành động sai trái nghiêm trọng…
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách, song khơng nên tuyệt đối hóa vai trị của giáo dục, giáo dục khơng phải là
vạn năng , cần phải tiến hành giáo dục trong mỗi quan hệ hữu cơ với việc tổ
chức hoạt động , tổ chức quan hệ giao tiếp , hoạt động cùng nhau trong các mối
quan hệ xã hội , quan hệ nhóm và tập thể. Giáo dục khơng thể tách rời với tự
giáo dục , tự rèn luyện , tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
6.1.2: Hoạt động nhân cách
- Hoạt động là phương thức tồn tại của con người , là nhân tố quyết định
trực tiếp hình thành và phát triển nhân cách . Hoạt động của con người là hoạt
động có mục đích, mang tính chất xã hội , mang tính cộng đồng, được thực hiện
bằng những thao tác nhất định với mỗi công cụ nhất định
Ví dụ : Khi tham gia giao thơng trên đường khi gặp đèn đỏ thì người tham
gia điều khiển phương tiện giao thông phải dừng lại. Tuy nhiên vẫn có những
người cố tình vượt đèn đỏ và họ sẽ bị cảnh sát giao thông phạt vi phạm hoặc gây
ra những hậu quả lien quan đến thân thể,tính mạng của người khác.. Từ đó ta ý
thức được rằng phải tuân thủ theo đúng pháp luật.
- Thơng qua hai q trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động
mà nhân cách được bộc lộ và hình thành . Con người lĩnh hội kinh nghiệm của
xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách . Mặt khác
cũng thông qua hoạt động con người xuất hiện tâm “lực lượng bản chất”( sức
mạnh của thần kinh,cơ bắp , trí tuệ, năng lực …) và xã hội , “ tạo nên sự đại diện
nhân cách của mình” ở người khác trong xã hội
- Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người phụ thuộc vào hoạt
động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định . Muốn hình thành nhân cách , con người
14



phải tham gia vào các hoạt động khác, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của
hoạt động chủ đạo . Vì thế phải lựa chọn , tổ chức và hướng dẫn các hoạt động
đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển
nhân cách . Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân
cách . Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá giúp con người thấm
nhuần những chuẩn mực , những biểu giá trị xã hội trở thành lương tâm con
người
Tóm lại , hoạt động có vai trị quyết định trực tiếp sự hình thành và phát
triển nhân cách , nên trong cơng tác giáo dục cần chú ý làm thay đổi phong phú
nội dung , hình thức , cách tổ chức hoạt động sao cho lôi cuốn thực sự cá nhân
tham gia tích cực , tự giác vào các hoạt động đó . Hoạt động của con người ln
mang tính xã hội, tính cộng đồng , nghĩa là hoạt động ln đi với giao tiếp . Do
đó đương nhiên giao tiếp là một nhân tố cơ bản trong sự hình thành phát triển
nhân cách
6.1.3 : Giao tiếp và nhân cách
Nhà tâm lí học Xô Viết nổi tiếng B.Ph. Lomôv cho rằng : “ Khi chúng ta
nghiên cứu lối sống của một cá nhân cụ thể , chúng ta không thể chỉ giới hạn ở
sự phân tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà cịn phải nghiên cứu xem nó
giao tiếp với ai và như thế nào”. Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng , giao
tiếp có một vai trị cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
-

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp
là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản , xuất hiện sớm nhất ở con người .
C.Mác đã chỉ ra rằng: “ sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát
triển của tất cả cá nhân khác và nó giao lưu một cách trực tiếp và gián tiếp của
họ”
Thực tế chứng minh những trường hợp trẻ con do động vật ni đã mất

bản tính người , mất nhân cách và chỉ còn lại những đặc điểm tâm lí , hành vi
của con vật. đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cho rằng sự giao tiếp hạn chế ,
nghèo nàn đã dẫn đến những hiệu quả nặng nề là dễ mắc bệnh “đói giao lưu do
15


nằm viện lâu ngày” ( hospitalism).
-

Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội , lĩnh hội nền văn hóa
xã hội, chuẩn mực xã hội “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất con
người , đồng thời thong qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào
kho tang chung của nhân loại, xã hội

