Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

hiểu thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa GDQP trường đại học vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.69 KB, 28 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như Bác Hồ đã từng nói: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp được
hay khơng? Dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay khơng? Chính là nhờ vào việc học tập của các
cháu”. Vậy để làm được như lời bác nói chúng ta phải làm gì? Là sinh viên đang
ngồi trên ghế giảng đường cần phải có trách nhiệm như thế nào để đưa đất nước
đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu đó là chúng ta pphải ra sức học
tập.Vậy vấn đề tự hoc thời nay như thế nào?
Hiếu học là truyền thống tốt đẹp của các thế hệ học sinh, sinh viên Việt
Nam. Mà trong những năm qua cùng với những lịch sử của đất nước đã chứng
minh điều đó. Một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như vũ
bảo của thế giới. Những thành quả khoa học không ngừng phát triển. Chính vì
vậy, mổi thanh niên, mổi sinh viên chúng ta cần phải trau dồi kiến thức, hoàn
thiện nhân cách đó là nhiệm vụ hang đầu. Để khơng bị tụt hậu so với thời đại thì
việc học tập chính là con đường ngắn nhất và duy nhất để chúng ta tiếp cận
những thành tựu trí thức của các thế hệ đi trước dẫ tích lũy và truyền đạt lại.
Biến những kiến thức kinh nghiệm đó trở thành hiểu biết của bản than.
Lê nin đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi”. Đúng như vậy từ khi sinh ra
chúng ta đã phải học lẫy, học bò, lớn lên đi học mẫu giáo, học cách chơi. Học
không bao giờ là thừa bởi vì trí thức khơng có giới hạn, càng hiểu biết nhiều thì
ta càng hồn thiện hơn về nhân cách, tâm lý con người. Nhưng làm gì và làm
như thế nào để chúng ta có thể tiếp cận, tiếp thu, chiếm hữu, lĩnh hội tri thức và
nền văn hóa xã hội, những kiến thức mà những thế hệ đi trước đã tích lũy và
truyền đạt lại.
Đó là một câu hỏi lớn dành cho bản than mỗi sinh viên chúng ta với tư
cách lực lượng tri thức tương lai rất quan trọng của đất nước. Đây là lứa tuổi mà
sự phát triển cả về thể chất lẫn nhân cách hết sức mạnh mẽ và ở mức độ cao

1



nhất. Hơn bất cứ lứa tuổi nào hết, sinh viên là lứa tuôpỉ hướng về cái mới, tiếp
nhận cái mới, khao khát được sang tạo và cống hiến cho đất nước. Họ không chỉ
tiếp nhận, kế thừa các di sản tinh thần, vật chất của thế hệ cha ông mà còn biết
cải tiến và phát triển các giá trị tinh thần đó dể nhanh chóng đấp ứng được
những yêu cầu của cuộc sống hiện tại đặt ra ngày càng khắt khe đối với lực
lượng lao động mới: “Cái tài phải đi đôi với cái đức”. Và hiện nay Bộ Giáo dục
và đầo tạo đã có nhiều cải cách về chương trình học và dạy học, đặc biệt cách
học sự lĩnh hội kiến thức của sinh viên trên giảng đườngdã có nhiều thay đổi.
Và những cải cách đó đã được Trường Đại học Vinh áp dụng, đặc trưng
nhất là áp dụng chương trình học ( một tiết trên giảng đường bằng ba tiết tự học
ở nhà). Những sinh viên của khoa Giáo Dục Quốc Phịng nói chung, các bạn
K50A GDQP đã để thích nghi với cải cách mới. Các bạn sinh viên đả tận dụng
được hết thời gian tự học và sử dụng thời gian đó đả có hiệu quả chưa?
Chính vì thực tế đó đả thơi thúc tơi với tư cách là một sinh viên năm thứ
nhất (K50A- GDQP). Với khát khao nghiên cứu khoa học tìm hiểu thêm về họat
động tự học tìm tịi nghiên cứu sinh viên tơi quyết định lựa chọn đề tài: “Bàn về
vấn đề tự học của sinh viên khoa Giáo Dục Quốc phòng - Trường Đại học
Vinh”. Từ đó xây dựng cho mình một khái niệm về hoạt động tự học. và từ đó
đề xuất những ý kiến, tạo cho bản than phương pháp tốt nhất để tận dụng triệt để
và nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học.
II. MỤC ĐÍCH TÌM HIỂU ĐỀ TÀI
Tìm hiểu thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa GDQP-Trường
Đại Học Vinh, đối chiếu với lý luận thực tiễn và kinh nghiệm, nêu lên một số
biện pháp để góp phần nâng cao chất lượng và năng suất của hoạt động tự học
của sinh viên.
III. NHIỆM VỤ CỦA VIỆC TÌM HIỂU ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tự học.
- Nghiên cứu về mục đích, ý nghĩa của hoạt động tự học.
2



- Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trong vấn đề tự hoc.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tự học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài sử dụng các phương pháp :
-

Phương pháp sủ dụng tài liệu.

-

Phương pháp phân tích tổng hợp – so sánh.

-

Phương pháp quan sát :

Quan sát tình hình tự học của sinh viên khoa GDQP như đọc sách, ghi
chép, làm bài tập .
-

Phương pháp điều tra:
Điều tra thực trạng nhận thức về hoạt động tự học của sinh viên khoa

GDQP thông qua phiếu điều tra

3



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ TỰ HỌC.
1.Trên thế giới
Trong những năm cuối thế ki xx, thời đại của khoa học phát triển thì các
nhà nghiên cứu đã chủ động tìm hiểu về vấn đề dạy và học. Giáo dục và giáo
dưỡng nhằm đào tạo những con người có đầy đủ cả tài và đức nhằm đáp ứng kịp
thời những nhu cầu ngày càng khắt khe của xã hội .
Trước kia, ở chế độ phong kiến phương dơng thì vai trị của thầy giáo rất
được coi trọng. Thầy giáo chính là cha mẹ và học sinh phải tuân theo một kỉ luật
khắt khe, họ phải phục tùng một cách rập khuôn, mù quáng những lời dạy của
thầy, ứng dụng công thức của nền giáo dục đương thời là: Thầy đã nói “nghĩa là
chân lý, lời thầy nói thì nhất định đúng khơng thể nào khác đi được” thầy giáo
thì ln ln đúng cịn học sinh thì học mọt cách máy móc, khơng có sáng tạo.
Vì vậy, việc dạy nhồi nhét kiến thức, dạy từ chương trình cũ và cả phương pháp
bắt buộc học sinh học gạo, hoc vẹt, học thuộc lòng chiếm ưu thế trong các
trường học và ngay cả trong việc thi cử.
Theo J.A.Comxky(1592-1670), tính trực quan tạo ra khả năng làm cho
nhà trường trở nên sinh động nó dạy cho học sinh hiểu và nghiên cứu thực một
cách độc lập cần gắng sức làm cho con ngưòi dành lấy kiên thức khơng những ở
sách vở mà cịn ở bâù trời và trong thưc tế cuộc sống và tốt nhất học sinh có thể
lĩnh hội được nhiều kiến thức và kĩ năng thực hành thì học sinh phải tim hiểu tát
cả những biện pháp nghề nghiệp chung nhất .
Còn về phần Adoffdixtecvec(1790-1866)thì việc dạy học có tính giáo
dục : nó tác động không những đến tư duy mà cả đến tình cảm và ý chí nữa. Gây
nên “tính sang tạo cá nhân, tức là phát huy được tính tích cực của học sinh .
Trong những thập kỷ gần đây nhiều ngành khoa học kỹ thuật phát triển
góp phần tích cực đẩy nhanh tốc độ văn minh của nhân loại lên một bước mới.
4



