Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

NANG LUC QUAN LY GIAO DUC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.46 KB, 28 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Bước sang thế kỷ XXI, trước bối cảnh chung của thế giới đặt ra cho hệ
thống giáo dục Việt Nam những thách thức to lớn. Theo báo cáo của Ban
Chấp hành trung ương Đảng X đã chỉ rõ những vấn đề cần phải thực hiện đảm
bảo đúng số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy ở tất cả các cấp
học, bậc học, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính
tích cực sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều.
Theo đánh giá của các chuyên gia hiện nay bên cạnh những thành lớn
đã đạt được, giáo dục Việt nam vẫn còn nhiều điẻm yếu kém. Một trong
những điểm yếu kém đó là giáo dục mang tính đại trà, chất lượng đào tạo
khơng đều, còn nhiều yếu kém. Điều này thế hiện ở năng lực tư duy độc lập
và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học vào trong thực tiễn cuộc sống.
Nội dung chương trình giảng dạy cịn mang nặng tính lý thuyết, thiếu gắn bó
với đời sống xã hội, thiếu các kiến thức ứng dụng và rèn luyện phương pháp
tư duy.
Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên những yếu kém và chất
lượng giáo dục Việt nam là đa số cán bộ giảng dạy còn yếu về năng lực sư
phạm, phương pháp dạy học còn nặng về truyền thụ một chiều hạn chế tính
tích cực đối lập với người học.
Có thể nói chất lượng giáo dục là vấn đề cấp bách hiện nay điều đó địi
hỏi sự nổ lực về nhiều mặt của xã hội, trong đó nâng cao năng lực sư phạm và
đánh giá năng lực sư phạm của cán bộ giảng dạy giữ một vai trò hết sức quan
trọng. Năng lực sư phạm là yêu cầu quan trọng đối với sự tồn tại phát triển
của nghề dạy học nói chung và đối với cán bộ giảng dạy nói riêng. Bởi bất cứ
nghề nào mà khơng có năng lực nghề nghiệp thì hành nghề cũng khơng thể
hồn thành tốt cơng việc của mình.
Nghề dạy học là nghề đặc biệt với sư phạm là nhân cánh phát triển toàn
diện của học sinh, sinh viên. Để làm ra sản phẩm này người giáo viên phải sứ
dụng công cụ chủ yếu là nhân cách của chính bản thân mình. Do đó việc


1


nghiên cứu đó tìm ra mơ hình phân cách của người giảng dạy với phẩm chất
với năng lực cần thiết là vấn đề mà nhiều nhà sư phạm và các nhà quản lý
quan tâm.
Mỗi hoạt động muốn đạt kết quả cao cần phải có một số năng lực tương
ứng, nói tới năng lực là nói tới khả năng của cá nhân hồn thành cơng việc
một cách nhanh chóng và hiệu quả. Đồng thời chính trong hoạt động của cá
nhân cũng được hình thành.
II. Mục đích và nhiệm vụ.
1. Mục đích.
Trong xu thế hiện nay khi đất nước đã bước vào vịng xốy của kinh tế
thị trường chung của cả thế giới, một đất nước muốn phát triển mạnh không bị
tụt hậu, lạc hậu với các nước trên thế giới thì buộc đất nước đó phải cải cách
mọi mặt kinh tế xã hội phù hợp với xu thế phát triển chung. Nước ta cũng vậy,
vẫn đề cần cải cách hàng đầu quan trọng nhất đó là giáo dục để có những
người tài, những người thực sự giỏi để phục vụ cho đất nước.
Người ta đã thực sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và
việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Năng lực giáo dục của người thầy giáo
cũng là một trong những vấn đề mà xã hội quan tâm. Đó là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, việc hình thành nhân cách của học
sinh. Vì vậy đề tài này đưa ra nhằm quan tâm đến vấn đề năng lực của người
giáo viên những quy định về năng lực sư phạm là cơ sở để các nhà giáo nổ lực
rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh. Đồng thời là một
trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát nhà giáo dục nhằm xây
dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng có phẩm chất và lương
tâm nghề nghiệp trong sáng, có tính tích cực học tập khơng ngừng nâng cao
chun mơn nghiệp vụ và phương pháp sư phạm có lối sống và cách ứng xử
chuẩn mực thực sự là tấm gương sáng cho người học noi theo.


2


2. Nhiệm vụ.
Khi đất nước đã bước vào nền kinh tế hội nhập sự cạnh tranh vô cùng
gay gắt và khóc liệt để phát triển đất nước phải bồi dưỡng nhân tài có đủ năng
lực, ý chí và trí thức.
Giáo dục đóng vai trị hết sức to lớn trong việc hội nhập quốc tế và sự
phát triển kinh tế nói riêng của Việt nam và nói chung của tồn quốc tế. Giáo
dục là nơi đào tạo những thế hệ người mà xã hội cần vì thế khi nói đến giáo
dục là phải nói đến việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đó là vấn đề cần nói
đến năng lực giáo dục của người giáo viên hiện nay. Chúng ta phải không
ngừng nâng cao năng lực giáo dục đào tạo ra những con người thật sự có ích
cho gia đình và xã hội.

3


B. NỘI DUNG
I. Khái niệm.
1. Năng lực là gì?
Năng lực là sự tương xứng giữa một bên là những đặc điểm sinh lý và
sinh lý của con người với một bên là những yêu cầu của hoạt động đối với
con người đó. Sự tương xứng ấy là điều kiện để con người hồn thành cơng
việc mà hoạt động phải thực hiện.
2. Thế nào là năng lực giáo dục?
Năng lực giáo dục là năng lực hiếu được đối tượng giáo dục và làm cho
học sinh hiếu, nghe, nói và làm theo yêu cầu xã hội.
II. Năng lực giáo dục của người giáo viên.

1. Năng lực giao tiếp sư phạm
Albert Einstein đã từng nói:” Nhà trường phải có chủ trương tạo cho
học sinh một cá tính cân đối chứ khơng nên biến chúng thành một nhà chuyên
môn”. Việc giáo dục và đào tạo trong nhà trường hiện nay không chỉ quan
trọng đến việc tạo ra những con người giỏi về nghề nghiệp mà phải hoàn thiện
về nhân cách. Muốn thực hiện mục tiêu này thì địi hỏi giáo viên và học sinh
phải củng cố nổ lực thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong đó giao tiếp sư phạm
đóng vai trị hết sức quan trọng.
1.1. Giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo hoạt động sư phạm,
khơng có giao tiếp sư phạm thì khơng đạt được mục đích giáo dục.
Có thể hiểu rằng giao tiếp giữa con người và con người trong hoạt động
sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm. Vậy hoạt động nào được gọi là hoạt
động sư phạm?