-

Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác , nhận thức các quan
hệ xã hội , mà nhận thức cịn được chính bản than mình, tự đối chiếu so sánh với
người khác , với chuẩn mực xã hội , tự đánh giá bản than mình như là một nhân
cách để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất định đối với bản than . Hay
nói khác đi , quan hệ giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức .
Ví dụ : Khi đang cịn học ở các trường tiểu học, trung học, trung học phổ
thơng thì hầu hết chúng ta đều có những thói quen xấu như cẩu thả, luộm
thuộm…vì khi đó chúng ta vẫn đang cịn sống với bố mẹ , phụ thuộc vào bố mẹ
nhưng khi bước vào đại học, phải sống xa gia đình,xa bố mẹ , phải tự lập, ở cùng
với bạn bè mới, được tiếp xúc với những con người mới , nền giáo dục mới và
chúng ta sẽ nhận thấy thói quen của mình trước kia là khơng tốt . Chính vì vậy ta
ý thức được cần phải phải thay đổi những thói hư, tật xấu trước kia và từ đó góp
phần hồn thiện nhân cách của mình.
Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người- người ,

là một nhân tố cơ bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức , ý thức , nhân
cách. Song hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra ở trong cộng
đồng , trong nhóm và tập thể.
6.1.4: Tập thể và nhân cách
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong mơi trường xã
hội . song con người lớn lên và trở thành có nhân cách khơng phải là trong mơi
trường xã hội trừu tượng , chung chung , mà trong môi trường xã hội cụ thể là :
gia đình , làng xóm , quê hương , khu phố, là các nhóm , cộng đồng và tập thể
mà nó là thành viên . Gia đình là nhóm cơ sở , là cái nơi đầu tiên mà nhân cách
con người được hình thành từ ấu thơ . Con người là thành viên của các nhóm
16


nhỏ: nhóm chính thức , nhóm khơng chính thức, nhóm thực và nhóm quy ước.
Các nhóm nhỏ như gia đình , nhóm bạn than, lớp họp, tổ cơng tác… Có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Các nhóm có thể đạt
tới trình độ phát triển cao được gọi là tập thể . Tập thể là một nhóm người , một
bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung , phục tùng các
mục đích xã hội.
Nhóm và tập thể có vai trị to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân
cách. Trong nhóm và tập thể diễn ra các hình thức hoạt động đa dạnh , phong
phú (vui chi,hoạt động , học tập , lao động ,hoạt động xã hội ) và các mối quan
hệ giao tiếp giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm.
Ảnh hưởng của xã hội , các mối quan hệ xã hội thong qua các nhóm tát động
đến từng người. Ngược lại , mỗi nhân cách tác động đến cộng đồng , tới xã hội ,
tới cá nhân khác cũng thong qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là thành
viên . Tác động của tập thể đến nhân cách thơng qua các tổ chức nhóm và tập
thể mà nó là thành viên. Tác động của tập thể đến nhân cách thong qua hoạt
động tập thể , dư luận tập thể , truyền thống tập thể , bầu khơng khí tâm lí của
tập thể .

Ví dụ + Là một thành viên trong tập thể lớp , thông qua các quá trình học
tập , tham gia các hoạt động của trường lớp , ta thấy rằng cần phải học tập
những đức tính tốt như siêng năng, chăm chỉ,cần cù, ham học hỏi…và tránh xa
các thói quen xấu như : ăn chơi , đua địi , vơ lễ với người lớn, giáo viên…
+ Trong các buổi sinh hoạt lớp chúng ta có quyền được phát biểu những ý
kiến của mình cũng như lắng nghe những lời đánh giá , nhận xét của người khác
về bản than mình để từ đó sửa đổi những mặt còn chưa tốt , phát huy những thế
mạnh đồng thời hướng nhân cách tới sự chuẩn mực.
Tóm lại, bốn nhân tố : giáo dục,hoạt động, giao tiếp và tập thể tác động
đan xen nhau, bổ sung , hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân
cách