Khoa học giáo dục đã kịp thời đáp ứng nhu cầu nhận thức của học sinh, sinh
viên chưa? Người học sinh nói chung và sinh viên Đại Học, Cao đẳng nói riêng
đã giữ vai trị chủ động trong việc tiếp thu kiến thức trong quá trình học và trong
thời gian gần đây đang rât quan tâm đến vai trò chủ thể và ý thức chủ động đối
với việc học tập mà trung tâm của nó là vấn đề tự học .
2.Ở Việt Nam
UNESCO nói: “Học để biết, học để làm, học để khẳng định mình, học để
sống chung với ngưịi khác”.
Ở Việt Nam ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hồ mới ra đời Bác
Hồ đã nói: “ Dân tộc Việt Nam có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu
hay khơng chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu…” Lời Bác
cũng là nguyện vọng của toàn dân nên dù xuất phát điểm thấp với 95% người
dân mù chữ, chúng ta đã có cơ ngợi giáo dục như ngày nây mà con số 2,1 triệu
người thi vào Đại Học năm 2001 là minh chứng hùng hồn. Cho nên, mỗi người
Việt Nam đều phải tâm niệm là chúng ta phải học sao cho sớm sánh vai cùng
cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã từng nói.
Vấn đề tự học của sinh viên các trường Đại Học, Cao đẳng, Trung học
trong thời gian gần đây đã được các ngành các nhà Giáo Dục quan tâm và đã có
nhiều cơng trình bàn về vấn đè này trên nhiều khía canh khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 5 điều về vấn dề tự học:
-

Việc đầu tiên trong tự học “ xác định rõ mục đích học tập”

-

Tự mình lãnh đạo để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.

-


Phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập bền bỉ, kiên trì thực hiện kế

hoạch đến cùng, khơng lùi bước trước mọi trở ngai.
-

Bảo đảm cho các điều kiện cho tự học .

-

Ra sức rèn luyện, thực hành một cách tích cực.

5


Báo tuổi trẻ ngày 3-10-2000 đã mời các giảng viên Đại Học , các nhà
quản lí sinh viên toạ đàm về vấn đề “nâng cao chất lượng đào tạo Đại Học”.
Hiện nay công việc dạy học ở Đại học bao gồm hai phần “cung cấp kiến thức và
hướng dẫn cách học”. Đó là chưa nói đến nhiệm vụ lớn của giảng viên Đại học,
đó là giúp sinh viên rèn luyện năng lực truyền thống, khnăng phương pháp luận
và phân tích, tức là rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo nhưng thực tế dạy học
chủ yếu chỉ làcung cấp kiến thức.
Dù tình hình dạy học và học ở Đại học đang ngổn ngang, người dạy và
người học, nhất là sinh viên cần phải làm gì để dành lấy những tiến bộ rõ rệt cho
chính bản thân mình, làm bản thân hồn thiện nhận thức của mình.
Như tiến sỹ Chu Hạo thứ trưởng bộ khoa học công nghệ môi trường đã trả
lời thẳng vào câu hỏi về kinh nghiệm của riêng ông trong việc tự học. Khi nói về
tự học, người ta thường nghĩ rằng tự học là học riêng cho mỗi người. Không
phải như vậy, cách học tốt nhất là học theo nhóm”.Mỗi khi muốn hiểu rõ, hiểu
sâu về một đè tài nào đó tơi tự cầu mình viết bài về đề tài đó. Vậy là tơi phải tự

tìm tài liệu để học, trao đổi và đầo sâu nắm vững những điều lien quan đến ván
đề đó một cách mạch lạc. Đó là chưa kể đến việc phải chuẩn bị các phụ lục tài
liệu cho những khúc mắc, phức tạp phịng khi trình bày có thể bị chất vấn.
Nhưng muốn học, muốn hiểu sâu về một chủ đề nào đó thì điều quan
trọng nhất đó là phải tự mình chạm đến nó trước trong đầu, như gieo mầm cho
việc tiếp thu, thẩm thấu của mình. Khi học đã tiếp thu, tự tiếp nhận kiến thức vì
vai trị của thầy giáo là không thể thiếu. Tuy nhiên bản chất của tự học chính là
tự làm việc với chính bản thân mình tr]ớc khi nghiên cứu tài liệu sao cho hiệu
quả, trao đổi với bạn bè theo cách học với nhau để góp ý cho nhau khắc phục.
Đồng thời được thầy khơi gợi ý tưởng nguồn cảm hứng trong học tập.
Ở nấc thang của hình tháp có ghi các mức độ tiếp thu và nhớ được trong
học tập:
- Nghe giảng: 5%.

6


- Đọc: 10%.
- Nghe nhìn: 20%.
- Làm thí nghiệm: 30%.
- Thảo luận nhóm: 50%.
- Làm bài tập ở nhà, ghi viết lại, viết lại: 75%.
- Dạy người khác: 90%.
Qua hình tháp này cho ta thấy: học mà chỉ nghe thì chỉ nhớ được 5%
những gì đã nghe. Đọc bài chỉ nhớ 10% . Được làm thí nghiệm nhớ được 30% .
Thảo luận nhóm nhớ được 50%. Thực hành bằng cách làm bài tập ở nhà và ghi
lại, viết lại nhớ được 75%. Nhớ được nắm vững nhất là giảng dạy bài cho người
khác, do ứng dụng được những gì đã được ngay sau khi học nên tỉ lệ nhớ bài là
rất cao 90%.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ HỌC.

