Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

nhân cách của người thầy giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.23 KB, 40 trang )

Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Con người là nguồn lực cơ bản tạo ra mọi nguồn lực khác, con người với tư
cách là chủ thể của mọi sự sáng tạo, mọi của cải vật chất và văn hố, chủ thể xây
dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực
xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Đối với Giáo Dục- Đào Tạo đội ngũ giáo viên là lực lượng chính thực hiện
mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
‘‘khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục”. Trong xã hội hiện đại vai trò của
người thầy được đánh giá ở cách nhìn mới và tầm cao mới. Luật giáo dục 2005 đã
khẳng định: ‘‘ nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo
dục”.
Chỉ thị 40-CT/TW của ban bí thư về việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lí giáo dục đã xác định phát triển Giáo dục- Đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện
đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Trong lịch sử đất
nước ta ‘‘ Tôn sư trọng đạo” là truyền thống quý báu của dân tộc ta, nhà giáo bao
giờ cũng được nhân dân yêu mến, kính trọng.
Những năm qua, chúng ta xây dựng đội ngũ nhà giáo ngày càng đơng đảo, có
phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ ngày
càng được nâng cao. Đội ngũ nhà giáo đã đáp ứng được cơ bản yêu cầu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, trước tình hình mới của sự nghiệp phát triển, đội ngũ
nhà giáo còn nhiều bất cập hạn chế, chất lượng chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp
ứng được yêu cầu.


Trong quá trình Hội nhập quốc tế, vừa hội nhập vừa bảo vệ độc lập chủ
quyền theo đúng định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, chúng ta cần phải thấm nhuần tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý nghĩa to lớn của sự nghiệp đào tạo các thế hệ
cán bộ cho cách mạng ngày nay. Giáo dục đang chịu sự tác động của cải cách giáo


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
dục mang tính quốc tế, thực hiện trong tinh thần mang tính khuyến nhị của
UNESCO, xây dựng nền giáo dục thế kỷ XXI với các mục tiêu: ‘‘Học để biết, học
để làm, học để chung sống, học để làm người”, mọi người đều có cơ hội ‘‘học tập
suốt đời” trongmơ hình xã hội học tập. Điều này tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ‘‘
sự học hỏi là một công việc phải tiếp tục suốt đời”. Một người cách mạng hoạt
dộng cho đến phút cuối cùng. Mục tiêu, yêu cầu, nội dung giáo dục đã có nhiều
thay đổi, địi hỏi phẩm chất đạo đức, tư tưởng lối sống, năng lực nghiệp vụ của nhà
giáo rất cao. Trong nền giáo dục, vai trị của nhà giáo có ý nghĩa quyết định nhằm
giáo dục thế hệ trẻ có thái độ đúng đắn, đủ bản lĩnh đối mặt với các thách thức.
Thấy giáo là người quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển
nhân các, đến chất lượng đào tạo, trong trường học người trực tiếp thực hiện quan
điểm giáo dục của Đảng, người quyết đinh ‘‘phương hướng giảng dạy”, ‘‘ lực
lượng cốt cán trong sự nghiệp giáo dục văn hố” là người thầy giáo.
Trình độ tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, trình đọ học vấn và sự phát triển tư
duy độc lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh mà
còn phụ thuộc vào người thầy giáo, và phẩm chất chính trị, trình đọ chuyên môn và
khả năng tay nghề của ‘‘nhân vật chủ đạo” trong nhà trường. Vì vậy, chất lượng
giáo dục phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ người thầy giáo và nhân cách của ông ta.
Trên đường phát triển của giáo dục dù xuất hiện các phương tiện kỹ thuật dạy học
hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì cũng khơng thể thay đổi vai trị của người thầy

giáo, bởi vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người mà
có, khơng một điều lệ, chương trình, khơng một cơ quan giáo dục nào có được, tạo
ra một cách có khơn kh như thế nào sũng không thể thay thế được nhân cách của
con người trong sự nghiệp giáo dục. ‘‘Không một sách giáo khoa nào, một lời
khuyên răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá
nhân người thầy giáo đối với học sinh”( K.P.usintk Toàn tập, tập I, NXB Viện khoa
học giáo dục CHLB Nga, 1948, trang63).
Ngày nay xã hội công nhận và tôn vinh chức năng của người thầy giáo thì
vấn đề trau dồi, hồn thiện nhân cách nhà giáo là một yêu cầu cấp thiết, nhất là khi
kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế ln tạo ra những mặt trái của nó.


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh

II. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu truyền thống đạo đức của nhà giáo Việt Nam.
- Tìm hiểu những yêu cầu của xã hội đối với nhân cách của người thầy giáo
trong thời đại ngày nay.
- Đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao nhận thức về đặc điểm nhân cách
trong hoạt động của người thầy giáo.
III. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu rõ hơn về nhân cách thấy giáo trong thời đại
mới, những yêu cầu của xã hội mới đối với giáo viên. Đồng thời qua đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao trau dồi, và nâng cao năng lực, phẩm chất nhà giáo
đáp ứng nhu cầu đất nước trong sự nghiệp cơng nghiệp hố- hiện đại hố, hội nhập
kinh tế quốc tế.



Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh

Phần II. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm chung.
1. Khái niệm về giáo viên, nhà giáo:
Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc
các cơ sở giáo dục khác( Luật giáo dục 2005-NXB Giáo dục chính trị quốc gia
2006)
Giáo viên là người làm cơng tác dạy học giáo dục, người trực tiếp biến các
chủ trương, cải cách đổi mới giáo dục thành hiện thực.
2. Nhân cách
2.1. Khái niệm
Trong từ điển tiếng Anh từ ‘‘personnality” có nghĩa là:
1. Nhân cách, nhân phẩm, cá tính
2. Người, nhân vật, cá nhân
Trong từ điển Nga – Việt, từ ‘‘litrnost” có nghĩa là:
1.Nhân cách, nhân phẩm, cá tính, con người, nhân vật
2. Cá nhân
Thực tế cho thấy, vấn đề nhân cách rất được nhiều người quan tâm và nghiên
cứu. Chính vì vấn đề nhân cách trên cả mặt lý luận, thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải
hiểu đúng khái niệm nhân cách. Trong Chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề nhân cách đã
được Cacmac-P.Enghen-V.Lênin đề cập đến ở nhiều tác phẩm. Khi phê phán
Phơbach, Cacmac viết: ‘‘Phơbach quy bản chất tôn giáo vè bản chất con người,
song bản chất con người khơng phải cái trừu tượng vốn có của mỗi một cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội”.

Cách hiểu bản chất con người là tổng hợp các quan hệ xã hội khơng có
nghĩa là Cacmac đã đồng nhất cá nhân và xã hội, cá nhân bị hoà tan trong xã hội
bằng cách biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và biến đổi cả bản thân mình.