4


Chúng ta đã biết rằng giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nó được
tiến hành ở mọi ngành, mọi cấp, trong từng khu phố, thơn xóm và gia đình, ở
các cơ sở kinh tế và văn hoá… Bên cạnh nhà trường, giáo dục cịn được diễn
ra ngồi xã hội, trong gia đình. Tất nhiên giáo dục nhà trường quyết định
chiều hướng phát triển nhân cách học sinh. Vì nhà trường là cơ quan chuyên
trách công tác giáo dục, là tổ chức xã hội dẫn đầu với những phương pháp
giảng dạy khoa học nhằm xây dựng cho con người một nhân cách phát triển
toàn diện. Như vậy hoạt động giáo dục là hoạt động rộng lớn bao hàm trong
đó cả hoạt động sư phạm, hoạt động giáo dục chỉ diễn ra trong nhà trường,
trong đó chủ yếu là giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên là người tổ
chức điều khiển quá trình giáo dục trong nhà trường được gọi là chủ thể giao
tiếp với nghĩa chung nhất. Học sinh là người lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp do giáo viên truyền đạt cho. Với ý nghĩa này học

sinh là khách thể trong hoạt động giao tiếp sư phạm. tuy nhiên để giáo dục,
dạy học đạt được kết quả cao mà các em thực sự là một chủ thể có ý thức,
hoạt động tích cực để đón nhận tri thức khoa học của giáo viên.
Quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh bao gồm giữa giáo viên
và học sinh, giữa chủ thể và khách thể, giữa chủ thể giao tiếp và chủ thể tiếp
nhận, giữa chủ thể và chủ thể. Các tiếp xúc tâm lý mà giáo viên cần tạo ra cho
học sinh là tiếp cận được tâm tư; xây dựng tâm lý thuận lợi là tạo cho học
sinh được tâm lý thoải mái khi chuẩn bị tiếp thu những tri thức mới, các em
không phải bị ức chế khi phải tiếp nhận thơng tin từ giáo viên. Các q trình
tâm lý khác ở đây được hiểu là trí tưởng tượng, kích thích trí nhớ, sự tư duy
và hoạt động của tri giác.
Từ các vấn đề đó ta thấy rằng giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo
cho hoạt động sư phạm.

5


Về nhiệm vụ của giao tiếp sư phạm là nhằm truyền đạt vốn sống, kinh
nghiệm, những tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen nghề nghiệp, xây
dựng và phát triển nhân cách tồn diện ở học sinh.
Cịn mục đích là nhằm khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình
cảm và thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực góp phần đáp
ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội. Nhằm xây
dựng nguồn lực con người trở thành động lực cho sự phát triển bền vững.
Hoạt động giáo dục chỉ diễn ra trong nhà trường, trong đó chủ yếu là sự
giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Muốn đạt được mục đích của giáo dục
thì trước hết phải đạt được mục đích của giao tiếp sư phạm, chính vì vậy
khơng có giao tiếp sư phạm thì khơng đạt được mục đích giáo dục.
1.2. Giao tiếp sư phạm có vị trí quan trọng trong cấu trúc năng lực
sư phạm của người giáo viên, là phương tiện thực hiện các nhiệm vụ giảng

dạy, giáo dục và phát triển.
Bác Hồ đã từng nói “ Khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục, khơng
có cán bộ thì khơng nói gì đến kinh tế và văn hố” Bác đã khẳng định vai trị
quan trọng khơng thế thiếu của người giáo viên. Người giáo viên có giỏi hay
khơng được nhận định dựa trên năng lực sư phạm của họ, trong đó giao tiếp
sư phạm có vị trí rất quan trọng.
Giao tiếp nói chung có rất nhiều chức năng trong hoạt động giao tiếp sư
phạm cũng có rất nhiều chức năng, nó là phương tiện phục vụ cho phương
tiện giảng dạy là điều kiện xã hội – tâm lý đảm bảo cho quá trình giáo dục là
phương thức tổ chức các mối qua lại giữa thầy và trò.
Trong việc thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy giao tiếp sư phạm đảm
bảo sự giao tiếp tâm lý với học sinh: Hình thành động cơ học tập, tích cực tạo
ra hồn cảnh tâm lý cho lớp học hay nhóm học để tìm tịi nhận thức và cùng
nhau suy nghĩ.

6


Trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, nhờ có giao tiếp sư phạm
mà có thể giải quyết tốt các mối quan hệ giáo dục và sư phạm, tiếp xúc tâm lý
giữa người giáo viên và học sinh. Hình thành xu hướng nhận thức trong nhân
cách, vượt qua sự ngăn cách về tâm lý, hình thành các mối quan hệ trên nhân
cách trong tập thể học sinh. Trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển, giao
tiếp sư phạm tạo ra các hồn cảnh tâm lý kích thích việc hồn thiện bản thân
và tự giáo dục nhân cách.
Từ đó ta thấy rằng giao tiếp có vai trị rất quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách. Nếu tách khỏi sự giao tiếp xã hội con người
không thể hình thành và phát triển nhân cách được. Mặt khác giao tiếp có
chức năng định hướng hoạt động, điều khiển, điều chỉnh hành vi của con
người.

Giao tiếp tích cực có tác dụng tạo sự tương giao tốt đẹp, tác động tốt
đến tư tưởng, tình cảm của con người. Ngược lại, giao tiếp tiêu cực tạo cho
con người sự đau khổ, căng thẳng, sa sút bản chất người ở những mức độ
khác nhau. Theo các nhà tâm lý học dựa vào đặc điểm của một người chúng ta
có thể biết được tính cách của người đó.
Tóm lại giao tiếp sư phạm có tác động khá rộng rãi trong hoạt động sư
phạm. Giao tiếp sư phạm giữ một vị trí hết sức quan trọng và nổi bật trong
cấu trúc, năng lực sư phạm, trong dạy học và trong giáo dục.
1.3. Giao tiếp sư phạm là một khâu quan trọng trong quá trình hình
thành nhân cách, phát triển tích cực nhận thức xã hội của học sinh trong
quá trình hình thành tập thể học sinh.
Giao tiếp sư phạm gồm những nguyên tắc, những biện pháp và kỹ xảo
tác động lẫn nhau giữa giáo viên và tập thể học sinh mà nội dung cơ bản của
nó là trao đổi thơng tin, sự tác động về giáo dục và học tập, việc tổ chức mối