1. Khái niệm về tự học.
Tự học là hình thức hoạt động cá nhân do bản thân người học nổ lực thực
hiện nhiệm vụ học tập có hiệu quả ở trên lớp hay ở nhà, khi đang ngồi trong ghế
nhà trường và trong suốt cuộc đời. tự học là một quá trình tự bản thân mình tìm
cách tiếp cận, lĩnh hội và tiếp thu tri thức với những mục đích nhất định.
Bất cứ người nào, dù người nào dù người đó là ai, sống ở đau và có khả
năng hay khơng có khả năng, nếu muốn đều có thể làm cho mình thực sự có văn
hố và có lợi cho xã hội bằng những cố gắng của bản thân, bằng đức tình kiên
nhẫn và chịu khó. Tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học. Tất cả mọi người đều
có thể tự học được cả, khơng cái này thì cái khác, khơng ít thì nhiều. Một người
học được lại trở thành luật sư. Như vậy, người đó phải tự nghiên cứu về luật học.
Hoạt động của sinh viên có thể diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của
giáo viên và khi đó sinh viên là chủ thể nhận thức tích cực phải huy động mọi
phẩm chất tâm lý cá nhân, tiến hành hoạt động học tập để lĩnh hội tri thức theo

7


sự dẫn dắt của giáo viên và khi khơng có giáo viên điều khiển trực tiếp, thì sinh
viên phải tự mình xây dựng kế hoạch kĩ năng thực hiện và kiểm tra kế hoạch tự
học, xác định được rõ ràng cụ thể nhiêm vụ thì quá trình tự học của sinh viên
mới có thể chuyển từ “tự phát” đến hồn toàn “tự giác”. Huy động toàn bộ năng
lực, hiểu biết của bản thân để ôn tập, củng cố, đào sâu, mở rộng và hồn chỉnh
tri thức qua đó mà lĩnh hội được tri thức mới chính vì vậy hoạt động tự học là
q trình độc lập, nỗ lực, tìm tịi khám phá tri thức của sinh viên dưới sự tổ chức
và điều khiển gián tiếp của giáo viên nhằm củng cố, mở rộng, đào sâu những tri
thức đã lĩnh hội được ở trên lớp, sinh viên độc lập thực hiện các hoạt động tự
học do chính nhiệm vụ dạy học đặt ra .
Tự học là một yếu tố quyết định chất lượng đào tạo. Như ta biết giáo dục
chính là một hiện tượng xã hội, lịch sử là một quá trình biến yêu cầu khách quan

thời đại thành những phẩm chất năng lực cá nhân nhằm đào tạo ra những con
người phù hợp với mục tiêu xã hội. Vì vậy trong quá trình giáo dục thì vấn đề tự
học là điều bên trong quyết định phần lớn đến kết quả chất lượng giáo dục. Còn
người giáo viên lúc này là người hướng dẫn, người cố vấn động viên kích thích
hỗ trợ cho q trình tự học đó.
II. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
1. Mèi quan hƯ gi÷a tù häc và quá trình tự học.
Tự học đó là hình thức hoạt động mang tính chất cá
nhân do bản thân ngời học nỗ lực học tập ở trên lớp hay ngoài
lớp. Nã cã mèi quan hƯ mËt thiÕt ®èi víi viƯc học ở lớp đối với
học sinh sinh viên, nó luôn song song tồn tại trong quá trình
học tập và chỉ có quá trình học ở lớp, ở trờng nghĩa l sinh
viên đợc hớng dẫn tìm ra phơng hớng, nắm bắt đợc vấn đề
mà không có hoạt động thực tiễn, áp dụng vào các tình huống
cụ thể thì lý thuyết vẫn chỉ là lý thuyết nghĩa là việc học
không đi đôi với hành dẫn tới chất lợng sẽ không cao .

8


Nhng bên cạnh đó nếu sinh viên không có sự hớng dẫn của
giảng viên thì dẫn tới khó khăn trong việc xác định bản chất
vấn đề gây ra tình trạng bế tắc trong việc giải quyết vấn
đề. Nh vậy học và tự học luôn đi kèm với nhau, bổ sung cho
nhau tạo nên thế cân bằng giúp sinh viên định hớng và nâng
cao chất lợng tìm hiểu .
Nhà văn S.IZINONEW, ngời Nga đà viết:
Tự học đó là việc học tập độc lập của ngời sinh viên và
diễn ra song song với quá trình học trên lớp, hai quá trình này
có mối quan hệ mật thiết với nhau . Thực tế đà chứng minh

một cách rõ ràng tự học có vai trò rất lớn trong quá trình học
, chỉ có tự học với sự nỗ lực cao, t duy sáng tạo mới tạo điều
kiện cho việc tự học tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, mới
hiểu đợc chân lý và tìm ra hớng giải quyết tốt nhất cho vấn
đề đó. Vậy để tự học đạt kết quả cao ta phải có những hoạt
động nh thế nào cho hợp lý ?
2. Tự học là một khâu trong quá trình dạy học.
Dạy học là con đờng chủ yếu, là con đờng cơ bản của bất
cứ nhà trờng nào để nhằm mục đích giáo dục, nâng cao
trình độ tri thức cho học sinh sinh viên. Hoạt động dạy học
luôn luôn có hai hoạt động đó là : hoạt động dạy của giáo viên
và hoạt động học của sinh viên. Hai hoạt động này là hai quá
trình không thể tách rời nhau mà quá trình hoạt động chung
của nó thống nhất biện chứng với nhau trong quá trình dạy và
học .
Hoạt động dạy của giảng viên đóng vai trò là lÃnh ®¹o, tỉ
chøc, ®iỊu khiĨn ho¹t ®éng nhËn thøc cđa sinh viên để mỗi cá
nhân tích cực hoạt động tìm hiểu vấn đề. Hay nói cách khác
9


giảng viên là cầu nối trung gian giữa sinh viên và tri thức
nhân loại , truyền đạt cho học sinh, sinh viên những tri thức
mình đà có tạo nên tri thức mới nhằm biến đổi bản thân chủ
thể. Tuy nhiên bên cạnh hoạt động dạy, hoạt động tự học lại là
con đờng tốt nhất giúp sinh viên nắm đợc bản chất của vấn
đề. Muốn vậy trong quá trình tổ chức hoạt động dạy cần tổ
chức cho sinh viên tích cực tham gia hoạt động tự học, tự
nghiên cứu .
Nếu hoạt động dạy là hoạt động giúp sinh viên trong việc

lĩnh hội tri thức thì hoạt động tự học lại là quá trình tiếp thu,
gia công và lu trữ thông tin thành sản phẩm trí tuệ. Đó là sự
phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan của
sinh viên, chính hoạt động đó đà chuyển mục đích của hoạt
động dạy thành mục đích và nhiệm vụ của hoạt động tự học
ở sinh viên. Bên cạnh đó nó cũng là phơng thức để chuyển
những kiến thức mà giáo viên truyền đạt thành tri thức cá
nhân bởi vậy hoạt động dạy học gắn bó mật thiết với hoạt
động tự học.
Vì vậy trong quá trình giáo dục cần biết kết hợp giữa
hoạt động dạy của ngời giáo viên với hoạt động tự học của học
sinh sinh viên nhằm nâng cao chất lợng đào tạo .
-