17


6.2: Sự hoàn thiện nhân cách
Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội , dưới tác
động chủ đạo của giá dục , sẽ dẫn tới việc hình thành một cấu trúc nhân cách
tương đối ổn định và đạt một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống ,
nhân cách tiếp tục biến đổi và hồn thiện dần thơng qua việc cá nhân tự ý
thức,tự rèn luyện , tự giáo dục , tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ
phát triển cao hơn , đáp ứng những yêu cầu hang ngày của cuộc sống, của xã
hội. Cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những nét nhân
cách so vứi chuẩn mực chung , thang giá trị chung của xã hội , có thể đưa đến sự
phân li , suy thối nhân cách địi hỏi cá nhân phải tự điều khiển , tự điều chỉnh ,
tự rèn luyện theo những chuẩn mực chân chính , phù hợp với quy luật khách
quan của xã hội để tự điều khiển , tự điều chỉnh nhân cách của mình. Vì thế vai
trị của giáo dục, tự rèn luyện có ý nghĩa đặc biệt trong việc hồn thiện nhân
cách.
Ví dụ: Một người đã quen với cuộc sống trong rừng quen với thói chạy

nhảy , săn bắt và khi người đó chuyển tới thành phố để sống khi đó người đó
muốn thây đổi bản tính thì cần mất một thời gian dài và đó cũng là điều rất khó
khăn.

18


NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN
TÌM HIỂU VỀ NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
Trong hoạt động dạy học và giáo dục, nhà trường dùng kỷ cương để rèn
luyện kỷ luật cho học sinh; thầy giáo dùng nhân cách của mình để tác động vào
tâm hồn của học sinh. Nhân cách của người thầy giáo biểu hiện ở nhiều mặt. Đó
là lịng yêu mến học sinh, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp,
là lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp của người thầy giáo. Tất cả những
yếu tố đó chỉ có ở nhân cách của người thầy giáo mà khơng có kỷ cương nào của
nhà trường hay sách vở có thể thay thế được.
Nhà trường ln ln có những kỷ cương, kỷ luật và qui chế khen thưởng,
trách phạt học sinh. Sách giáo khoa ln có những lời hay ý đẹp trang bị cho học
sinh… nhưng tất cả những thứ đó chỉ là nên tảng, là công cụ của giáo dục trong
việc giáo dục nhân cách học sinh của người thầy giáo. Kỷ cương, pháp luật chỉ
tạo cho học sinh có tính kỷ luật. Sách giáo khoa trang bị cho học sinh kiến thức
nhưng nhân cách người thầy chính là nhân tố quyết định nhân cách của học sinh.
Đó chính là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách.
Dạy học là nghề đào tạo con người là nghề lao động nghiêm túc và vô
cùng gian nan. Giáo viên là người ươm mầm nhân cách học sinh. Công cụ chủ
yếu của giáo dục là nhân cách của người giáo viên, cho nên nghề giáo đòi hỏi
giáo viên về những phẩm chất đạo đức và năng lực chun mơn rất cao. Nó bao
gồm kiến thức chun mơn vững chắc và cuộc sống chân chính, nghiêm túc và
phải ln có ý thức nâng cao kiến thức và kỹ năng sống cho bản thân mình.
Người làm cơng tác giảng dạy phải luôn luôn nâng cao kiến thức để truyền đạt

cho học sinh. Chỉ khi có nhân cách tốt thì người giáo viên mới có thể hồn tốt
được nhiệm vụ giảng dạy, chỉ khi người giáo viên biết lắng nghe , quan tâm ,
chia sẻ , phương pháp giáo dục đúng cách thì mới có thể đào tạo được một thế
hệ có năng lực và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.

19


I: Nhân cách người giáo viên
Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo
nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người. Như vậy có thể hiểu rằng nhân
cách là một hệ thống bao gồm phẩm chất và năng lực hay nói cách khác là cái
đức và cái tài.
Trong phẩm chất của người thầy giáo, trước hết phải có năng lực chun
mơn. Đó là trình độ học vần của người thầy. Nó được hình thành qua q trình
học tập, rèn luyện và sự từng trải trong cuộc sống trước những biến động của
các yếu tố khách quan như trình độ khoa học kỷ thuật, mơi trường sống,… Vì
khi người giáo viên có năng lực , trình độ thì người giáo viên mới có thể dạy
dỗ , đào tạo được đội ngũ học sinh tốt, kiến thức của thầy là nền tảng để từ đó
hướng dẫn , truyền đạt cho học sinh được những kinh nghiệm, kiến thức . Khi có
năng lực thì thầy mới có thể giúp học sinh lí giải những thắc mắc và giải quyết
được những bài tập khó mà học sinh chưa biết hoặc chưa rõ cách làm.
Yếu tố thứ hai đóng vai trị hạt nhân trong cấu trúc phẩm chất người thầy
giáo là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Lý tưởng của giáo viên có ảnh hưởng sâu sắc
đến việc hình thành nhân cách học sinh và nó biểu hiện bằng lịng say mê nghề
nghiệp, lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy với học sinh, với cơng việc, tác
phong làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm và lối sống giản dị, chân tình.
Những điều này sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp trong tâm trí người học sinh; chúng có
tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách học
sinh. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ không phải là cái có sẵn mà người giáo viên