7


quan hệ lẫn nhau và cũng là quá trình người giáo viên xây dựng và phát triển
nhân cách của học sinh.
Giao tiếp sư phạm có những đặc thù như sau:
Thứ nhất giáo viên không chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài
giảng mà họ còn phải là tấm gương sáng mẫu mực về nhân cách. Phải thống
nhất giữa lời nói, việc làm với hành vi ứng xử. Có như vậy giáo viên mới tạo
cho mình có được uy tín, uy tín là phương tiện tinh thần giúp giáo viên thực
hiện nhiệm vụ đạt kết quả cao.
Thứ hai trong giao tiếp sư phạm, giáo viên dùng các biện pháp giáo dục
tình cảm, thuyết phục, vận động đối với học sinh.
Thứ ba nhà nước và xã hội ta rất tôn trọng giáo viên. Nhân dân ta có
truyền thống tơn sư trọng đạo, trọng đạo lý làm người nên rất được tơn trọng

đối với nghề thầy giáo “ Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì
u lấy thầy”.
Ngồi ra giao tiếp sư phạm còn là một thành tố trong nội dung giáo
dưỡng đòi hỏi cần phải dạy cho học sinh. Chúng ta cần phải dạy cho học sinh
cả nghệ thuật giao tiếp. Sự gương mẫu rất quan trọng cho sự thành công của
dạy học và giáo dục.
Phát biếu tại một cuộc hội thảo GS – TS khoa học Lê Ngọc Trà đã
khẳng định: Giao tiêp có quan hệ chặt chẽ với giáo dục. Hay nói một cách
khác cụ thể hơn thì ở phương tiện nào đó giáo dục chỉ là giao tiếp. Khơng có
giao tiếp thì khơng có giáo dục. Ngồi ra giao tiếp khơng chỉ là hình thức
phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung quan trọng của giáo dục.
Từ những vấn đề trên chúng ta thấy rằng hoạt động giao tiếp sư phạm
là một khâu quan trọng không thể thiếu đối với người giáo viên và không thể
thiếu trong mọi thời đại.

8


1.4. Sự quan trọng của giao tiếp bằng ánh mắt trong lớp học.
Ai cũng biết rằng lời nói là một phần của giao tiếp, tuy thế các giáo
viên thường quên hoặc đánh giá không đúng mức về tầm quan trọng của giao
tiếp phi ngơn ngữ của chính họ và của học sinh. Một trong những khía cạnh
của giao tiếp phi ngô ngữ là sứ dụng ánh mắt để truyền đạt thông tin. Tuy
nhiên học sinh sử dụng hầu hết trong lớp học, sử dụng đơi mắt để nhìn sách
nhìn lên bảng, nhìn qua cửa sổ hoặc đảo mắt khơng có mục đích quanh lớp
học.
Cách nhìn ln có tác dụng nhưng khơng nên nhìn q mức nếu khơng
bạn sẽ trở thành bức tranh hiểm hoạ.Muốn thiết lập một vai trò lãnh đạo trong
lớp học liên quan đến giao tiếp bằng ánh mắt ngay từ đầu hãy vào lớp trước
các học sinh và chào đón họ bằng ánh mắt khi họ bước vào lớp học.

Khi buổi học bất đầu, giáo viên đi quanh phòng học kiểm tra xem học
sinh đã sẵn sàng chưa, bút viết đã cầm trên tay chưa, điện thoại di động đã tắt
chưa. Giáo viên có thể biết học sinh sẳn sàng chưa thơng qua cái nhìn bao
qt lớp học.
Giao tiếp tốt bằng ánh mắt khơng có nghĩa là nhìn chằm chằm. Nhiều
học sinh có thể thấy hình thức giao tiếp này bất tiện nếu giáo viên nhìn chằm
chằm do đó họ sẽ ngoảnh mặt đi và mất tập trung vào bài học.
Quan sát học sinh và lắng nghe họ, đặc biệt là khi họ đang trình bày bài
phát biểu. Để ý các biểu hiện của sự nhàm chán hoặc mất tập trung.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra ý nghĩa của ánh mắt mà người học nhận
được là rất lớn. Nó là động lực thúc đẩy q trình học tập của người học đem
lại hiệu quả học tập cao. Vì vậy trong hoạt động giao tiếp sư phạm lời nói là
một phần của giao tiếp nhưng ánh mắt cũng là một yếu tố giao tiếp góp phần
quan trọng không kém trong việc giao tiếp sư phạm.

9


2. Năng lực vạch ra dự án phát triển nhân cách học sinh
2.1. Thế nào là năng lực vạch ra dự án phát triển nhân cách học sinh.
Năng lực vạch ra dự án phát triển nhân cách học sinh là năng lực biết
dựa vào mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo, hình dung trước cần phải giáo
dục cho học sinh những phẩm chất nhân cách nào và phương hướng hành
động của mình vào việc đạt tới hình mẫu của nhân cách như mục tiêu cấp học
đã quy định. Năng lực này thế hiện ở khả năng tiên đoán sự phát triển những
phẩm chất này hay phẩm chất khác, vừa nắm vững những nguyên nhân dẫn
tới sự phát triển, hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục.
2.2. Tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách.
Hình thành nhân cách là mục đích của giáo dục. Nó là tổ hợp của
những phẩm chất và năng lực theo một cấu trúc nhất định. Vì vậy mọi hoạt

động sư phạm phải nhằm hình thành nên những “chất liệu” đó để dệt nên
nhân cách học sinh.
Thực tế nhiều năm, trong lý thuyết cũng như trong thực tiễn đã có quan
điểm cho rằng hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào việc xây dựng và lựa chọn
mục tiêu, chương trình nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục cùng với
những điều kiện, phương tiện giáo dục. Như chúng ta đã biết việc giáo dục
phát triển nhân cách học sinh là một nhu cầu cần thiết, bản chất của quá trình
giáo dục là tổ chức tồn bộ q trình học tập, hoạt động của học sinh, tạo điều
kiện thuận lợi tối ưu để tiềm năng cảu học sinh phát triển dưới sự giáo dục
của người thầy giáo. Thực chất vai trò của người thầy giáo cũng như người
làm vườn trồng cây, tuy khơng đúng hồn tồn nhưng hoạt động của người
giáo viên gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây giống. Người làm
vườn không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc tạo điều kiện cho hạt
giống nảy mầm. Phạm Văn Đồng đã từng nói:”nghề dạy học là nghề cao quý
nhất trong tất cả các nghề cao q vì nó sáng tạo ra những con người sáng