Giáo viên - giảng viên cần tìm hiểu, kích thích quá

trình tự học ở mỗi cá nhân, đa sinh viên vào các tình huống
có vấn đề để họ tự đa ra phơng hớng giải quyết vấn đề
nhằm phát huy tính độc lập và nâng cao khả năng t duy. Khi
đó giảng viên trở thành ngời dẫn ®êng, cè vÊn cho häc sinh,
sinh viªn.

10


- Nếu nh chỉ có hoạt động học ở trên lớp và hoạt động
dạy của giảng viên thì những vấn đề tiếp thu đợc sẽ nhanh
chóng bị quên do không nắm vững đợc bản chất của vấn đề
hoặc do không đợc vận dụng vào thực tiễn. Một khi hoạt động
dạy diễn ra mà ngay bản thân ngời học không có những kiến

thức cũ thì việc tiếp thu những kiến thức mới một vấn đề
hết sức khó khăn. Điều đó gây nên sự chán nản ở không chỉ
học sinh mà ngay cả ngời truyền đạt cũng sẽ nh vậy .
ADXTECVEC đà viết:
Nếu chỉ có sự truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi
thì dù có nghệ thuật tới đâu đi chăng nữa cũng không thể
đảm bảo sự lĩnh hội kiến thức, thực sự lĩnh hội chân lý, cái
đó tự ngời học lấy bằng trí tuệ của bản thân
Thực vậy dù một cá nhân đợc đào tạo bởi một giáo viên
giỏi, kiến thức uyên thâm nhng ngay bản thân không cố gắng
ôn luyện, không nỗ lực học tập thì kết quả thu đợc chỉ là con
số không .
Từ đó ta thấy đợc mối quan hệ mật thiết giữa hoạt động
dạy và hoạt động học. Đó là hai quá trình không thể tách rời
nhau, nó luôn đi kèm bổ sung cho nhau nhằm nâng cao hiệu
quả và nâng cao chất lợng trong quá trình giáo dục .

3. Hoạt động tự học là hoạt động phù hợp với đặc
điểm cá nhân.
3.1. Hoạt động tự học phù hợp với khả năng trí tụệ.

11


Mỗi ngời khi sinh ra đều có những đặc điểm riêng và
khả năng trí tuệ của mỗi ngời là khác nhau. Cã nh÷ng ngêi cã
trÝ nhí tèt, nhng ë mét số ngời thì ngợc lại. Có những ngời có
khả năng thuộc rất nhanh các bài thơ nhng có những ngời thì
điều đó lại rất là khó. Nh vậy là mỗi ngời có một khả năng t
duy, một trí nhớ khác nhau. Tuy nhiên điều đó không quyết

định tất cả tới năng lực của mỗi ngời, điều đó còn phụ thuộc
vào rÊt nhiÒu yÕu tè nhng cã mét yÕu tè rÊt quan trọng đó là
hoạt động tự học phù hợp với đặc điểm của mỗi cá nhân. Mỗi
ngời cần phải biết đợc đâu là điểm mạnh, đâu là điểm yếu
của mình từ đó đa ra một kế hoạch học tập hợp lí và liệu phù
hợp với khả năng, chẳng hạn:
- Nếu một ngời có trí nhớ không tốt thì không nên bắt
đầu đọc sách đà chọn những quyển sách nhiều công thức hay
nhiều sự kiện điều đó sẽ gây cho bạn cảm giác chán nản. Nh
vậy ngay cả việc chọn sách phù hợp với khả năng của mỗi ngời
cũng ảnh hởng không ít tới chất lợng học tập.
- Những ngời có khả năng t duy tốt chọn những quyển
sách mang tính logíc và cần suy luận đồng thời chọn cho
mình một cách học phù hợp.
- Từ đó ta có thể đa ra kết luận rằng: Trong quá trình tự
học vấn đề khả năng sẽ đợc giải quyết nếu ngời tự học biết
dựa vào những đặc điểm của bản thân mà lựa chọn cho
mình những phơng pháp học tập hợp lí.
3.2. Hoạt động tự học phù hợp với cuộc sống thực tại.
Cuộc sống xung quanh chúng ta muôn màu muôn vẻ và
mỗi ngời có một hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt là kh¸c nhau

12


vì vậy mỗi ngời lựa chọn cho mình một kế hoạch hoạt động tự
học sao cho hợp lí.
- Nói đến tự học không có nghĩa là chỉ tự học trong sách
vở mà có thể học ngay trong hoạt động thực tiễn nhng học thế
nào cũng là một nghệ thuật điều đó lí giải vì sao có những

ngời hiểu biết rất nhiều về cuộc sống mà có những ngời thì lại
không biết gì mặc dù họ sống trong cùng một cồng đồng xÃ
hội. Phải luôn tự đặt cho mình câu hỏi vì sao trong mỗi một
hoàn cảnh, đặc biệt trong sinh viên khi mà xung quanh luôn
diễn ra rất nhiều hoạt động nh gia s, tiếp thị đó cũng chính
là môi trờng để bạn học hỏi thêm nhiều kiến thức bổ ích.
- Hoặc có những bạn vì điều kiện mà không có nhiều
thời gian để ôn bài nhiều đòi hỏi các bạn phải có một cách
học, một cách t duy riêng nhằm mục đích hiểu bài học một
cách tốt nhất.
Nh vậy hoạt động tự học đợc diễn ra dới nhiều hình thức,
nhiều hoạt động khác nhau sao cho phù hợp với từng đặc điểm
cá nhân là một điều hết sức cần thiết đối với mỗi ngời, nó có
ảnh hởng mạnh mẽ tới chất lợng học tập của mỗi ngời .
3.3

Hoạt động tự học là hoạt động mang tính tự

giác, độc lập, chủ động và tích cực sáng tạo cao.
3.3.1. Hoạt động mang tính tự giác.
Hoạt động tự học là một quá trình tự vận động, tự ý thức
của mỗi ngời học, nó đi từ chỗ cha biết đến chỗ biết, từ chỗ
biết ít đến biết nhiều, đến ngày càng đầy đủ, hoàn thiện
hơn . Nhờ đó con ngời nắm đợc những kĩ năng, kĩ xảo tơng
ứng nhằm cải thiện bản thân m×nh.