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
V.Lenin đã kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết Câcmc về con người

vào hoàn cảnh cụ thể, vào các quan hệ xã hội và hoạt động của con người trong các
mối quan hệ đó. Về vấn đề bản chất xã hội của nhân cách, V.Lenin cho rằng muốn
hiểu nhân cách phải nghiên cứu ý thức. Chính ý thức xã hội quy định các kiểu hành
vi của nhân cách, đó là kiểu địa chủ, kiểu tư sản, kiểu tri thức, kiểu công chức, kiểu
nhà cách mạng,..Và V.Lenin đã khẳng định đời sống xã hội quy định nhân cách. Sự
phát triển nhân cách phụ thuộc vào cá nhân tham gia đời sống xã hội phong phú và
đa dạng thông qua cá nhân thể hiện quan điểm của mình, rèn luyện nên bản thân
mình chính là biểu hiện của nhân cách. Theo V. Lênin tính tích cực của nhân cách
được thể hiện trong nhu cầu và động cơ hành vi cùng với phương thức hoạt động
đặc trưng của người đó cũng như hành động cải tạo thực tiễn của họ. Tính thực tiễn
còn thể hiện ở việc mỗi con người mong muốn chiếm lĩnh một vị thế trong xã hội.
Tính tích cực bắt nguồn trong quá trình con người tác động vào thế giới xung
quanh và tác động nó, phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề nhân cách được người đề cập đến trên
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách. Người khẳng định
nếu không có đạo đức thì tài năng cũng vơ dụng. Người viết: “Cũng như sơng có
nguồn thì sơng mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng
có gốc thì cây héo. Người phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi đến mấy

cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” (Hồ Chí Minh, 1959, Sửa đổi lề lối làm việc,
nhà xuất bản sự thật, Hà Nội – Trang 32,33).
Thứ hai, nhân cách là tư cách làm người, mỗi người đều có tư cách của mình,
Hồ Chí Minh xác định rất rõ tư cách của người Đảng viên, người Đoàn viên …
ngay trong sáu điều Bác dạy Công An nhân dân, năm điều Bác dạy học sinh … thể
hiện rõ nét về điều này.
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã đề cập đến những phẩm chất của nhân cách bao gồm:
nhân, nghiã, trí, dũng, liêm. Nhân là thương yêu, lòng giúp đỡ mọi người, nghĩa là
ngay thẳng, đối xử với người theo lẽ phải, trí là đầu óc trong sáng, hành sự cơng
việc có lợi cho đồn thể, dũng là dũng cảm trong lao động, trong chiến đấu nhưng


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
cũng phải dũng cảm tự phê bình bản thân, khắc phục sữa chữa những sai lầm
khuyết diểm để từ đó tiến bộ. Bản thân người cũng là sự hoà quyện nhiều phẩm
chất nhân cách: anh hùng và nhà văn hoá, nhà quân sự và nhà thơ, nghệ sĩ. Một thi
nhân Trung Quốc đã khái quát Hồ Chí Minh là một người đại trí, đại nhân, đại
dũng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách là cơ sở để xây dựng khái niệm nhân
cách mang bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong từ điển Tiếng việt, nhân cách được hiểu là tư cách phẩm chất con
người.
Trong quan niệm của người Việt Nam, nhân cách bao gồm nhiều mặt.
Nhân cách được hiểu là người có đức có tài, hội tụ tất cả những phẩm chất của
con người mới XHCN: đức, trí, thể, mĩ, lao động.
Nhân cách được hiểu là đạo đức, giá trị làm người, điều mà con người vươn
tới để hoàn thiện bản thân mình.

Nhân cách chính là phẩm chất của con người: yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu
lao động, nâng cao tinh thần quốc tế vô sản.
Khái niệm nhân cách thường gắn với khái niệm con người, gắn với giá trị,
chuẩn mực làm người, đòi hỏi mỗi người phải rèn luyện tu dưỡng để chiếm lĩnh nó.
Trong tác phẩm tâm lý học nhân cách_Một số vấn đề lý lụân, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, 2000, trang 222, tác giả Nguyễn Ngọc Bích từ những luận điểm của
Cacmac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã định nghĩa nhân cách như sau: ‘‘ Nhân
cách là hệ thống những phẩm giáo xã hội của cá nhân, mối quan hệ của cá nhân
với cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh, với công việc trong
quá khứ, hiện tại, tương lai”
2.2. Đặc điểm cơ bản của nhân cách
Nhân cách có thể xem như một cấu trúc tâm lý ổn định, thống nhất mang tính
tích cực và tính giao lưu với tư cách là chức năng xã hội, giá trị xã hội, cốt cách
làm nhân cách của cá nhân. Vì thế người ta thường đề cập đến 4 đặc điểm nhân
cách cơ bản sau:
2.2.1. Tính thống nhất của nhân cách


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức

và tài của con người. Trong nhân cách có sự hài hồ thống nhất giữa các cấp độ :
cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Ở cấp độ thứ
ba xem xét giá trị xã hội của nhân cách ở những hoạt động, ở những mối quan hệ
của xã hội mà nhân cách gây nên như biến đổi ở những nhân cách khác. Chính vì
thế các nhà tâm lý học Xô viết đã viết : ‘‘ Nhân cách chỉ có thể trong sự thống nhất
của cả ba bình diện ( cá nhân, liên cá nhân, siêu cá nhân ) như là sự đại diện lý

tưởng của cá nhân trongnhững cá nhân khác, trong các mối quan hệ của nó với cá
nhân ấy, trong chính bản thân nó như là một đại biểu của các tồn thể, được khám
phá thông qua thực tế xã hội” (A. V. Pêtrôvxki Cá nhân và nhu cầu trở thành nhân
cách của nó. Tạp chí ‘‘ Những vấn đề triết học” 1982. số 3).
2.2.2. Tính ổn định của nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong
mỗi cá nhân. Vì thế nhân cách là cái sinh thành phát triển trong suốt cuộc đời cộng
đồng, biểu hiện trong các hoạt đông và mối quan hệ giao lưu trong xã hội. Vì thê
các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đối khó hình thành và
cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân cách ( từng thuộc tính, từng phẩm
chất ) có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn
tạo thành một cấu trúc trọn vẹn tương đối ổn định.
2.2.3. Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội. Vì
thế nhân cách mang tính tích cực. Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách
khi anh ta tích cực hoạt động trong những hình thức đa dạng của nó, nhờ vào việc
nhận thức, cải tạo sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo ra chính bản thân mình.
Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá
nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của cá nhân. Các nhà tâm lý học cũng chỉ rõ hệ
thống nhu cầu của cộng đồng là nguồn gốc và động lực của nhân cách. Tính tích
cực của nhân cách thể hiện trong sự thoả mãn các nhu cầu của nó. Con người
khơng thảo mãn các đối tượng có sẵn mà nhờ có công cụ, nhờ lao động con người
đã biến đổi, đã sáng tạo ra các đối tượng làm cho nó phù hợp với nhu cầu của bản


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
thân. Mặt khác con người tích cực tìm kiếm những cách thức, các phương thức thoả

mãn các nhu cầu là một q trình tích cực có mục đích, trong đó con người làm chủ
được những hình thức hoạt động do sự phát triển xã hội quy định nên.
2.2.4. Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt
động và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu
được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người, con người sinh ra và lớn lên
ln có nhu cầu quan hệ giao tiếp với người khác, với xã hội. Thông qua giao lưu
con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ
thống các giá trị xã hội. Đồng thời cũng qua giao lưu mà con người được đánh giá,
được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Qua giao lưu con người đóng góp các giá trị
phẩm chất nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội. Một nguyên tắc giáo
dục cơ bản là giáo dục bằng tập thể, trong tập thể. Chính nhân cách được hình
thành trong mối quan hệ giao lưu và hoạt động cùng nhau, hoạt động tập thể.
2.3. Cấu trúc của nhân cách
Nhân cách có cấu trúc phức tạp, nhiều nội dung, linh hoạt. Có rất nhiều quan
điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách :
-

A. G. Côvaliôv cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm : các quá trình tâm lý,
các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý cá nhân.