phải rèn luyện tích cực mới có được rồi qua đó, nhận thức của người thầy về
ngệp càng được nâng cao lên, tình cảm nghề nghiệp càng tăng lên. Người giáo
viên không phải chỉ dạy cho học sinh kiến thức những định lí , định nghĩa… từ
trong sách vở mà còn phải định hướng cho học sinh có lí tưởng trong cuộc sống,
biết sống có mục đích , khơng từ bỏ ước mơ , phải biết cố gắng tự mình phấn
đấu vì tương lai tự lập , giúp các em định hướng được ước mơ từ khi còn đang
ngồi trên ghế nhà trường hướng các em tới sự tự lập, ln sống với chính bản
20


thân mình và khơng bao giờ từ bỏ ước mơ mà mình khát vọng đạt được và nhất
định phải định hướng từ nhỏ để các em định hướng mục đích phấn đấu khi
không quá muộn.
Yếu tố thứ ba của phẩm chất giáo viên là lịng u học sinh. Đó là sự u
thương, tận tình và ân cần với học trị. Yếu tố này khơng có tài liệu sách vở hay
kỷ cương nào có được mà duy nhật chỉ có ở người giáo viên. Với một nhà giáo
dục, điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu sắc nhất trong con người. Có
lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình
người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng.
Người giáo viên sẽ khơng có thái độ phân biệt trong cách đối xử giữa học trị
thơng minh và học trị chậm hiểu mà quan tâm một cách thiện ý đến học trò, tuy
nhiên điều đó khơng có nghĩa là người thầy thiếu nghiêm khắc, không tạo động
lực cho học sinh phấn đấu học tập. Lịng u học trị ln đan lồng và gắn bó
chặt chẽ với lịng u nghề. Có thể nói, nhà giáo chỉ yêu nghề khi còn biết yêu
thương những người học trị của mình, bởi từ tình u thương lớn lao dành cho
học trò, cho nghề nghiệp, người giáo viên mới có động lực để ln phấn đấu, rèn
luyện. Để đạt được thành tích trong cơng tác giáo dục, người thầy giáo phải có
một phẩm chất mà đó là lịng u thương học trị. Người thầy giáo có tình u
trong công việc là đủ cho họ trở thành giáo viên tốt. Mối quan hệ thầy và trị
đóng một vai trị quan trọng trong công việc giáo dục học sinh của giáo viên.

Nội dung, tính chất và các xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng dạy học. Một học sinh không thể nào tôn trọng, khâm phục hay học hỏi
được gì tốt đẹp khi người thầy có những biểu hiện khơng đứng đắn về mặt nhân
cách hay yếu kém về mặt chuyên môn. Người thầy như một tấm gương để học
sinh soi vào đó, khám phá những điều mình chưa biết và phấn đấu hồn thiện
bản thân mình. Để có thể là tấm gương sáng cho học sinh, người thầy giáo phải
tích cực rèn luyện chuyên mơn, phải sống đúng mực, chân tình, cơng bằng,
khiêm tốn, phải biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu của bản thân và có
những kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống
21