13


Tính tự giác của hoạt động tự học của mỗi ngời nó thể

hiện ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh đó là sự tìm tòi khám phá
mọi sự vật, hiện tợng trong cuéc sèng ngay ë trong cuéc sèng.
Ngoµi ra tÝnh tự giác này còn biểu hiện rất rõ trong hoạt động
ở lớp, ở trờng của mỗi sinh viên ,nó thể hiện ở các mặt :
- Sự huy động ở mức cao nhất các chức năng tâm lý, các
giác quan, sự t duy ,sự chăm chú nghe giảng và tích cực phát
biểu xây dựng bài. Đồng thời với hoạt động trên lớp là hoạt động
tự học ở nhà, tự đọc tài liêụ nhằm hoàn thành số lợng bài tập
đợc giao.
- Bên cạnh đó hoạt động này còn mang tính tự giác đợc
thể hiện ở việc tìm thêm tài liệu, sách báo hay ở việc hiểu các
sự việc gắn liền với cuộc sống nhằm bổ sung các kiến thức mới
mà không mang tính trách nhiệm phải hoàn thành. Nhờ hoạt
động này mà con ngời sẽ có đợc sự hiểu biết sâu rộng hơn,
thực tiễn và phong phú hơn.
Hoạt động tự học mang tính tự giác còn biểu hiện rõ ở
quá trình tự đành giá bản thân, tự đa ra kết quả và nhận xét
nhằm rút ra kinh nghiệm và những bài học trong quá trình
hoạt động. Đó là thể hiện cao nhất của quá trình tự giác.
3.3.2. Hoạt động mang tính độc lập chủ động và tích
cực sáng tạo.
Hoạt động tự học sinh viên là một hoạt động mang tính
độc lập và chủ động cao. Trong quá trình học tập trên lớp mỗi
sinh viên phải chủ động ghi chép bài theo một cách riêng chứ
không còn hình thức thầy đọc trò chép nh trớc đây. Mỗi
ngời phải tự đánh giá xem phần nào là quan trọng, phần nào

14



cần chú ý. Từ đó dẫn tới việc mỗi cá nhân sẽ có một cách suy
luận riêng và một cách t duy cũng khác nhau.
Bên cạnh hoạt động trên lớp là nh vậy thì hoạt động tự học
ở nhà của sinh viên còn mang tính độc lập cao hơn bởi nó
không có ngời hớng dẫn, giảng giải trong quá trình tìm hiểu tri
thức .
- Ngoài ra công tác tự học là quá trình chủ động lựa chọn
tài liệu học, tự xây dựng chơng trình học tập cho bản thân,
tự xắp xếp thời gian cho các môn học và khắc phục những
khó khăn gặp phải trong quá trình tìm hiểu tri thức.
Vây những nguyên nhân nào thúc đẩy hoạt động tự học
?
3.3.3. Những nhuyên nhân thúc đẩy hoạt động tự học.
- Do sự mâu thuẫn giũa những cái mình đà biết và
những cái mình cha biết ngày càng lớn( bởi vì càng học tập
con ngời càng thấy những hiểu biết của m×nh thËt Ýt ái so víi
x· héi ) dÉn tíi con ngời cần thúc đẩy công tác tự học nhắm
giải quyết mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn giữa cái mình cần học và cái bản thân
mình cha có.
- Trong quá trình học tập có lúc nào đó con ngời tự bằng
lòngvới những cái mình đà biết nhng niềm đam mê khám phá
thúc đẩy con ngời vơn lên tìm hiểu khoa học.
Tuy nhiên cần chú ý rằng những mâu thuẫn trên chỉ trở
thành hành động khi sinh viên tự ý thức vai trò của hoạt động
tự học và phù hợp với từng lứa tuæi.

15



4. Hoạt động tự học là hoạt động chủ đạo của sinh
viên.
Cuộc sống sinh viên sảy ra rất nhiều hoạt động phong phú
nh:hoạt động đoàn, hoạt động lớp, các hoạt động văn thể, tuy
nhiên trong giai đoạn này hoạt động đợc xem là chủ đạo, là
trung tâm hàng đầu của sinh viên là hoạt động tự học.
Mặc dù hoạt động này đà đợc nảy sinh trong lòng các giai
đoạn trớc đặc biệt là giai đoạn trung học phổ thông tuy nhiên
giai đoạn này mới là giai đoạn để hoạt động này bộc lộ một
cách rõ ràng nhất. Nguyên nhân tại sao lại nh vậy, đó chính bởi
hình thức đào tạo mới trong các trờng đại học, hình thức đào
tạo cũ thầy đọc trò chép đà đợc thay thế bằng hình thức
đào tạo mới đó là thầy chỉ là ngời hớng dẫn còn sinh viên mới là
trung tâm chính của hoạt động học trên lớp từ đó dần dần
hình thành ý thức tự học ở sinh viên.
Trong giai đoạn sinh viên mỗi sinh viên phải tiếp xúc với
hình thức mới đó là hình thức thảo luận, nghĩa là sinh viên
phải tự soạn đề cơng theo cách hiểu của mình từ đó đa ra ý
kiến riêng của bản thân nhằm nâng cao chất lợng hiểu bài và
khả năng khái quát các vấn đề.
Hoạt động tự học có thể xem là một quá trình nhận thức
đặc biệt nó thể hiện ở hai yếu tố đó là:
- Bên trong: Đó là thái độ cả chủ thể trong quá trình hoạt
động, nó biểu hiƯn ë sù tù ngun, tù gi¸c høng thó tham gia.
- Bên ngoài: Thể hiện ở sự huy động cao các chức năng
tâm lý, sự tập trung chú ý, sự căng thẳng trí tuệ, tính tích
cực hoạt động . Tuy theo mức độ huy động các chức năng tâm
lý mà kết quả đem lại là nhiều hay ít.
16