10


tạo”.Trong thời đại của nền kinh tế hiện nay,học sinh ln có xu hướng địi
hỏi chưng diện ln bị những cạm bẫy trong xã hội lơi cuốn. Nó ảnh hướng
khơng ít đến việc học tập của các em.Vì thế địi hỏi người thầy giáo phải trau
dồi năng lực vạch ra dự án phát triển nhân cách học sinh góp phần tạo ra
những công dân tốt trong xã hội và những đứa con ngoan trong gia đình.
Hiện nay phong trào thi đua xây dựng” Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”đã được phát động và triển khai trong toàn ngành hai năm qua.Trong
phong trào thi đua đã tạo nên diện mạo mới trong các trường học, góp phần
gắn bó thầy và trò trong học tập, rèn luyện, trau dồi kỹ năng sống và tích cực
tham gia các hoạt động xã hội, các cấp chính quyền, các ban ngành đồn thể
địa phương đã thế hiện sự quan tâm và hỗ trợ có hiệu quả trong việc triển khai

thực hiện phong trào.
Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực chính là sự cụ thể
hoá của yêu cầu “ Dạy tốt học tốt” trong hồn cảnh hiện nay xây dựng tốt
khơng chỉ là hoạt động của các cá nhân giáo viên mà cịnlà hoạt động của tập
thể thầy cơ, là sự tham gia của gia đình đồn thể vào q trình sư phạm là việc
thiết kế các hoạt động để các em tham gia trong và ngồi nhà trường tạo mơi
trường thân thiện cho các em. Dạy tốt không chỉ là nói cho các em nghe, chỉ
cho các ẹm làm, mà cịn là tạo điều kiện để các em tự tìn hiểu, tự khám phá để
các em tự đề xuất việc cần làm và tự làm…. Dạy và học tốt không chỉ qua
sách vở mà cịn qua thực hành, khơng chỉ có thầy cơ là người dạy mà chính
các em qua các hoạt động tích cực trong học tập, hoạt động tập thể, hoạt động
xã hội mà tự giúp nhau trưởng thành và tự rèn luyện bản thân mình. Các em
học sinh không chỉ là đối tượng cần được giáo dục mà thơng qua hoạt động
tích cực của các em, các em chính là những người ni dưỡng và phố biến
văn hoá dân tộc, truyền thống cách mạng của đất nước. Các em cũng là chủ
thể của quá trình giáo dục xã hội.

11


Trường học thân thiện –học sinh tích cực chính là dạy học có chất
lượng thầy cơ phát huy được tính chủ động, sáng tạo để đổi mới phương pháp
dạy học trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Để trở thành một nhân cách phát triển con người phải không ngừng
phấn đấu theo những yêu cầu của xã hội mà trước hết là những yêu cầu của
nhà trường, nhà giáo dục và gia đình…. Vì vậy trong quá trình giáo dục học
sinh, nhà giáo dục phải biết liên tục đề ra các yêu cầu để các em không ngừng
phấn đấu tu dưỡng đạo đức và hồn thiện bản thân mình. Thơng qua việc yêu
cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ giáo dục mà nhờ đó học sinh sẽ thực
hành được các hành vi và hoạt động phù hợp với các chuẩn mực xã hội, dần

dần tạo ra được những kinh nghiệm về ứng xử và hành vi trong các tình
huống. Cũng thông qua việc thực hiện các yêu cầu mà học sinh có cơ hội để
điều chỉnh, chỉnh sữa những hành vi sai trái, tạo ra những hành vi mới đúng
đắn và phù hợp. Từ những hành vi đúng đắn đó, người học với tâm lý hướng
thiện vốn có sẽ nảy sinh những tình cảm, cảm xúc và dần dần hình thành
những tình cảm tốt đẹp đối với các chuẩn mực xã hội. Những cảm xúc, tình
cảm này sẽ trở thành những kích thích tốt nhằm tạo ra động cơ ở người học
thơi thúc họ hành động để chuyển hố ý thức thành những hành vi cụ thể và
thói quen đạo đức.
Con đường phát triển về nhận thức, niềm tin, tình cảm đến thái độ và
động cơ là một con đường hình thành ý thức tâm lý phức tạp địi hỏi phải có
sự chuyển hố nhuần nhuyễn, tránh sự áp đặt, thiếu tự nhiên. Mặt khác quá
trình phát triển nhân cách học sinh là quá trình diễn ra trong một thời gian lâu
dài. Q trình đó vừa bao gồm sự tiếp nhận tự giác những cái mới tích cực,
vừa đấu tranh loại bỏ những cái cũ sai lầm và thiếu tiến bộ. Q trình đó lại
địi hỏi sự luyện tập và rèn luyện lâu dài, có chủ đích và có định hướng của
mỗi cá nhân, nhằm tạo ra những giá trị cao hơn mang tính ổn định và tính cần
thiết. Quá trình đó ngồi sự nổ lực ý chí cao độ của người giáo viên và học

12


sinh còn đòi hỏi một độ lâu dài về thời gian. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc
thiết lập một cái mới đã khó, việc xố bỏ một thói quen cũ lại càng khó hơn.
Do đó q trình giáo dục phải được tiến hành một cách bề bỉ liên tục, có hệ
thống trong một thời gian đủ dài. Đòi hỏi các chủ thể phải kiên trì, phải nhẫn
nại, tránh tình trạng vội vàng, nơn nóng đốt chảy giai đoạn. Q trình giáo
dục chỉ đạt hiệu quả thực sự khi biết tiến nhanh một cách đúng đắn trình tự
các trạng thái của nó một cách hợp quy luật, trong một thời gian nhất định cần
thiết. Ngồi ra trong q trình giáo dục địi hỏi nhà giáo dục phải tơn trọng

nhân cách của học sinh, coi học sinh là chủ thể tự giáo dục, một nhân cách
tích cực độc lập tư tưởng và lạc quan đối với họ. Nhờ đó sẽ nâng cao được
lịng tự trọng, tự để họ khơng ngừng phấn đấu vươn lên tự hồn thiện bản thân
mình.
Với đặc thù tâm sinh lý của lứa tuổi rất phong phú và đa dạng nên để có
được năng lực này phải địi hỏi cao của người giáo viên. Ở mỗi lứa tuổi khác
nhau thì có đặc điểm tâm sinh lý khơng giống nhau, ngay ở cùng một lứa tuổi
nhưng đặc điểm này cũng chỉ ở mức độ tương đối đồng đều. Bởi lẽ mỗi đứa
trẻ là một cá thể riêng biệt, ngoài những đặc điểm chung ra mỗi đứa trẻ này
với đứa trẻ khác đều có những điểm khác nhau rõ rệt, thơng qua nét tính cách
khác nhau của từng trẻ. Bởi vì vậy muốn thông qua dự án phát triển nhân cách
cho học sinh thì trước hết người giáo viên phải thấu hiểu tâm lý lứa tuổi của
trẻ, phải biết định hướng phân loại nhóm trẻ, để từ đó vạch ra dự án phát triển
nhân cách cho trẻ. Đặc biệt người giáo viên cần phải chú ý quan tâm, lên kế
hoạch bồi dưỡng những trẻ chậm phát triển, tạo điều kiện cho các em có cơ
hội tham gia nhiều hoạt động tập thể giúp trẻ phát triển tốt, hoà nhập. Nghĩa là
người thầy giáo phải lên cho mình một kế hoạch “Giáo dục cá biệt “ để tạo ra
sự đồng đều trong sự phát triển nhân cách của học sinh đồng thời trong q
trình thực hiện người giáo viên phải ln hình dung được hiệu quả của các tác
động giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho trẻ theo dự án. Nhờ năng lực