-

Có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản : nhận
thức( bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ), tình cảm ( rung cảm, thái độ ) và
ý chí ( phẩm chất, ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen).

-

K.K.Platơnơv nêu lên bốn kiểu cấu trúc của nhân cách như sau:

+ Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học ( bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi

và đơi khi cả những thuộc tính bệnh lí).
+ Tiểu cấu trúc về đặc điểm của các quá trình tâm lý ( cảm giác, tri giác, trí
nhớ, tư duy…).
+ Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực…
+ Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách : nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới
quan, niềm tin…


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
- Có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm các tầng khác nhau :
+ Tầng nổi : gồm các hiện tương tâm lý được ý thức và tự ý thức.
+ Tầng sâu : gồm các hiên tượng tâm lý vơ thức, tiềm thức.
- Có quan điểm cho rằng nhân cách gồm bốn khối :
+ Xu hướng : quy định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của con
người. Bao gồm hệ thống nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, niềm tin và nhân sinh quan,
thế giới quan.
+ Khả năng : là năng lực tổng hợp các thuộc tính cá nhân. Bao gồm : năng lực
chung, năng lực chuyên biệt, năng lực cải tạo và sáng tạo, năng lực học tập và
nghiên cứu
+ Phong cách hành vi : do tính cách và khí chất quyết định. Tính cách là hệ
thống thái độ của con người đối với thế giới khách quan và đối với bản thân. Khí
chất là những thuộc tính cá nhân của tâm lý con người quy định sắc thái bên ngoài
của đời sống tinh thần, là một mặt của bản chất con người.
+ Hệ thống điều khiển : cịn gọi là cái tơi của nhân cách, tự điều chỉnh, tự
kiểm tra và đièu chỉnh hành vi, hành động của cá nhân. Có thể coi đây là quan niệm

bao quát đầy dủ và hợp lý hơn cả.
- Cấu trúc nhân cách của đức và tài : đức và tài là cách nói quen thuộc của Việt
Nam ( phù hợp với quan niệm câu trúc nhân cách bốn khối) và được xếp thành 2
mặt thống nhất đức và tài. Theo quan niệm này thì đức và tài là phẩm chất và năng
lực dưới sự chỉ đạo của ý thức ‘‘ bản ngã” tức là cái tôi ý thức hay đơn giản là tơi,
bao hàm trong đó những đặc tính riêng biệt để phân biệt tơi với những cá nhân
khác.
Đức là phẩm chất :
+ Phẩm chất xã hội ( hay đạo đức – chính trị) : thế giới quan, niềm tin, lý
tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động.
+ Phẩm chất cá nhân ( hay đạo đức tư cách) : các nết, các thói, các ‘‘thú”
( ham muốn).
+ Phẩm chất ý chí : tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết,
tính phê phán…


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
+ Cung cách ứng xử : tác phong, lễ tiết, tính khí…

Tài là năng lực :
+ Năng lực xã hội hố : khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo, cơ động,
mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống xã hội.
+ Năng lực chủ thể hoá : khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, khả năng
biểu hiện cái riêng, cái ‘‘bản lĩnh” của cá nhân.
+ Năng lực hành động, khả năng hành động có mục đích, có điều khiển, chủ
động, tích cực.
+ Năng lực giao tiếp : khả năng thiết lập và duy trì quan hệ với người khác.

Tóm lại, cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có mối
quan hệ qua lại chế ước lẫn nhau, tạo nên một bộ mặt tương đối ổn định nhưng
cũng rât cơ động. Nhờ có cấu trúc nhân cách như vậy mà cá nhân có thể làm chủ
được bản thân, thể hiên tính mềm dẻo, linh hoạt cao với tư cách là chủ thể đầy sáng
tạo.
2.4. Con đường hình thành nhân cách
Muốn nhân cách phát triển hài hồ, tồn diện thì mỗi cá nhân phải tham gia
vào các hoạt động xã hội. Nhân cách được hình thành thơng qua hoạt động tích cực
của con người trong quá trình sáng tạo xã hội. Sự tham gia tồn diện các hoạt động
( trong dó bao gồm cả hoạt động giáo dục) là điều kiện cho sự phát triển hài hoà
cho con người với tư cách là một nhân cách.
Theo Phạm Minh Hạc, muốn hình thành nhân cách phải giáo dục giá trị. Ông
cho rằng : ‘‘ Nhân cách chính là mối quan hệ mức độ phù hợp giữa hệ thống giá trị,
thước đo giá trị của chủ thể với hệ thống giá trị và thước đó giá trị của nhóm, cộng
đồng xã hội, nhân loại. Mức độ và khả năng phù hợp càng cao nhân cách càng lớn (
Phạm Minh Hạc_ ‘‘ Mười năm đổi mới giáo dục”, NXB Giáo dục Hà Nội_1996,
trang 68).
Từ đó khẳng định rằng sự phù hợp giữa hai hệ thống gía trị, thước đo giá trị
của cá nhân và xã hội nó tỉ lệ thuận với sự phát triển của nhân cách. Một bước tiến
của nhân loại, cua giá trị loài người, tức là sự xích sát nhau, sự phù hợp giữa hai hệ
thống giá trị đó.


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Trong tư tưởng của mình Khổng Tử quan niệm về giá trị làm người là nhân,

nghĩa, trí, tín. Trần Văn Giàu quan niệm có bảy giá trị đạo đức truyền thống tạo nên

bản sắc nhân cách con người Việt Nam : “ Yêu nước – Cần cù – Anh hùng – Sáng
tạo – Lạc quan – Thưương người – Vì nghĩa”.( Trần Văn Giàu, “ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, 1980, trang 94). Các giá trị này
không phải là bẩm sinh, tiền định, con người sinh ra là có sẵn mà chỉ được hình
thành thơng qua viêc tham gia các hoạt động xã hội của con người trong đó có hoạt
động giáo dục. Muốn hình thành nhân cách con người phải được giáo dục. Giáo
dục có vai trị quan trọng, định hướng trong việc hình thành nhân cách của con
người. Giáo dục là sự dẫn dắt của thế hệ trước đối với thế hệ sau, một sự dẫn dắt
theo mục đích, có kế hoạch, có phương pháp. Giáo dục là con đường ngắn nhất
giúp thế hệ sau phát triển, bỏ qua những mị mẫm, vấp váp khơng cần thiết trong
cuộc đời một con người.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định : “ Tiếp tục quán triệt
quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo ra sự chuyển biến cơ bản, toàn
diện trong phát triển giáo dục và đào tạo”. Tuy nhiên cần phải hiểu khái niệm giáo
dục rộng hơn, bao gồm giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội,
ba yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau trong q trình hình thành nhân cách,
trong đó giáo dục nhà trường có vai trị quan trọng nhất. Để làm được nhiệm vụ
này, giáo dục phải định hướng các bậc thang giá trị, bao gồm về mặt đạo đức và về
mặt trí tuệ. Chức năng của giáo dục là dẫn dắt con người, định hưưóng có ý thức về
các bậc thang giá trị một cách tồn diện, để từ đó mà hồn thiện nhân cách của
mình trên cả đạo đức và tài năng. Mặt khác xã hội luôn phát triển sôi động đã làm
cho tâm lý của con người ln có xu thế biến đổi, bên cạnh những mặt tích cực :
tính năng động, ham học hỏi, biết cạnh tranh, chấp nhận thì có nhiều vấn đề, nhiều
mặt cần phải xem xét lại. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì nhiều bậc
thang giá trị bị đảo lộn như : lợi ích cá nhân được coi trọng hơn lợi ích xã hội, giá
trị lấn át giá trị truyền thống, nhiều thành phần xã hội đổ xô, chạy theo cái lợi trước
mắt mà khơng tính đến hoặc rất ít chú ý đến các giá trị lâu dài.