Không chỉ tồn tại trong giai đoạn này hoạt động tự học
còn tồn tại trong con ngời ở những giai đoạn tiếp theo bởi đó
là một

yêu cầu không thể thiếu ®èi víi ®êi sèng con ngêi

nh»m thâa m·n nhu cÇu tìm hiểu khoa học và phù hợp với yêu
cầu xà hội.
Bên cạnh đó hoạt động này giúp sinh viên hình thành
những cấu tạo tâm lý mới nh khả năng cảm nhận, tính độc lập
sáng tạo và nâng cao ý thức tự giác của mỗi cá nhân.
5. Hoạt động tự học cã ý ngi· rÊt quan träng
Do sù ph¸t triĨn cđa khoa học kĩ thuật mà không thể
đặt ra mức độ khối lợng kiến thức nhất định cho nên công tác
tự học giữ vai trò lớn lao trong công việc nâng cao tÝch cùc
ho¹t động trí tuệ của người sinh viên trong nhà trường Đại học và Cao đẳng
nhằm tiếp thu kiến thức mới và hệ thống của nó, mọi cố gắng của sinh viên đều
hướng tới việc chỉnh lý và tiếp thu một cách sáng tạo các thơng tin có lựa chọn,
tìm tịi nghiên cứu thêm các tài liệu tham khảo làm bài giảng bổ sung kiến thức ,
nâng cao hiểu biết và thói quen nghế nghiệp.
Điều quan trọng trong vấn đề tự học đó là vai trị của động cơ nghề
nghiệp ngày càng có nhiều yêu cầu khắt khe về năng lực chứ không dựa vào tấm
băng tốt nghiệp mà sinh viên cầm trên tay.
Và việc tự học giúp mỗi sinh viên tự vận động từng bước chạm tới trí thức
và biến những kinh nghiệm, tri thức cửa lồi người mà các thế hệ đi trước đã
tích luỹ trở thành vốn hiểu biết của chính bản thân. Tự học cũng chính là thể
hiện nhân cách và ý thức trách nhiệm của sinh viên đối với tương lai của chính
mình. Tự học giúp cho sinh viên hình thành niềm tin vào khoa học, rèn luyện ý
chí, phấn đấu đức tình kiên trì, óc phê phán, tinh thần khắc phục khó khăn. bồi

dưỡng hứng thú học tập, lòng say mê nghiên cứu khoa học. Việc tự kiểm tra và
đánh giá kết quả học tập có ý nghiã giúp sinh viên thấy được những mặt còn yếu
17


cần phải khắc phục và những điểm mạnh cân phải phat huy trong q trình học
tập.
Tự học là hoạt đơng học tâp không thể thiếu của sinh viên đang học tại
các trường Đại Học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lí, khoa học có chất
lượng hiệu quả khơng những chỉ có ở nhà trường mà cịn là trách nhiệm của sinh
viên. Tự học chính là tự mình lao đọng trí óc để chiếm lĩnh tri thức. Trong tự
học bước đầu cịn có nhiều lún túng nhưng chính những lung túng đó đã thúc
đẩy sinh viên tu duy để thốt khỏi lúng túng, từ đó óc sáng tạo ngày càmg được
sáng tạo ngày càng đuợc phát triển .
Tự học có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn
thành nhiệm vụ học tập của bản thân đối với chất lượng và hiệu quả dạy học và
đào tạo trong nhà trường. Tự học là sựthể hiện đầy đủ vai trị chủ thể trong q
trình nhận thức của sinh viên đối với việc học tập của minh. Trong q trình đó
sinh viên hồn tồn chủ động, độc lập và tự tìm tịi khám phá để lĩnh hội tri thức
dưới sự chỉ đạo, điều khiển, động viên khuyến khích của giáo viên.
Để phát huy tính tích cực sang tạo của mình sinh viên cần rèn luyện
phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương phap nâng cao hiệu quả học
tập mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy phương pháp tự học
mới thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp tự
học sẽ trở thành cốt lõi của phương pháp học tập.

18


CHƯƠNG II . THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA

SINH VIÊN NGÀNH GDQP-TRƯỜNG ĐH VINH
1. Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học
Một bộ phận sinh viên chúng ta hiện nay giống như những cỗ máy gỉ rét,
sinh viên vào lớp viết chính tả và sau đó trả lời bài thuộc lòng, lắp ghép các kiến
thức rời rạc. Học đối phó để lấy cho đươc mảnh bang tốt nghiệp thế thôi. Việc
học đối với bộ phận sinh viên này là : “học phải ghi, thi phải thuộc”.
Hiện nay, chương trình học theo hình thức học chế tín chỉ đã dược trường
Đại học Vinh áp dụng vào khoá học K48. Vậy sinh viên bắt nhịp với vấn đề tự
học như thế nào ?
Chương trình học theo tín chỉ một tiết học trên giảng đường bằng hai ba
tiết hoc ở nhà. Giảng viên đóng vai trị là người hướng dẫn chỉ đường cho sinh
viên. Vì vậy, mà yeu cầu của mỗi sinh viên cần phải tự tìm hiểu tai liệu, cần phải
có thái độ đúng đắn trong việc học tập cũng như trong những vấn đè mà giảng
viên đã nói trên lớp hơn thế chúng ta cần phải tìm hiểu những kiến thức mở rộng
có liên quan đến mơn học.
Chính vì lượng kiến thức mà sinh viên khố 50 phải đảm nhận là rất nặng
nề, vấn đề tự học ở nhà là vơ cùng quan trọng và nó phải được tiến hành một
cách tự giác. Chất lượng học tập của sinh viên được đánh giá thông qua kết quả
học tập, tập trung ý chí cao khi giải quyết các bài tập khó, phải kiên trì, cần
mẫntìm ra đáp số bằng mọi phương pháp. Do khối lượng kiến thức áp dung cho

19


chương trình học theo tín chỉ rất nặng ma mỗi tiết chỉ có 45 phút khơng đủ để
cho giáo viên truyền đạt tỉ mỉ mà chỉ có thể cung cấp kiến thức cơ bản giúp sinh
viên nắm bắt được ý chính, nếu chi dựa vào bài học đó thì chắc kết quả sẽ không
cao cho nên cầm phải tập trung ý chí cao trong tự học và sử dụng triệt để nguồn
tư liệu thư viện chiếm 70,94%.
Hiện tại khoa Giáo Dục Quốc Phòng gồm 4 lớp 47A-GDQP với 50 sinh