13


này mà công việc của người thầy giáo trở nên có kế hoạch, chủ động, tích cực
và sáng tạo hơn.
Người thầy giáo là cái gương về nhân cách, cả cuộc đời cống hiến cho
giáo dục. Thầy phải có óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, có lịng u
nghề, u thương con người, niềm tin vào giáo dục sâu sắc. Có như vậy thì
người thầy mới có thể vạch ra được dự án phát triển nhân cách cho học sinh.

Trước khi dạy học giáo viên phải vạch ra được, phải đào tạo cho học sinh
những nhân cách gì? Muốn làm được điều đó trước hết yêu cầu người giáo
viên phải có dủ phẩm chất nhân cách cho chính bản thân mình.`
3. Năng lực khéo léo đối xứ sư phạm.
3.1. Khái niệm về năng lưc khéo léo đối xứ sư phạm.
Trong quá trình giáo dục người giáo viên thường đứng trước nhiều tình
huống sư phạm khác nhau. Điều đó địi hỏi một mặt người thầy giáo phải hiểu
biết tâm lý trẻ, hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em mặt
khác đòi hỏi người thầy giáo phải biết cách giải quyết linh hoạt và sáng tạo
những tình huống sư phạm của từng cá nhân cũng như tập thể học sinh. Muốn
ứng xứ tốt rõ ràng cần có tài ứng xứ sư phạm.
Vậy thế nào là sự đối xứ khéo léo sư phạm?
Theo I.V . Xtrakhốp (I.V. Xtrakhốp” Khái niệm về tâm lý học khéo léo
đối xứ sư phạm” Nhà xuất bản trường Đại Học Xaratốp 1966) Người có nhiều
đóng góp trong việc nghiên cứu vấn đề này cho rằng: Cái chủ yếu trong sự
khéo léo đối xứ sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến
học sinh một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư
phạm cụ thể phù hợp với đặc điểm và khá năng của cá nhân cũng như tập thể
học sinh trong từng tình huống sư phạm cụ thể.
Nói cách khác, sự khéo léo đối xứ sư phạm là kỹ năng trong bất cứ
trường hợp nào cũng tìm ra được những tác động sư phạm đúng đắn nhất như
14


là một nghệ thuật. Vì thể sự khéo léo đối xứ sư phạm được xem như một
thành phần quan trọng của “ Tài nghệ sư phạm”.
Trong thực tiến hoạt động sư phạm của người giáo viên, sự khéo léo
đối xứ sư phạm được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất là sự nhạy bén về mức độ sứ dụng bất kỳ mọi tác động sư
phạm nào ( Khuyến khích, trách phạt hay ra lệnh, những tác động quá lời, quá

mức có thể dẫn đến “Phán sư phạm”).
Thứ hai là nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp
dụng những biện pháp thích hợp, chẳng hạn có trường hợp học sinh đề ra cho
thầy một thắc mắc mà thầy chưa trả lời được . Trong trường hợp này, người
thầy giáo khéo léo ứng xứ thường khơng hành động một cách máy móc, mà
ứng xứ một cách khác nhau tuỳ theo từng nội dung thắc mắc và hồn cảnh cụ
thể lúc đó. Có thể trả lời là: “Tôi cũng chưa biết, sẽ nghiên cứu và trả lời các
em sau”, trong trường hợp khác nếu trả lời như vậy có thể làm giảm uy tín của
người thầy giáo. Chúng ta có thể tìm cách “Hỗn binh” khéo léo “Vẫn đề em
nêu lên rất hay. Thầy muốn nếu vấn đề đó cho các em đều suy nghĩ và một
giờ lên lớp sau chúng ta sẽ tìm cách giải đáp vấn đề này.
Thứ ba là phải biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn
đề xảy ra bất ngờ, khơng nóng vội, khơng thơ bạo.
Biểu hiện cuối cùng là biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết
mau lẹ những vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục.
3.2. Một số tình huống xứ lý sư phạm.
Trong quá trình dạy học giáo viên dễ gặp phải các tình huống sư phạm
phong phú, mn hình mn vẻ; địi hỏi sự nhanh trí, linh hoạt giải quyết các
vấn đề phù hợp với từng đối tượng học sinh từng hoàn cảnh mới hy vọng đạt
hiệu quả giáo dục.

15


Cùng một tình huống sư phạm nhưng có thể có nhiều cách xứ lý khác
nhau. Điều đó phụ thuộc vào từng đối tượng, từng hoàn cảnh cụ thể cũng như
khá năng giải quyết nó của từng chủ thể.
Sau đây là một số tình huống sư phạm có thể xảy ra giữa giáo viên và
học sinh.
Tình huống thứ nhất.

Sáng nay cháu Minh đến lớp mẫu giáo và khoe với các bạn rằng mình
có chiếc ơtơ mới. Cơ giáo Lan đến bên và hỏi Minh:
- Minh có chiếc ơtơ mới ở đâu thể?
Minh trả lời:
- Ơtơ mẹ cháu mua cho cháu ạ!
Chiều mẹ Minh đến đón cháu, cơ giáo nhắc nhở: “Lần sau chị đừng cho
cháu mang đồ chơi đến lớp nhé! Chiếc ôtô chị mới mua cho chau Minh mang
đến hôm nay làm cho các cháu tranh dành nhau chơi ghê q !”
Mẹ Minh ngạc nhiên:
- Tơi có mua cho cháu của chiếc ơtơ nào đâu?
Lúc đó cơ giáo mới biết cháu Minh đã nói dối.
Nếu là cơ giáo Lan trong trường hợp này bạn sẽ làm như thế nào?
Tình huống này có rất nhiều cách giải quyết khác nhau:
Thứ nhất: Cô giáo để cháu Minh ra về và hôm sau cũng khơng nói gì cả
Thứ hai: Hơm sau khi cháu Minh đến lớp, cơ phê bình cháu trước lớp
về tội nói dối cơ và lấy đồ chơi khơng phải của mình để các bạn chê cười.
Thứ ba: Hơm sau khi cháu Minh đến lớp cô gọi riêng cháu Minh ra một
chỗ và hỏi cháu đã lấy chiếc ôtô ở đâu. Cơ động viên cháu nói thật với cơ và
phân tích cho cháu hiểu ăn cắp và nói dối là những điều không nên làm. Sau
16