Tiểu luận tâm li học


GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Nhiêm vụ của giáo dục có vai trị quan trọng là hình thành con người từ một

nhân cách mang tính các nhân trở thành một nhân cách mang tính xã hội. Giáo dục
cá nhân bên cạnh coi trọng lợi ích cá nhân cịn phải biết coi trọng lợi ích tập thể, lợi
ích cộng đồng, sống có trách nhiệm cộng đồng chứ khơng chỉ nghĩ đến lợi ích của
bản thân mình.
Mỗi người khi sinh ra sẽ nhận đựơc sự giáo dục của gia đình. Giáo dục gia
đình sẽ theo cá nhân suốt đời. Với đặc điểm chủ yếu là quan hệ tình yêu, pháp lý và
huyết thống, giáo dục của gia đình dược xây đựng trên cơ sở tình cảm bền chặt, có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của mỗi con người. Ngày nay giáo dục học đã
thừa nhận nề nếp gia phong, truyền thống gia đình là một yếu tố giáo dục cực kỳ
quan trọng và không thể coi thường.
Đến trường cá nhân sẽ nhân được sự giáo dục từ phía nhà trường. Nhà trường
là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp có đội ngũ các nhà Sư phạm được đào tạo, nội
dung chương trình đựơc chọn lọc, phương pháp giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi
có phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục. Mục đích của giáo dục nha trường
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và thời đại. Giáo dục nhà trường được thực
hiện bằng kiến thức và phương pháp khoa học, bằng cách tổ chức các hoạt động,
giao lưu trong thực tiễn là hình thành nhân cách học sinh. Giáo dục tạo nên bộ mặt
tâm lý phù hợp với những tiêu chuẩn, giá trị xã hội và thời đại.
Bước ra xã hội cá nhân sẽ nhận được sự giáo dục của xã hội với thể chế chính
trị, pháp luật với truyền thống văn hoá, đạo đức…được thực hiện qua hệ thống tổ
chức nhà nước, qua bộ máy tuyên truyền thông tin đai chúng, qua dư luận xã hội,
qua hoạt động giáo dục của các đồn thể, quần chúng…góp phần quan trọng cho sự
phát triển nhân cách.
Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng to lớn nếu được phân phối chặt
chẽ, cùng thống nhất một mục đích, một yêu cầu và cùng một phương thức giáo

dục sẽ đem lại kết quả giáo dục tốt đẹp.
Thông qua giáo dục, nhân cách mọi cá nhân ngày càng được hoàn thiện.
Ngoài viưêc hoàn thành, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đệp, giáo dục cịn có thể


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
sữa chữa lệch lạc trong ý thức đạo đức, hành vi của con người và hơn thế nữa cịn
có thể giúp khắc phục cả những khuyết tật của cơ thể.
Tuy nhiên giáo dục chỉ có hiệu quả khi mỗi con người tự ý thức được mục
đích cuộc sống và tích cực hoạt động vì cc sống của bản thân. Mọi hoạt động
giáo dục bị khúc xạ bởi lăng kính chủ quan và nó được tiếp nhận theo yêu cầu và ý
thức của từng cá nhân. Trong qua trình đó mỗi người phải không ngừng tự đấu
tranh bản thân, chống lại những cám dỗ, tạo dựng quyết tâm, nỗ lực ý chí vươn tới
cái cao đẹp bằng những phương thức tốt nhất để dành lấy thắng lợi, sự thắng lợi
của cuốc đấu tranh này kết cục là hình thành những phẩm chất của nhân cách. Con
người, nhân cách là sản phẩm của sự vật lộn, từng trải là kết quả của cuộc đấu tranh
với chính bản thân mình trong cuộc sống.
Như vậy trong sự hình thành và phát triển của nhân cách thì một nhân cách tốt
đẹp khơng thể phát triển ngoài giáo dục, và một nền giáo dục tiên tiến không thể
tạo ra những con người hư hỏng.
II. Đặc điểm lao động của người thầy giáo
Trong xã hội nghề dạy học đươc hình thành sớm nhất. Nó ra đời khi nền sản
xuất phát triển đến một trình độ nhất định, trong quá trình lao động, sản xuất người
ta phải truyền lại cho nhau những kinh nghiệm chiến đấu với thiên nhiên có kết quả
để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mới đầu ở muức thấp người ta cso thể truyền
đạt một cách trực tiếp thành quả lao động của tập thể, người này theo kinh nghiệm
của người khác. Nhưng khi kinh nghiệm đã phong phú theo kinh nghiệm của sản

xuất thì sự truyền đạt địi hỏi đến sự truyền đạt của người trung gian. Đó là thầy
giáo. Như vậy nghề dạy học gắn chặt với lao động sản xuất cảu xã hội, góp phần
hình thành phẩm chất năng lực cần thiết cho người lao động
Con người là lực lượng sản xuất chủ yếu, nên nghề dạy học người giáo viên
có quan hệ chặt chẽ đến việc xây dựng lực lượng lao động cho xã hội, đến việc tăng
năng suất lao động, xã hội hôm nay nối tiếp xã hội hơm qua, khơng phải chỉ có thừa
hưởng kinh nghiệm sản xuất vật chất để đưa xã hội tiến lên, mà còn thừa hưởng
những giá trị tinh thần, văn hố xã hội, nó củng cố và phát triển hoặc phá bỏ hệ tư
tưởng thống trị cũ của xã hội đã lỗi thời. Vì vậy người giáo viên muốn hay không