sư phạm.
Nhân cách người thầy còn thể hiện ở năng lực sư phạm. Năng lực sư
phạm của người giáo viên thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau mà trước hết
là năng lực hiểu học sinh, khả năng hòa nhập và đứng vào vị trí của người học
sinh. Một thầy giáo có năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bị bài giảng đã tính đến
trình độ học vấn của học sinh và bằng khả năng quan sát tinh tế của mình, thầy
giáo sẽ biết được khả năng thẩm thấu nội dung bài giảng của nhiều đối tượng
học sinh, và do vậy, khi đứng trên bục giảng, người thầy biết đặt mình vào vị trí
người học, họ biết được khối lượng kiến thức cần phải truyền đạt và qua đó họ
sáng tạo ra những cách trình bày, những phương pháp giảng dạy sao cho hiệu
quả nhất. Do vậy, tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên hết sức quan
trọng trong việc tác động đến nhân cách học sinh. Và như thế, người thầy phải
biết luôn bổ sung vào vốn kiến thức chuyên môn cũng như kiến thức về thực tế
cuộc sống để dẫn dắt học sinh. Trong năng lực sư phạm của người giáo viên,
không thể không kể đến năng lực chế biến tài liệu học tập. Bằng óc sáng tạo và
khả năng phân tích, hệ thống, tổng hợp kiến thức từ kho tàng tài liệu, giáo viên
phải làm công tác “gia công” tài liệu học tập sao cho phù hợp với đối tượng học
sinh của mình. Ngồi ra, thầy giáo phải nắm vững kỹ thuật dạy học chứ khơng

đơn giản chỉ là cái máy rót chữ vào tai học sinh. Một yếu tố quan trọng nữa
là năng lực ngơn ngữ của người giáo viên. Có thể nói, một giáo viên không thể
nào thực hiện được công tác giảng dạy nếu người đó gặp vấn đề về ngơn ngữ
như nói lắp, nói ngọng, thiếu khả năng biểu đạt hoặc dùng ngôn từ không trong
sáng, không logic, không sinh động. Người giáo viên nào biết khai thác thế
mạnh của ngôn từ trong công tác giảng dạy sẽ luôn lôi cuốn học sinh, sẽ giúp
học sinh hiểu bài nhanh hơn và hứng thú với môn học. Năng lực ngôn ngữ cũng
tham gia vào năng lực giao tiếp sư phạm của người giáo viên – một q trình địi
hỏi người thầy kỹ năng định hướng, định vị, kỹ năng sử dụng phương tiện giao
tiếp và kỹ năng làm chủ xúc cảm bản thân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người
giáo viên phải ý thức rằng mình là một tấm gương cho học sinh soi vào, để các
22


em trở nên tốt hơn. Tóm lại, cả về mặt kiến thức hay cách ứng xử trong cuộc
sống hằng ngày, người giáo viên luôn là ánh sáng dẫn đường cho học sinh.
Với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và sự lớn mạnh của kỷ
cương nhà trường thậm chí nhiều đề án sử dụng máy tính thay vào vị trí của
người thầy và dường như tất cả đều vơ vọng. Bởi chỉ có tấm lịng mới cảm hóa
được tấm lịng, nhân cách mới giáo dục được nhân cách, máy móc thiết bị chỉ có
thể trang bị cho học sinh kiến thức, kỷ cương chỉ rèn luyện học sinh có khn
khổ nhưng nhân cách mới giáo dục học sinh thành người. Và nhân cách chỉ có ở
trong con người. Bác Hồ đã từng dạy “Có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”, khó chứ khơng phải là
không làm được khác hẳn với vô dụng
II : Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện nhân cách người giáo viên
Cần thiết xây dựng và hoàn thiện nhân cách người giáo viên do :
1.

Sản phẩm lao động của người giáo viên là nhân cách của học sinh do

những yêu cầu khách quan của xã hội quy định: Sản phẩm nhân cách học
sinh là kết quả tổng thể của cả giáo viên lẫn học sinh nhằm biến đổi những tinh
hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng - sự phát triển tâm lí của trị. Sự
phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương
ứng trong nhân cách người giáo viên sẽ tạo nên chất lượng cao của sản phẩm
giáo dục.
2. Giáo viên là người quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục : Trình độ
tư tưởng , phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển tư duy độc lập ,
sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa ,
cũng không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh mà còn phụ thuộc vào người
giáo viên , vào phẩm chất chính trị , trình độ chun mơn và khả năng tay nghề
của nhân vật chủ đạo trong nhà trường.
3. Giáo viên là cái “dấu nối” giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với việc
tái tạo nền văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ :
- Nền văn hóa của nhân loại , của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển
23


thơng qua sự lĩnh hội nền văn hóa của thế hệ trẻ . Tuổi trẻ khơng làm được việc
đó mà phải huấn luyện theo phương thức đặc biệt là nhà trường thơng qua vai
trị của người giáo viên.
- Tri thức khoa học là phương tiện hoạt động dạy của người giáo viên,
đồng thời là mục đích hoạt động học của trò. Trò hoạt động theo sự tổ chức và
điều khiển của giáo viên để tái sản xuất nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc,
tạo ra sự phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những năng lực mới mang tính
con người .
- Giáo viên đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình tự giáo
dục của trị. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm
nên sản phẩm giáo dục nhân cách.
- Sứ mạng trên của người giáo viên thật vẻ vang , nhưng công việc không