đó yêu cầu cháu Minh xin lỗi và hứa sẽ trả lại ôtô cho người mà cháu đã lấy,
hứa sẽ khơng bao giờ tái phạm nữa.
Tình huống thứ hai.
Chuẩn bị cho hội thi bé khoẻ - bé ngoan, cô giáo đã chọn được hai bé
trai và một bé gái. Cô cần chọn thêm một bé gái nữa nhưng cô đang cịn phân
vân: một bé gái ngoan, khoẻ và thơng minh và nhà nghèo nên khơng có áo
đẹp như u cầu của nhà trường đề ra, còn cháu kia cũng gần đạt tiêu chuẩn:
khoẻ mạnh, thông minh nhưng chưa thật ngoan lắm, cháu lại có nhiều quẩn áo

đẹp vì là con gia đình khá giá.
Nếu là cơ giáo trong trường hợp này bạn sẽ xứ lý như thế nào?
Tình huống này có thể giải quyết theo những cách như sau:
Thứ nhất: Chọn bé gái khoẻ, thông minh song chưa thật ngoan lắm
nhưng vì cháu là con gia đình khá giá nên cô không phải lo lắng chuẩn bị
quần áo dự thi cho cháu.
Thứ hai: Chọn cháu khoẻ, ngoan, thông minh, con nhà nghèo và báo
cho gia đình cháu yêu cầu gia đình chuẩn bị quẩn áo đẹp cho cháu dự thi.
Thứ ba: Chọn cháu khoẻ, ngoan, thông minh, con nhà nghèo vì như vậy
sẽ động viên được cháu và gia đình, đồng thời thực hiện đúng tiêu chuẩn
chính của cuộc thi. Cô cũng muợn giúp cháu một bộ váy đẹp, hợp với khổ
người của cháu để cháu có thể tham gia hội thi như các bạn khác.
Tình huống thứ ba.
Đang giảng bài cô Vân phát hiện em An và em Hùng nói chuyện riêng
trong lớp. Cơ nhìn về phía hai học sinhtỏ ý nhắc nhở và tiếp tục bài giảng. Hai
em đó cố tình khơng hiểu ý cơ giáo. Cơ Vân dừng bài giảng và gọi một trong
hai em học sinh đứng dậy.
- Hùng! Tại sao em nói chuyện riêng trong lớp?

17


- Thưa cơ! Em có nói chuyện đâu! Em nhắc bạn An đừng nói chuyện
riêng đấy chứ!.
Trong trường hợp đó, là cô giáo bạn sẽ xử lý như thế nào? Tại sao bạn
lại xứ lý như vây?
Có thể giải quyết trường hợp này theo những cách như sau.
Thứ nhất: Gọi em An đứng lên hỏi: Bạn Hùng nói như vậy có đúng
khơng. Sau đó dù em An có nhận hay khơng, cơ giáo vẫn phê bình cả hai em.
Thứ hai: Cơ mắng em Hùng và đã nói chuyện mà khơng chịu nhận. Sau

đó yêu cầu cả hai em trật tự, nếu không sẽ bị phạt nặng hơn.
Thứ ba: Cô giáo sẽ nói rằng: “ Nếu đúng là Hùng nhắc bạn An khơng
nói chuyện nữa thì cơ tun dương ý thức của em. Nhưng bạn An khơng thể
nói chuyện một mình được.” Sau đó cơ nhắc nhở cả hai bạn phải tập trung
nghe giảng và khơng nên nói chuyện riêng trong lớp làm ảnh hướng đến tập
thể lớp.
Trên đây là một số tình huống sư phạm, với nhiều cách xứ lý khác
nhau. Khá năng xứ lý tình huống sư phạm đó có khéo léo và thơng minh hay
khơng là tuỳ thuộc vào từng đối tượng và từng hoàn cảnh khác nhau. Vì thể
bản thân mỗi nhà giáo phải trang bị cho mình một khá năng khéo léo trong
việc xứ lý các tình huống sư phạm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Dạy học là quá trình tương tác xã hội bao gồm các mối quan hệ đa
chiều, đa diện giữa người dạy và người học, giữa người học và người học với
nhau. Giao tiếp giữa thầy và trò là khâu quan trọng trong q trình hình thành
nhân cách và tính xã hội của học sinh. Khéo léo trong giao tiếp ứng xứ sư
phạm là nâng cao hiệu quả dạy học.
Với vai trị chủ đạo của mình trong dạy học, giáo viên cần chủ động thể
hiện kỹ năng giao tiếp tốt, ứng xứ sư phạm khéo léo như: Nhạy bén, năng

18


độnh trong giao tiếp sư phạm, sự cuốn hút cởi mở về phong cách. Sự trong
sáng, ân cần về mặt tình cảm cùng với sự xuất hiện đúng lúc với những quyết
định thơng minh, tạo niềm tin, uy tín, sự kính trọng đối với người học. Sự
giao tiếp này tạo điều kiện tốt cho sự phát triển tính sáng tạo của hoạt động
học tập, phát triển nhân cách học sinh, tạo nên bầu khơng khí xúc cảm, trong
học tập của trò và giảng dạy của thầy.
Hành động giao tiếp ứng xứ sư phạm của giáo viên và biểu hiện các
yếu tố tâm lý, sư phạm, văn hoá, xã hội, nhận thức thái độ, tình cảm, tính