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
muốn đều phải tham gia vào vận mệnh tương lai của dân tộc. Việc làm đúng hay
không đúng của người giáo viên sẽ góp phần tiến lên hay cản trở sự phát triển của
xã hội.
Lao động ccủa người giáo viên là sản phẩm loại hình đặc biệt có những đặc
điểm cơ bản sau :
1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đanglớn
lên với nhân cách của nó. Đối tượng này khơng phải là vật vô tri vô giác như tấm
vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ
mộc…Mà là những con người đang trong thời kỳ chuẩn bị, đang ở tuổi bình minh
của cuộc đời đó là học sinh với tất cả những phức tạp của lứa tuổi, của những con
người đang lớn,đang trưởng thành, đó là những đối tượng hết sức sinh động và rất
nhạy cảm với những hoạt động của môi trường bên ngồi theo hướng tích cực và cả
hướng ngược lại. Xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tuỳ thuộc
vào nội dung và chất lượng của thời kỳ chuẩn bị này. Thực chất nội dung và chất

lượng của thời kỳ chuẩn bị này là hình thành những phẩm chất và năng lực của con
người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đang phát triển. Hoạt động chính của thầy
giáo là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh hội, thông trải những kinh nghiệm, tinh hoa
mà lồi người tích luỹ được và biến chúng thành những nét nhân cách của chính
mình. Hiệu quả, chất lượng của quá trình này phụ thuộc vào nhân cách đội ngũ nhà
giáo, không một ai trong xã hội, không một loại máy móc hiện đại nào trong kỹ
thuật có thể thay thế được chức năng của thầy giáo. Chính vì thế, có nhiều ý kiến
đã cho rằng nghề thầy giáo là nghề có ý nghĩa chính trị, kinh tế to lớn.
2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình:
" Để tạo ra nhân cách người học thì trước hết người thầy giáo phải biết thuyết
phục học sinh bằng nhân cách của mình...", đó là nhận xét của ông Nguyễn Tùng
Liêm, hiệu trưởng trường phổ thông trung học dân lập Đinh Tiên Hồng( Hà Nội)
tại cuộc bàn trịn về" Đạo đức nhà giáo, chuẩn nghề nghiệp giáo viên và Cán bộ
quản lý có cơ sở giáo dục trong việc xây dựng Luật nhà giáo " của bộ Giáo dục và
Đào tạo.Nghĩa là trong quá trình giáo dục và dạy học, người thấy dùng nhân cách


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
của mình để tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác ngộ về lý
tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành
thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách xử sự và kỹ thuật giao tiếp của người thầy
giáo... Sản phẩm lao động của người giáo viên không chỉ dừng lại ở quá trình
truyền thụ kiến thức mà lớn hơn là xây dựng nhân cách con người. Để tạo dựng
nhân cách, giáo viên cần quan tâm, sâu sát học sinh, hiểu xuất phát điểm về nhận
thức, hồn cảnh, cá tính của từng em để điều chỉnh phương pháp day cho phù hợp.
Nói đơn giản, người thầy giáo khơng chỉ dạy chữ, mà cịn dạy người. Hay như
UNESCO: người dạy phải tạo cho học sinh thấy rõ việc học ở trường là" để biết, để

làm, để cùng chung sống, để làm người". Và để tạo dựng nhân cách học sinh, người
thầy giáo phải có nhân cách, phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Như
vậy, công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là người giáo viên với toàn bộ nhân
cách của mình. Nhân cách càng tinh xảo, càng hồn hảo thì sư phạm càng hồn
thiện. Từ đó chúng ta có thể thấy rõ hơn, nếu người giáo viên thiếu nhân cách thì
khơng thể giáo dục nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy nghề thầy giáo ln địi
hỏi những u cầu về phẩm chất và năng lực rất cao. Tính nghề nghiệp là một đòi
hỏi, đồng thời cũng tạo ra điềukiện để cho người giáo viên tự rèn luyện mình, Thế
nên việc xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo là một yêu cầu tất yếu
khách quan của xã hội, như Mac nói: " Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo
dục".
3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội
Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái sản xuất của cải
vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra mọi cảu cải thì đều cần đến sức lao động.
Sức lao động chính là tồn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người,
trong nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có để sản xuất ra sản phẩm có ích
cho xã hội. Chính vì vậy, chức năng của giáo dục chính là xây dựng, bồi dưỡng,
phát huy sức mạnh đó ở trong con người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra
sức mạnh đó.
Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên
cường, là tình thương đồng bào, đồng loại, là đức tính cần cù, sáng tạo, là tri thức


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
và năng lực để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, là lịng u lao động, lao
động có tổ chức, có kĩ thuật và năng lực cao. Giáo dục là nơi khơi dậy, vun đắp, bồi
dưỡng và chắp cánh cho những sức mạnh của con người. Người thầy giáo mang tri

thức, tình yêu, niềm đam mê... của mình để đưa thế hệ trẻ đến với thế giới tri thức,
thế giới của khoa học, công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, khi mọi mặt xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến làm
thay đổi vị trí của người lao động. Nếu như trước đây người lao động dùng năng
lượng cơ bắp gia công tạo ra sản phẩm cho xã hội thì ngày nay vị trí đó dần thay
thế bằng máy móc và như vậy người lao động từ vị trí là gia cơng nay ở vị trí người
chỉ huy gia cơng. Cơng việc chính của họ là dùng" năng lượng thần kinh" để" bấm
nút", để lập chương trình cho máy móc gia cơng tạo ra sản phẩm xã hội. Nói cách
khác họ lao động chủ yếu bằng sức mạng tinh thần, sức mạnh trí tuệ. Chính nhà
trường, người thầy giáo là người tạo ra sức mạnh đó theo phương thức sản xuất mở
rộng.

4. Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật, và tính sáng tạo cao:
Nhà sư phạm người Đức Deiterweg đã từng nói:" Người thầy giáo tồi là người
mang chân lí đến sẵn, người thầy giáo giỏi là người biết đưa học sinh đi tìm chân
lý". Để thực hiện được cơng việc theo tinh thần đó địi hỏi ở người giáo viên năng
lực cao. Với đạc thù nghề nghiệp giáo dục là mamg tri thức khoa học đến với thế hệ
trẻ, là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh yêu cầu người giáo viên phỉa
dựa trên nền tảng khoa học giáo dục, có kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình
huống cụ thể thích ứng với từng cá nhân sinh động.
Giáo dục hiện đại nhằm hình thành nên những con người mới với đầy đủ: đức,
trí, thể, mỹ, lao động. Để thực hiện được mục tiêu đó, người thầy giáo khơng đơn
thuần chỉ là giáo viên giảng dạy mà còn là người nghệ sỹ trên bục giảng, người"
truyền lửa" cho học sinh. Tính nghệ thuật của việc dạy học thể hiện ở năng lực
truyền đạt của người giáo viên làm sao khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển
và sáng tạo của người học để nhận thức, cảm nhận và có kỹ năng cao. Người giáo