đơn giản , khơng mang tính lặp lại , nó phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường
mà loài người đã đi qua khi phát hiện ra những tri thức khoa học phải dựa trên
cơ sở của những thành tựu tâm lí học ,giáo dục học hiện đại, đồng thời phải am
hiểu đầy đủ đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí tuệ và
đạo đức.
- Cơng việc đó địi hỏi một q trình học tập lí luận nghiêm túc, trau dồi
chun mơn, rèn luyện tay nghề…
III: Những phẩm chất nhân cách cần có ở người giáo viên
Yêu cầu về nhân cách người giáo viên không chỉ về những yêu cầu ở mặt
phẩm chất mà còn cả năng lực
Như K.D. Usinxki đã có nói : “Khơng cịn nghi ngờ gì chất lượng giáo
dục phụ thuộc rất lớn vào khơng khí chung của nhà trường, nhưng điều quan
trọng hơn cả vẫn là ở nhân cách người giáo viên, con người thường xuyên tiếp
xúc với trẻ. Ảnh hưởng nhân cách của người giáo viên lên tâm hồn trẻ tạo nên
một sức mạnh giáo dục to lớn mà sách giáo khoa, các lời thuyết giáo đạo đức,
khen thưởng và trách phạt khơng thể thay thế được” do đó người giáo viên cần
có yêu cầu về phẩm chất và năng lực sau:
24


+ Trước hết người giáo viên phải hiểu và nắm rõ chung về nhân cách
+ Người giáo viên phải thiết tha, hứng thú với nghề nghiệp; yêu mến, tôn
trọng , là tấm gương hằng ngày đối với học sinh. Lòng yêu nghề là động lực
giúp cho người giáo viên gắn bó với học sinh biểu hiện ở tấm lịng nhân hậu, vị
tha, công bằng, tế nhị và chu đáo với học sinh. Đây là yếu tố quyết định đối với
hoạt động sư phạm của người giáo viên.
+ Người giáo viên cần có ý chí cao, tính tình cởi mở, cứng rắn nhưng lại
kiên nhẫn và biết tự kiềm chế.
+ Người giáo viên cần có tinh thần trách nhiệm cao thể hiện ở sự quan
tâm, chăm sóc, giáo dục học sinh và thường xun có ý thức học hỏi để khơng

ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và hồn thiện bản thân.
+ Người giáo viên cần phải có những kiến thức và những kỹ năng cần
thiết:
- Hiểu biết về học vấn phổ thông.
- Hiểu biết đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng mình đang giảng dạy
+ Người giáo viên cần có năng lực tổ chức cuộc sống và các hoạt động
chăm sóc, giáo dục học sinh một cách linh hoạt, sáng tạo.
+ Người giáo viên cần phải có khả năng khéo léo trong xử sư phạm.
+ Người giáo viên phải có năng lực kết hợp việc chăm sóc, giáo dục học
sinh ở gia đình và xã hội vì lợi ích sự nghiệp giáo dục
+ Người giáo viên cần có năng lực tự kiểm tra hoạt động giáo dục của
mình và đồng nghiệp để rút kinh nghiệm và học tập nhằm nâng cao hiệu quả
giảng dạy
+ Người giáo viên cần có sức khỏe tốt, cần có ngoại hình tương đối, lịch
sự trong cách ăn mặc,đầu tóc
IV: Thực trạng của nhân cách người giáo viên hiện nay
Từ xa xưa, đã có rất nhiều người giáo viên đã mang cả tâm huyết , sức lực
cả đời mình để cống hiến cho ngành giáo dục với mục đích truyền đạt những
kinh nghiệm , những điều hay, lẽ phải từ đó đào tạo ra những con người , nhân
25


×