cách, kinh nghiệm sống và bản lĩnh cá nhân của giáo viên. Tất cả được thế
hiện ra bên ngồi bằng ngơn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ.
Ngôn ngữ, thuật ngữ mà người thầy sứ dụng trong giao tiếp với học
sinh cần chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, giàu hình tượng, khơng cầu kỳ, nhằm
giúp học sinh nhanh chóng nắm bắt được tồn bộ thơng điệp.
Âm lượng giọng nói thích hợp tốc độ nói vừa phải tình thống im lặng
trong khi giảng cho người học “Ngẫm” tránh dùng những từ đệm “ừ”, “à”…
Làm mất đi văn phong khoa học, trang trọng của dạy học. Câu nói phải trơi
chảy, mạch lạc, tránh chắp vá, trục trặc, lúng cúng. Ngôn từ, ngữ pháp phải
đơn giản, tránh dùng câu phức hợp chung chung khó hiểu.
Hành vi phi ngơn ngữ là các động tác, ánh mắt, cứ chỉ điệu bộ nét mặt
của người giáo viên. Một cái nhìn hướng về người nghe thế hiện sự quan tâm
đến học sinh, quay người ngiêng mình về phía người học thế hiện thái độ
nghe chú ý hơn… Những tác động này có ảnh hướng không nhỏ đến người
học.
Trong các hoạt động giao tiếp đó, sự hiểu biết của hành vi phi ngơn ngữ
tạo nên sự hiểu biết của thầy và trò. Người giáo viên nếu biết sứ dụng phối
hợp hành vi phi ngôn ngữ và ngôn ngữ trong việc dạy học một cách phù hợp,
khéo léo, đồng thời độc và hiếu được những biểu hiện trên nét mặt của học

19


sinh sẽ làm tăng thêm sức mạnh nâng cao hiệu quả giao tiếp giữa thầy và trị,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Sự khéo léo đối xứ sư phạm của người giáo viên là một yếu tố rất quan
trọng. Nó thế hiện tài nghệ sư phạm của người đó. Trong thực tiến sư phạm,
chúng ta thấy việc không khéo léo ứng xử thường dẫn đến hậu quả nặng nề.
Chẳng hạn có giáo viên đã đề ra cho học sinh một số u cầu nhưng những
u cầu đó lại khơng nhất quán. Đối với một vi phạm nhỏ nhất của học sinh

giáo viên cũng có những nhận xét gay gắt, thơ bạo và làm mất lịng tin ở học
sinh. Dần dần sự mất lịng tin đó được dồn tích lại ở học sinh qua một thời
gian sự khơng hài lịng, sự phán kháng của học sinh được thế hiện ở sự khơng
vâng lời hoặc sự phá rối kỹ luật có chủ tâm và cuối cùng là ở sự phê phán
giáo viên một cách gay gắt điều đó dẫn đến trẻ khơng cịn hứng thú đến việc
học tập và ấn tượng của người thầy giáo trong tâm hồn trẻ dần dần xấu đi.
Tóm lại tài ứng xử sư phạm khơng gì khác hơn là một bộ phận của
nghệ thuật sư phạm. Cho nên cơ sở hình thành nên nó cũng xuất phát từ lương
tâm nghề nghiệp niềm tin yêu và lòng tơn trọng người mà mình dạy dỗ. Vì
vậy muốn đạt được năng lực này khơng có gid khác ngồi yếu tố người giáo
viên phải quan tâm hiểu được tâm lý của học sinh để trang bị cho mình những
kỹ năng sư phạm vững chắc.
4. Năng lực cảm hoá học sinh
Giáo dục là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách của
người học bắng những tác động có ý thức bên ngồi, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Trong sự nghiệp dạy học của mình khơng phải lúc nào chúng ta cũng
gặp được những học sinh ngoan chăm chỉ mà có thể do một hồn cảnh nào đó

20


mà học sinh thường có cách chóng đối nghịch nghợm học hành sa sút… Gặp
những học sinh như vậy yêu cầu người giáo viên tìm hiểu và tiếp xúc với học
sinh nhiều hơn để có thể hiểu được tâm lý, nguyện vọng của các em. Từ đó có
cách giáo dục đối với từng đối tượng một cách phù hợp. Muốn hiểu được đối
tượng giáo dục của mình, muốn làm cho các tác động sư phạm của mình thực
sự có ý nghĩa đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.Trong cẩm

nang năng lực sưphạm của người thầy giáo khơng thể thiêu vắng mặt năng lực
“Cảm hố” học sinh.
Đó là năng lực gây ảnh hướng trực tiếp của bản thân người thầy giáo
đối với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Nói cách khác, đó là khá năng
người thầy giáo làm cho học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm
và bằng niềm tin.
Năng lực “Cảm hoá” học sinh phụ thuộc vào một tố hợp các phẩm chất,
nhân cách của người thầy giáo như: Tinh thần trách nhiệm đối với công việc,
niềm tin và sự nghiệp chính nghĩa cũng như kỹ năng truyền đạt niềm tin đó,
lịng tơn trọng học sinh cũng như sự chu đáo và khéo léo đối xử sư phạm của
giáo viên, lịng bao dung, vị tha và các phẩm chất có ý chí.
Người thầy giáo có ảnh hướng rất lớn đến học sinh. Họ là những người
đáp ứng được những yêu cầu cao của học sinh và người thầy giáo đó có
những hoạt động tích cực, khoa học đến học sinh. Đó là những người giáo
viên biết tơn trọng sở thích cá tính, nhân cách – nhân cách của chúng là những
người tâm lý, gần gũi, thân thiện nhưng đồng thời phải là những người có
năng lực chun mơn cao.
Năng lực “ Cảm hố” học sinh có ý nghĩa lớn lao và đóng vai trị quyết
định trong việc giáo dục trẻ “ Khó dạy” trong nhà trường. Với đặc thù của trẻ
khó dạy là bất thường và rất hay khó chịu khơng bằng lịng và ln tỏ thái độ
chóng đối, xa lánh với những gì xung quanh. Trong trường hợp tác động của

21


người giáo viên thật sự quan trọng. Muốn cảm hoá được trẻ khó dạy người
giáo viên phải có nguồn kến thức đầy dủ về đặc điểm tâm lý và những nguyên
nhân của chúng. Lúc này giá trị của năg lực sư phạm, khá năng giao tiếp, ứng
xử sư phạm khá năng hiểu học sinh…. Thật sự phát huy rõ rệt những lúc này
người giáo viên không chỉ là người với tư cách là một nhà giáo dục mà còn