Tiểu luận tâm li học


GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
viên nào nắm vững tính khoa học và nghệ thuật của việc dạy học sẽ dạy cho học
sinh có được những bậc nhận thức, cảm nhận, kỹ năng cao. Muốn hấp dẫn học sinh
thì trước hết phải hấp dẫn chính mình, người thầy giáo hướng dẫn học sinh tìm
kiếm tri thức phải như là người nghệ sĩ trên bục giảng để" truyền lửa" nhiệt tình
cho học sinh. Trong quá trình đó địi hỏi người thầy giáo phải khơng ngừng sáng
tạo, ln làm mới mình và mỗi tri thức đến với học sinh là một kho báu đầy màu
sắc của khoa học, của tình yêu, tâm huyết... của người giáo viên.
5. Nghề lao động trí óc chun nghiệp:
Nghề dạy học được xem là một loại lao động trí óc vì nó vận dụng trí tuệ, tinh
thần. Thật ra, cơng tác đứng lớp là một loại lao động bao gồm cả hai mặt tinh thần
và thể xác. Dù dạy ở cấp bậc nào, người thầy giáo đều phải lên lớp diễn giảng và
soạn giáo án, chấm bài hay nghiên cứu đề tài lúc ở nhà. Khi soạn bài, chấm bài,
người dạy phải dành một số thời gian thích đáng cho cơng việc, đồng thời phải
động não, phải huy động vốn học, vốn văn hoá và nghiệp vụ. Và tuỳ theo đối tượng
của cấp học, thầy giáo phải dựa vào vốn sống, trí tuệ và tình cảm của mình để
truyền đạt cho học sinh những kiến thức, kĩ năng đã quy định trong đề tài. Ví dụ, ở
bậc tiểu học và trung học, học sinh có thể tiếp thu sự hiểu biết và từng bước phát
triển nhân cách, năng lực thông qua sự hướng dẫn đã được giáo viên chuẩn bị chu
đáo và triển khai tại lớp một cách sáng tạo. Ngoài những hoạt động trên lớp nhiều
hoạt động khác của người thầy giáo mang tính chất là lao động trí óc chun biệt.
Đây vừa là điểm đặc trưng, vừa là yêu cầu cấp thiết trong lao động của người thầy
giáo, đòi hỏi cao ở người giáo viên những năng lực sư phạm cao.
III. Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo
Cấu trúc nhân cách là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản
sắc( nét đặc trưng) và giá trị tinh thần( giá trị làm người) của mỗi người. Như vậy
cấu ttúc của nhân cách là một hệ thống gồm 2 bộ phận: phẩm chất( đức) và năng
lực( tài).
Bác Hồ đã dạy người cán bộ cách mạng vừa phải có đạo đức vừa phải có tài,"

Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức là người


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
vô dụng"; Người cán bộ phải" vừa hồng, vừa chuyên", hồng là đức, là phẩm chất
chính trị, chuyên là chuyên môn, là năng lực.
Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo là tập hợp những yếu tố cấu thành bao
gồm: các phẩm chất, thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tại thế hệ trẻ, lòng yêu
trẻ, lòng yêu nghề nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động củ
người thầy giáo. Các năng lực: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và
giáo dục; tri thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập,dạy học, năng
lực ngôn ngữ, năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp
sư phạm, năng lực
"cảm hoá" học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt động
sư phạm, năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tế dạy học _ giáo
dục...
1. Phẩm chất của người thầy giáo
1.1 Thế giới quan khoa học:
Người giáo viên thực chất là nhà tổ chức, nhà hoạt động xã hội, người tuyên
truyền cổ động, người tích cực truyền bá những tư tưởng cộng sản khoa học và các
chỉ thị của Đảng cho thế hệ trẻ, cho cha mẹ học sinh và cho các tổ chức xã hội
khác. Muốn làm được việc đó, trước hết người giáo viên phải có một thế giới quan
đúng đắn.
Thế giới quan của người thầy giáo phải đạt tới trình độ của những niềm tin về
mặt tư tưởng, chính trị, lịng tin mãnh liệt vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản,
lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng ngay cả khi trong những hồn
cảnh đầy khó khăn, gian khổ, địi hỏi nổ lực phấn đấu hi sinh. Chỉ có lịng tin như

thế người giáo viên mới có thể đào tạo được một thế hệ trong sáng, lành mạnh, kiên
cường, sáng tạo, tài năng nối tiếp sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Người thầy giáo không những là chiến sỹ vô danh trên mặt trận văn hố mà
cịn là chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng, chính trị. Nhà giáo phải thấm nhuần những
tư tưởng chính trị của Đảng và Nhà nước.
Năm 1920, VI.Lê Nin đã nói đến việc xây dựng đội quân giáo viên kiểu mới
liên hệ chặt chẽ với Đảng, với các tư tưởng của Đảng, thấm nhuần tinh thần của


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
chủ nghĩa cộng sản của người giáo viên Xô viết. Đây cũng chính là bài học quý báu
mà đội ngũ giáo viên Việt Nam ddac thấm nhuần tư tưởng chính trị của Lê Nin.
Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở của nhân cách người giáo viên nhân
dân. Nó giúp giáo viên biết cách nhìn nhận, đánh giá hành vi con người, phải giải
quyết đúng đắn vấn đề phức tạp trong lý luận và thực tiễn sư phạm. Người giáo
viên có thế giới quan đúng đắn khơng bao giờ nhìn nhận sự vật một cách hời hợt,
phiếm diện. Một học sinh học kém hay đến lớp chậm, giáo viên khơng vội vàng kết
luận là em đó lười học, mà biết tìm các nguyên nhân dẫn đến việc học kém và hay
đến lớp muộn của học sinh. Hay đối với một học sinh vi phạm kỷ luật, giáo viên
không chỉ dùng kỷ luật để" trị" mà còn biết xem xét những quan niệm, những hứng
thú của học sinh có gì cịn lệch lạc.
Niềm tin của người giáo viên đối với chủ nghĩa cộng sản, đối với sự lãnh đạo
của Đảng còn thể hiện ở lòng yêu nước sâu sắc, sẵn sàng chịu đựng gian khổ trong
những điều kiện thiếu thốn khó khăn về vật chất, tinh thần. Trong những năm chiến
tranh giữ nước vĩ đại, nhiều giáo viên đã vừa dạy học vừa là du kích đánh giặc
trong thời kỳ chống thực dân Pháp, vừa dạy học vừa là dân quân, góp phần hạ máy
bay giặc Mỹ xâm phạm bầu trời miền Bắc. Người giáo viên đã xung phong vào bộ

đội chiến đấu dũng cảm chống kẻ thù và lập được nhiều chiến công rực rỡ. Người
giáo viên đã trở thành những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, những kỹ thuật viên trong
binh chủng quân đội, hay những nhà lãnh đạo quân sự tài ba, như Đại tướng Võ
Nguyên Giáp là một bức chân dung lớn về những người giáo viên anh hùng vĩ đại.
người giáo viên âm thầm lặng lẽ ở nơi núi rừng hẻo lánh để tìm dạy cho đàn em
nhỏ khơng có điều kiện được học tập chu đáo. Những điều đã làm vẻ vang danh
hiệu người giáo viên, góp phần nâng cao uy tín người thầy giáo trước học sinh và
nhân dân.
Ngày nay, khi đất nước ngày càng văn minh, ngày càng phát triển, giáo viên là
người tiên phong ươm những mầm xanh cho đất nước, hiến dâng cả cuộc đời cho
sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp đổi mới của đất nước. Người giáo viên lại tiếp tục
thổi luồng khí lớn cho thế hệ tiếp theo lớn lên và trưởng thành để phục vụ Đảng,
phục vụ nhà nước, đưa đát nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu. CHính


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
điều đó càng địi hỏi ở người giáo viên một thế giới quan đúng đắn, một hệ thống tư
tưởng ổn định, vững chắc, niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà
nước.
Để làm được điều đó người giáo viên phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất,
tư tưởng chính trị, trau dồi đạo đức cách mạng. Thơng qua các lớp tập huấn, bồi
dưỡng để có cái nhìn mới về thế giới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1.2 Lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ:
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
"Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người"
Sự nghiệp trồng người là sư nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.