viên, 48A-GDQP với 54 sinh viên, 49A-GDQP với 60 sinh viên và 50A-GDQP
với 49 sinh viên. Với 213 sinh viên đang sinh hoạt tại ký túc xá số II của trường
Đại Học Vinh.
Qua điều tra cho thấy tầm quan trọng của việc tập trung ý chí cao trong
học tập và thư viện có đủ sách 86% sinh viên K45A-GDQP, 65% sinh viên
K46A-GDQP, 70% sinhviên K47A-GDQP, 72,9% sinh viên K48A-GDQP, 62%
sinh viên K49A-GDQP, 71% sinh viên K50-GDQP.
Theo thực tế cho thấy có rất nhiều sinh viên đã xác định được vai trò của
hoạt động tự học đối với không chỉ cuộc sống thực tại mà cịn có ý nghĩa đối với
tương lai sau này. Từ đó những cá nhân ấy đã đưa hoạt động tự học trở thành
hoạt động chủ đạo.
Bên cạnh đó có những sinh viên có ý thức được tầm quan trọng của hoạt
động tự học tuy nhiên họ không đủ bản lĩnh và ý chí để biến suy nghĩ thành
hành động chỉ khi có một kích thích mạnh mang tính bắt buộc hoặc là lien quan
tới lợi ích cá nhân họ mới nảy sinh hoạt động tự học. Ví dụ như sinh viên vào
các mùa thi là một ví dụ điển hình.
Điều tồi tệ hơn nữa là có một số sinh viên chưa ý thức được hoạt động tự
học có vai trị như thế nào đối với cuộc sống của thân hoặc là có nhận thức được
nó nhưng do những tác động bên ngồi ảnh hưởng tới cách nhìn nhận về vấn đề
tự học. Từ đó dẫn tới tình trạng buông xuôi và bị hoạt động khác thu hút và
chiếm chổ của hoạt động tự học.

20


Nhưng sau khi điểm lại kết quả học tập của các khố trước cảm thấy
khơng như mong muốn thì sau khi đièu tra lại cho thấy 100% sinh viên nhận
thức được hoạt động tự học rất quan trọng, có ích cho mình rất nhiều giúp sinh
vien mở mang kiến thức bởi vì những kiến thức mà giáo viên truyền đạt ở trên
lớp không được thường xuyên trau dồi hằng ngày thì sẽ rơi rớt dần sự ham muốn

mở rộng và đào sâu tri thức chính là nguyên nhân dẫn tới yếu kém trong học tập.

2.Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên
Tự học tạo cho chúng ta tính chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức và
chúng ta không bị thụ động khi tiếp nhận nền văn hoá tri thức của thời đại khoa
học kĩ thuật –cơng nghiệp hố -hiện đại hoá. Một điều quan trọng nữa là ý thức
tự giác trong việc học đó chính là đấu tranh tư tưởng để chiến thắng bản thân
,rồi môi trường sống tạo nên nhân cách sinh viên như sống trong môi trường tạp
thể dễ giúp nhau tromg việc học tập sự quản lí, ràng buộc của khoa cũng như
giảng dạy của thầy cô trường Đai hoc Vinh và sự chạy dua về kiến thức giữa các
bạn khá giỏi tạo tấm gương cho mọi người noi theo.
Biết tổ chức kế hoạch và thơ gian biểu để danh thời gian đều cho tất cả
các môn học để không bị học lệch…Và sau đây là mộ số căn bệnh của sinh viên
khu nội trú :
2.1. Bệnh ngủ nhiều và lười
Ngủ nhiều được xem như là “hội chứng” tập thể của sinh viên nhất là về
mùa đơng cả phịng đóng cửa ngủ , phịng này ngủ, phịng bên cạnh củng …ngủ.
Học theo học chế tín chỉ hay tronh những ngày chưa đến mùa thi không chỉ ngủ
vùi hai ngày cuối tuàn mà kịch bản những ngày trong tuần …vẫn vậy. Có sinh
viên bỏ học để ngủ bù buổi tối thức quá khuya vì…xem phim, xem bong đá. Có
sinh viên cố gắng dậy sớm để đi học từ tiết một, hai nói là lên giảng đường mà
có “chiến đấu” tới cùng đâu , lại vật vã trên bàn và rồi “ ngàn thu”khi nào không
21


hay. Một lần trở về mái trường cũ, tôi vào kí túc xá thăm hỏi mấy người bạn cũ.
kí tú xá 9 giờ sáng mà khơng khí vẫn im ỉm, khơng thấy động tĩnh gì. Lan sinh
viên năm thứ hai Đại học Hà Tĩnh được bạn bè trong phòng đặt biệt danh là
“công chúa ngủ trong chăn”. Hễ đi học về là Lan ngủ “thà ngủ cịn hơn ăn cơm”.
Đó là triết lý sống của cô, ngủ đến nổi hai mí Lan lúc nào cũng híp lại, hai má

căng trịn trông thật dễ thương. Do ngủ nhiều nên Lan không biết gì về tình hình
kí túc xá, cả chuyện ở lớp và cuộc sống nhộn nhịp bên ngoài. Một ngày hai tư
tiếng đồng hồ mà ngủ hơn một nửa thậm chí hơn 2\3 thời gian trên đơi mắt Lan
lùc nào cũng lim dim, nhìn đời chỉ bằng 3\4 con mắt mà thấy…buồn.
2.2. Giờ cao su
Mới đây đất nước xinh đẹp PeRu mở một chiến dịch “chống lại giờ cao
su” họ cho rằng đây là thói xấu ảnh hưởng đến cơng việc và năng suất lao động.
Ở nước ta thói quen này khơng chỉ hình thành nơi cơng sở, cơ quan nhà nước mà
ngay cả tầng lớp trẻ - tầng lớp sinh viên tri thức cũng bị…dính. Giờ học chính
thức từ 7 giờ thì hơn 7 giờ sinh viên mới có mặt. Không biết ai chờ ai nhưng
thực tế ở một số giảng đường thầy giáo chờ sinh viên là chuyện có thật 99,8%.
Giao lưu và hội thảo dành cho sinh viên trường, khoa hay lớp tổ chức bao
giờ cũng cao su thời gian từ 30 phút đến một tiếng đồng hồ là chuyện …đời
thường ngay cả việc tập huấn công tác đoàn, học đối tượng đảng. Là tụ họp
những cá nhân tiêu biểu xuất sắc từ các chi đoàn. Nhà trường mời cán bộ đoàn
trung ương cấp 1, Giáo sư - Tiến sĩ các nhà khoa học về giảng dạy nhưng việc
cao su thời gian 15 dến 30 phút vẫn xảy ra ngay tại mái trường Đại học Vinh.
Không chỉ cao su thời gian từng giờ, sinh viên bây giờ có xu hướng kéo
dài thời gian từng ngày, từng tháng. thời gian nghỉ tết

, nghỉ lể tương đối dài

vậy mà ra tết hết ngày nghỉ được một tuần rất nhiều sinh iên chưa đến giảng
đường.
2.3. Thiếu tự tin.