thế hiện là một người thân, người mẹ, người anh chị hay bạn bè của trẻ giúp
trẻ trỏ thành một con người tốt, hồ đồng và phát triển bình thường.
Trẻ khó dạy thơng thường đều rơi vào tình trạng khủng hoảng niềm tin
thậm chí mất niềm tin. Vì thế trong những trường hợp này phương pháp xây
dựng lại niền tin là một phương pháp giáo dục quan trọng giúp cho trẻ khôi
phục lại niềm tin. Để xây dựng lại niềm tin chúng ta có thể sứ dụng các
phương pháp thơng thường như nói chuyện, giảng bài, tranh luận… Nhưng
điều cần chú ý là nên tránh tình trạng áp đặt đối với trẻ, bắt trẻ phải miễn
cưỡng nghe theo ý kiến của giáo viên. Trái lại thầy giáo phải bằng sự hiểu
biết, bằng năng lực, nghệ thuật sư phạm và bằng uy tín, vị thế của mình mà
tạo ra những tình huống nhận thức về đạo đức, để thông qua việc giải quyết
các tình huống ấy trẻ có thể rút được những ý kiến cho bản thân, cho đúng với
ý đồ tạo dựng lại niềm tin cho trẻ.
Thực ra trong tập thể học sinh mỗi em đều có đặc điểm tâm lý, những
cá tính riêng và độc đáo việc thiếu cá biệt hố trong giáo dục sẽ dẫn đến kết
quả là chỉ đa số học sinh phát triển đúng với yêu cầu còn một số trẻ khác thì
dễ có những biểu hiện khơng giống với số đơng. Từ đó có thể sinh ra những
lệch lạc, sai lầm. Mặt khác trẻ em là những thực thế hồn nhiên đang phát triển
vì thế một sự vụng xử sư phạm có thể dãn đến những tốn thương ở các em
như tự ái, tự ti, mặc cảm nhiều lúc trẻ cịn có sự nghi ngờ của chính bản thân
mình. Thậm chí có giáo viên cùng một lúc còn đặt ra hàng loạt những yêu cầu
rất cao đối với trẻ bắt trẻ phải thực hiện ngay. Nhiều giáo viêncịn một mực
bắt trẻ phải điều chỉnh ngay mà khơng hề giải thích cho trẻ lý do tại sao.

22


Đó là những nguyên nhân gây ảnh hướng trực tiếp đến tâm lý và sự
phát triển nhân cách của trẻ. Nhà sư phạm lối lạc A.K. Makanerơ đã
nói:”Khơng bao giờ đề ra cho trẻ những yêu cầu nếu chúng không được chuẩn

bị đầy đủ để thực hiện tốt các yêu cầu đó”.
Để xay dựng và hồn thiện năng lực “ Cảm hố” học sinh địi hỏi người
thầy giáo phải khơng ngừng phấn đấu và tu dưỡng để có nếp văn hoá cao, một
phong cách mẫu mực nhằm tạo ra một uy tín chân chính và thực sự, biểu hiện
từ cứ chỉ lời nói đến tinh thần lao động hăng say, sáng tạo, ý tưởng về nghề
nghiệp cao đẹp. Đồng thời xây dựng mối quan hề thầy và trò tốt đẹp; vừa thân
mật vừa nghiêm túc lại vừa có thái độ yêu thương, tin tưởng học sinh, biết
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Ln có tư thể tác
phong gương mẫu trước học sinh: Ăn nói lịch sự, nhã nhặn. tơn trọng cứ chỉ
đẹp, đàng hồng….
Tóm lại sức hút của cảm hố hồn tồn bắt nguồn và hiện thân từ chính
bộ mặt chính trị đạo đức và tài nghệ sư phạm của người thầy giáo. Cuối cùng
trong năng lực này người thầy giáo phải luôn ghi nhớ một điều rằng: “ Cái gì
xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim.”

23


C. KẾT LUẬN VÀ ĐÊ XUẤT Ý KIẾN
I. Kết luân.
Năng lực, đạo đức cũng như phẩm chất của người thầy giáo có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng trên con đường giảng dạy và phát triển nhân cách học
sinh. Nhân cách là tài sản vô cùng quý giá của con người và là phương tiện
vạn năng mà người giáo viên dùng để giáo dục trẻ. Hơn nữa nghề đào tạo con
người là một nghề lao động nghiêm túc, không được phép thứ phẩm chứ
khơng nói gì đến phể phẩm như một số ngành khác. Vàng bạc, kim cương đều
là những thứ rất quý nhưng không thể nào sánh được với nhân cánh, với tâm
hồn của một con người.
Để giáo dục và phát triển nhân cách cho trẻ người thầy giáo phải có đầy
đủ năng lực giáo dục để tạo ra một lớp người Việt nam cường tráng về thế

chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn
minh nhân loại mà bản sắc văn hố dân tộc vẫn được giữ vững. Đó là nhiệm
vụ của tồn xã hội nhưng trong đó người thầy giáo giữ vai trị quyết định. Để
hồn thành sứ mệnh cao cả của một người giáo viên mỗi người thầy giáo phải
khơng ngừng tự đổi mới, hồn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có
ý thức quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt
công tác “ Dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy phải không
ngừng nâng cao năng lực sư phạm và tác phong mẫu mực của một nhà giáo.
Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong sư phạm, thành công
không kiêu căng, thất bại khơng nản trí. Thương u gần gũi với học sinh,
đồn kết đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những “Tấm gương
sáng cho học sinh nói theo”.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh – đó
là nguồn gốc sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là
24


giá trị gốc “Giá trị sinh ra mọi giá trị” những người thầy giáo của hôm nay và
mai sau hãy tự hào với truyền thống vẻ vang của nền giáo dục và cùng chung
sức để làm cho truyền thống đó ngày càng được tiếp thêm sức mạnh, góp
phần đất nước giàu mạnh, phồn vinh.
II. Đề xuất ý kiến
Là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường hơn thế nữa tôi lại là
một sinh viên đang theo học ngành sư phạm tương lai của tôi cũng sẽ là “
Người thầy” đi giao cái chữ cho học trò, người đi giao mầm cho nhiếu thế hệ
học sinh, bởi vậy tôi luôn luôn cố gắng phấn đấu học tập chăm chỉ và rèn
luyện thật tốt để xứng đáng là một sinh viên của trường Đại Học Vinh với 50
năm xây dựng và trưởng thành. Xa hơn nữa là để sau này trở thành một người
giáo viên có năng lực giỏi, nhân cách và phẩm chất thật sự tốt để góp phần
nhỏ cơng sức của mình cho ngành giáo dục. Để truyền thụ cho học sinh thật

nhiều kiến thức, sản xuất được nhiều sản phẩm – đó chính là nhân cách của
học sinh, góp phần xây dựng đất nước ngày một phát triển hơn.
Một người giáo viên có trình độ học vấn cao chưa hắn là một người
giáo viên giỏi. Người giáo viên giỏi là người khơng những có trình độ học
vấn mà cịn phải có đủ năng lực sư phạm. Bằng sư tâm huyết của nghề, bằng
lòng yêu trẻ, người giáo viên có thể sứ dụng hết năng lực của mình để đem
đến nguồn tri thức cho trẻ.
“ Người giáo viên giỏi không phải là người đem chân lý đên cho học
sinh mà là người chỉ cho học sinh con đường tìm đến chân lý.”

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×