Nghành giáo dục là nghành có nhiệm vụ trồng người cho dất nước. Người giáo viên
là người định hướng cho việc đào tạo nhân cách con người mới trong xã hội tương
lai. Nhân cách con ngươi trong xã hội tương lai như thế nào phị thuộc và chịu ảnh
hưởng rất lớn từ nhân cách của người thầy giáo. Chính vì vậy, người giáo viên phải
có lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, coi đây là nhiệm vụ thiêng liêng của mình.
Lý tưởng đào tạo thế hê trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhâncách của người
thầy giáo. Lý tưởng là" ngôi sao dẫn đường" giúp cho thầy giáo ln đi về phía
trước, thấy được giá trị lớn laocủa mình đối với thế hệ trẻ.
Khi xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người phải có đủ đức, trí, thể,
mỹ, lao động phục vụ cho đất nước. Chuyển mình cùng sự thay đổi của đất nước
người giáo viên phải ln làm mới mình, thường xun trau dồi kiến thức, phải học
hỏi, đổi mới cùng sự tiến bộ của xã hội. Giáo viên phải xem việc làm của mình là
việc làm cho xã họi và cho chính cuộc đời của mình. Người giáo viên_ là người có
lý tưởng đào tạo ra một thế hệ sáng suốt, có đủ tài và đức, mong muốn cung cấp đủ
nhân lực, vật lực về mặt thể chất cũng như trí tuệ cho xã hội.
Lý tưởng dầo tọa thé hệ trể của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng niềm
đam mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tân tụy hi sinh với công


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình... Những
cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy vượy qua mọi khó khăn về tinh thần và vật
chất, hình thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Người giáo viên không bao giờ được quên lời dạy của bác: "Non sơng Việt
Nam có trở nên tươi đẹp được hay khơng, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các
cường quốc năm châu hay không là nhờ vào công sức học tập của các cháu".
Người giáo viên phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Câu nói của Bác

ln thơi túc nhgười giáo viên say mê với hoạt động giảng dạy, để đào tạo thế hệ
trẻ, vì sự phồn thịnh của Dân tộc, bởi tương lai của Đất nước nắm trong tay thế hệ
trẻ.
1.3 Lòng yêu nghề va lòng yêu trẻ:
Lòng yêu nghề trước hết là lòng yêu trẻ, là một trong những phẩm chất đạo
đức cao quý của con người, là một phẩm chất đăc trưng trong nhân cách người thầy
giáo, vì lịng thương người là đạo lý của cuộc sống. Lòng thương người, lịng u
trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì con người càng làm được nhiều việc vĩ đậi bấy nhiêu.
Để khẳng định ý nghĩa to lớn của tình thương người, lịng u trẻ trong nhân cách
thầy giáo, V.A.Xkhơmlĩnki_ một giáo viên công huân của Liên Xô (cũ) bằng sự trải
nghiệm của mình đã viết: "Tơi nghĩ rằng đơi với nhà giáo dục điều chủ yếu là tình
người, đó là nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng
thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người sẽ tạo ra hạnh phúc cho
con người. Đó là điều vơ cùng quan trọng. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác,
cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vơ giá đó là tình người. Mà tập trung là sự
nhiệt tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha".
Lòng yêu trẻ, yêu nghề của người giáo viên thể hiện ở lòng yêu lao động dạy
học và giáo dục, yêu học sinh và tinh thần lạc quan sư phạm.
Người giáo viên thể hiện lòng yêu nghề trước hết ở thái độ hăng hái, nhiệt
tình thật sự đối với cơng việc của mình. Lịng u nghề của giáo viên, như thủ
tướng Phạm văn Đồng đã nói thực chất là" yêu nước, yêu dân, yêu sự nghiệp của
mình, yêu tiền đồ của dân tộc".


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Người giáo viên tốt là người giáo viên nhận rõ hoạt động sư phạm của mình


có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp cách mnạg của dân tộc và do đó cảm nhận
sung sướng trước sự thành cơng hay buồn rầu khi gặp phải thất bại trong công tác
giáo dục trẻ.
Lòng yêu nghề dạy học của giáo viên còn thể hiện ở chỗ người giáo viên đó
khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình, nắm vưnmgx kĩ thuật giảng
dạy_ giáo dục, ham hiểu biết cái mới trong kho học sư phạm, tham gia tích cực hội
nghị trao đổi kinh nghiệm dạy học, chịu khó thay đổi, cải thiện cơng tác của mình.
Thầy giáo u nghề thường ln ln tự đặt cho mình câu hỏi: Tại sao lại có tình
trạng thất bại trong cơng tác và tìm Nói chung cách giải đáp cho được câu hỏi đó.
Giáo viên có lịng u nghề khơng chỉ biết cơng việc của riêng mình mà cịn
biết quan tâm đến cơng việc của các bạn đồng nghiệp, của nhà trường. Nói chung
người giáo viên tốt biết chú ý đến tình hình phát triển của nhà trường, của công tác
giáo dục học sinh, và góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong công tác
giáo dục của nhà trường. Đối với mọi hoạt động, khơng bình thường của học sinh,
chẳng hạn nhơ kém phấn đấu học tập, hoặc vi phạm kỉ luật của nhà trường, nhiều
giáo viên yêu nghề không bao giờ thờ ơ, khơng coi đó là nhiệm vụ của các ơng
hiệu trưởng, hoặc cuả đồng chí khác mà thường có nhỡng băn khoăn, suy nghĩ góp
phần đề xuất nhỡng biện pháp giải quyết chung. Người giáo viên yêu trẻ cảm thấy
có niềm vui khi được tiếp xúc với học sinh, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ.
Người giáo viên yêu trẻ thường rất dễ cảm thông với học sinh, chia sẻ niềm vui, nỗi
buồn cùng với trẻ, biết nghĩ những điều mà trẻ nghĩ, biết nói tiếng nói của trẻ thơ,
thấy việc tiếp xúc với trẻ là một nhu cầu, khi bắt buộc phải xa trẻ thì cảm thấy
buồn, nhớ và ln tìm mọi cách để được gần gũi học sinh của mình.
Giáo viên yêu trẻ thường biết quan tâm, chăm sóc tất cả các học sinh của
mình, khơng phân biệt trẻ đáng u hay khơng đáng yêu. Đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ
" Thầy giáo phải thương yêu tất cả học sinh, dù có những em chưa ngoan hoặc
chậm hiểu cũng khơng nên có thái độ phân biệt đối xử. Phải có tình thương u trẻ
sâu sắc, rộng rãi , phải gạt bỏ lịng ích kỷ , độ lượng thì mới giáo dục trẻ em được



Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
tốt" (" Nghề cao q" - Cơng đồn giáo dục Việt Nam xuất bản năm 1968 - trang
16).
Ngay đối với trẻ em học kém hoặc vô kỷ luật, người giáo viên yêu trẻ cũng
nhìn thấy ở các em những nét tích cực và ra sức vun trồng, ni dưỡng những mầm
non tốt đẹp đó.
Những giáo viên yêu trẻ, giáo dục thành công ngay cả những trẻ" hư hỏng" là
những giáo viên biết yêu cầu cao đối với trẻ. Càng thương u càng tơn trọng trẻ
thì càng phải u cầu cao đối với trẻ là nguyên tắc sư phạm rất quan trọng, nếu chỉ
thương u mà khơng đồi hỏi cao thì trẻ en sẽ yếu đuối, khó giáo dục.
Người giáo viên u nghề, u trẻ ln ln có tinh thần lạc quan sư phạm,
tất nhiên trong cơng tác giáo dục có những khó khăn, bực dọc, nhưng những người
giáo viên có tinh thần lạc quan sư phạm ln ln tìm thấy niềm vui trong khó
khăn, nhìn thấy được viễn cảnh giáo dục của mình, do đó mà ln phấn khởi, u
đời.
Nguồn gốc của tinh thần lạc quan sư phạm trước hết ở chỗ giáo viên thấy
được mối quan hệ giữa công tác của mình với tiền đồ của dân tộc, sự nghiệp cách
mạng vĩ đại của Đảng. Hồ Chủ tịch đã nói: " Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những
thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản?... Nếu không có thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân thì làm sao xây dựng chủ
nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất quan trọng và rất vẻ vang"( Hồ Chí
Minh_ Bàn về cơng tác giáo dục _ Nhà xuất bản sự thật _ Hà Nội _ 1972_ trang
89).
Nguồn gốc của tinh thần lạc quan sư phạm còn thể hiện ở chỗ giáo viên tự tin
vào khả năng của mình và tin vào khả năng rộng lớn của tập thể sư phạm mà người
đó là thành viên. Dù khó khăn đến đâu, người giáo viên lạc quan cũng tin rằng
mình có thể chiến thắng được và tập thể có khả năng phân tích, giúp đỡ mình giải

quyết tốt cơng việc.


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
Nhưng ưu tư, buồn phiền trong lúc gặp vấp váp thất bại, tất nhiên có những

động viên người giáo viên yêu đừi đó chỉ là tạm thời. Cái chủ đạo trong con người
giáo viên lạc quan là luôn luôn hướng về niềm vui của ngày mai ngay cả những lúc
gặp trở ngại trong cơng tác
Tơnxtơi đã từng nói:" Nếu người thầy giáo chỉ biết u cơng việc thì đó là
thầy giáo tốt, nếu thầy giáo chỉ biết yêu học sinh như tình yêu của cha mẹ đối với
con cái thì sẽ tốt hơn là người thầy chỉ biết đọc sách vở mà lại không yêu công
việc, không yêu trẻ. Nếu người thầy giáo biết kết hợp trong lịng u cơng việc và
tình yêu trẻ thì đố là người thầy giáo hồn hảo".
1.4 Một số phẩm chất đạo đức( nét tính cách) và phẩm chất ý chí của người thầy
giáo.
Trong số các năng lực sư phạm ta cần đặc biệt nêu lên các phẩm chất, ý chí
của giáo viên. Khơng có ý chí, khơng thể tác động sâu sắc, vững vàng đến trẻ.
Một trong những biểu hiện rõ ràng các phẩm chất ý chí của nhà giáo là tính
mục đích, là xu hướng thường xuyên giải quyết nhiệm vụ sư phạm lớn. Xu hướng
nói trên của người giáo viên sẽ mang tính chất có ý chí, nếu nó kèm theo săn sàng
khắc phục mọi khó khăn trên đường đi đến mục đích. Tính mục đíchcủa người giáo
viên bắt nguồn từ tính mục đích thấm nhuần trong tồn bộ cuộc sống của chúng ta,
hướng vào việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Nhà giáo dục có ý chí biết" u cầu đến cũng" nghĩa là không chỉ nên yêu
cầu một cách rõ ràng, chính xác mà cịn theo dõi sự thực hiện u cầu đó triệt để
chính xác và đúng thời hạn, tốt hơn là không nêu những yêu cầu mà giáo viên

không kiểm tra được sự thực hiện. Giáo viên không đạt được mục đích nếu đề ra
yêu cầu hoặc quên đi hoặc lại thay đổi yêu cầu một cách vô căn cứ. Giáo viên cần
có tính kiên trì hay bền bỉ. Không chỉ trong việc đề ra yêu cầu cho trẻ và theo dõi
thực hiện mà còn để khắc phục mọi khó khăn trong cơng tác giáo dục, cũng như
khơng ngừng tu dưỡng bản thân, nâng cao trình độ chun mơn. Người giáo viên
dù có tài năng đến đâu đi chăng nữa cũng sẽ không đạt được khôngết quả cao trong
công tác sư phạm nếu không để công sức đầy đủ vào trong cơng tác đó. Cơng việc


Tiểu luận tâm li học

GV hớng dẫn: Ths Dơng Thị
Thuỳ Linh
nào cũng địi hỏi sự cố gắng song cơng việc của người giáo viên rất phức tạp,
không thể rập khuôn, nhằm giải một số nhiệm vụ khó khăn là xây dựng nhân cách
con người mới. Nhiệm vụ này lại không thể thực hiện được nếu khơng có tính kiên
trì, khơng có sự cố gắng ý chí cần thiết. Cũng vậy, trong cơng tác sư phạm cần có
tính tự chủ và nhẫn nại.
Nếu giáo viên khơng làm chủ được mình thì khơng làm chủ được lớp học.
Giáo viên phải có trách nhiệm đối với lời nói của mình, cân nhắc từng lời nói, các
lời nói này bao giờ cũng phải có uy tín đối với trẻ.
Tính tự chủ của người giáo viên thể hiện ở chỗ người giáo viên đó biết làm
chủ tình cảm, tâm trạng của mình khơng thể tha thứ được nếu giáo viên hành động
vì quá xúc động. Ví dụ : cáu kỉnh, bực tức. Những quan sát cho thấy, trong đa số
trường hợp những hành động không đúng của giáo viên thường là những hành động
bộp chộp, thiếu suy nghĩ, nghĩa là thực hiện thiếu sự kiêmt tra cần thiết của ý thức.
Đòi hỏi giáo viên phải tự chủ khơng có nghĩa là giáo viên khơng nên xúc
động, cũng như mọi người giáo viên cũng có vui, buồn, có giận, có tức bực, có hi
vọng và lo ngại. Nói tóm lại người giáo viên cũng là cả một thế giới tình cảm mn
màu, mn vẻ.

Người giáo viên không thể là con người khô khan chỉ lên lớp và lý thuyết
sng. Tất cả những điều nói trên khơng hề mâu thuẫn với yêu cầu, bắt buộc đối
với giáo viên là làm chủ hành động của mình, bao giờ cũng phải kiểm tra hành vi
của mình.
Một giáo viên tốt bao giờ cũng có tính nhẫn nại. Sự dại dột hay hiếu động
của học sinh không làm cho người giáo viên nóng nảy hay cáu kỉnh, vì họ cho rằng
chính nhịêm vụ của họ là làm cho trẻ trở thành người hiểu biết, thơng minh và có
kỷ luật. Tính thất thường của một giáo viên đó là biểu hiện của sự thiếu tự chủ,
thiếu kiên nhẫn, là không phù hợp với công tác giáo dục.
Ân cần và tế nhị cũng là những phẩm chất đạo đức của người giáo viên. Giáo
viên phải là người có tính nhân đạo, biết tơn trongk mọi người, biết giúp đỡ người


×