22


Có ý kiến cho rằng người Việt ít khi chủ động bắt chuyện khơng thích trị

chuyện với người lạ. Họ sẳn sàng bỏ qua nhiều cơ hội để làm quen, sinh viên
củng vậy thiếu tự tin khiến sinh viên không phát huy sáng tạo cá nhân, sẳn sàng
đi theo lối mịn có sẳn nhất là trong học tập. Giảng viên giảng bài phía dưới sinh
viên nói chuyện riêng. Lúc giảng viên dành thời gian cho sinh viên thảo luận,
phát biểu ý kiến thì…ngồi im. Một thực tế là sinh viên năm thứ ba, thứ tư đại
họcmà còn ngại phát biểu ý kiến hoặc trình bày trước đám đơng vì thiếu tự tin,
thiếu thói quen suy nghỉ, đi học chỉ biết chép chính tả. Vì thiếu tự tin mà khơng
ít sinh viên ta khi tiếp xúc với khách du lịch nước ngồi bị “cứng lưỡi” khơng
nói chuyện được lâu. May ra chỉ bi bô vài câu giới thiệu họ tên, quê quán, chỉ
đường cho khách Tây là cùng. Lý giải cho sự “khơng nói được” là vì q run.
2.4. Sinh viên thời nay năng đọng hơn nhưng không chịu học
Sinh viên thời nay được tiếp xúc với khoa học kĩ thuật nên rất nhạy bén
và năng động nhưng rất đáng tiếc là năng động trong các lĩnh vực khác chú lĩnh
vực học tập lưịi vẫn hồn lười bởi mỗi khi có cuộc đi chơi hay tham gia hội hè
sinh viên thương tham gia nhiệt tình hơn khi dành thời gian cho việc học hơn
nửa thời gian học ở giảng đường ít nên nhiều thời gian rảnh rổi sinh viên sa vào
các trị chơi vơ bổ như game,bi a… bên cạnh đó học giả thi thật nên sinh viên
thường chơi đén gần ngày thi mới học nên chất lượng rất kém chỉ là học để thi
và lấy mảnh bằng tốt nghiệp mà thụi.
2.5. Thời gian dnh cho môn học.
Thời gian giành cho môn học chính là sự thể hiện mối
quan tâm của cá nhân về môn học đó, nó có ý nghĩa lớn
trong việc thay đổi bản thân chủ thể về tầm hiểu biết. Trên
thực tế, sinh viên gần nh không giành nhiều thời gian cho việc
tìm hiểu các vấn đề xà hội cũng nh hoạt động học tập mà nó
bị các hoạt động khác chi phối và chiếm nhiều thời gian. Thời
gian học của sinh viên diễn ra nhiều nhất lại là trong giai đoạn

23



ôn thi gấp rút từ đó dẫn đến chất lợng đào tạo không đợc
nâng cao vì vấn đề nằm ngay trong bản thân chủ thể,
nhiều sinh viên thú nhận họ ngại học bài và đọc sách vở mang
tính khoa học cao.
Tuy nhiên đó không phải là tất cả vẫn có nhiều sinh viên
luôn tìm tòi và khám phá những tri thức mới nhng về số lợng
thì phần trăm này không cao hơn những phần trăm còn lại.
2.6. Kế hoạch học và thời gian biểu học tập.
Nâng cao chất lợng học tập không chỉ đơn giản ở việc
tăng thời gian học mà nó còn cần tới một kế hoạch học tập hợp
lý. Đó chính là biểu hiện của một ngời hiểu biết, có một phong
cách làm việc khoa học.Tuy nhiên đối với sinh viên thì khái
niệm này không đợc nhiều ngời thực hiện một cách khoa học.
Có sống trong môi trờng sinh viên mới có thể biết thêm rất
nhiều cách học míi, nhiỊu sinh viªn häc tËp theo ngÉu høng. Cã
thĨ thời gian đầu của học kì là những ngày nghỉ xả hơi và
nhũng ngày ôn thi là thời gian học vô cùng ác liệt.
Từ đó dẫn tới việc học của sinh viên không mang tính
khoa học và logíc, dẫn tới việc hình thành cách học đối phó,
học để thi chứ không phải học vì mục đích cải thiện chính
mình . Có những bạn học xong thi xong là quên luôn không còn
một khái niệm nào về môn học đó.
Vy nhng nguyên nhân nào dẫn tới những vấn đề trên,sau đây tôi xin
nêu ra một số nguyên nhân cơ bản :
- Quyen với cách học cũ,dẫn tới tình trạng thụ đọng,thiếu sự độc lập,
sáng tạo.

24



- Do những yếu tố thể trạng, tâm lí chi phối tới q trình học tập trên lớp
mà khơng có người tư vấn giải quyết những khúc mắc gây nên tình trạng chán
nản, bng xi.
- Do những hoạt động bề nổi của nhiều sinh viên chiếm quá nhiều thời
gian ma cá nhân khơng có một phương pháp học tập hợp lí.
- Khơng thích mơn học, ngành học đang được đào tạo.
- Sức hấp dẫn của môn học (quá dễ hoặc qua khó).
- Thiếu tài liệu học tập .
- Điều kiện sinh hoạt khó khăn.
- Thiếu thời gian tự học
- Chưa có phương pháp kinh nghiệm tự học hợp lí.
- Phương pháp giảng dạy của giảng viên không gây được hứng thú học
tập cho sinh viên.
- Do cá nhân khơng có một ý chí vững chắc dẫn đến bị cuốn vào các
hoạt động khác. Hoặc một số cá nhân lại chỉ chú tâm vào các môn chuyên ngành
mà bỏ qua các mơn học khác.
Vì thế tự học la hoạt đọng vơ cùng quan trọng, giups người sinh viên
thông hiểu được quá trình tài liệu trong khi tiếp thu tri thức mới, tự học cũng là
quá trình để người sinh viên đầu tư, tư tưởng thích hợp cho từng nội dung mơn
học nhằm lĩnh hội tri thức một cách nhanh vừa vững chắc để đạt một kết quả
cao. Như lê nin đã từng nói ‘Khơng có tự học lao động nhất định thì khơng thể
tim ra chan lý trong một số vấn đề nghiên cứu nào đó, những người nào sợ lao
động thì người ấy sẽ tự mình làm cho mất đi khả năng tìm ra chân lý”. Như vậy,
có thể thấy rằng : ở bất kì cấp học nào, bậc học nào, hành động tự học ln có ý
nghĩa vơ cùng to lớn cần thiết với kết quả học tập.
Quá trình tự học của sinh viên không chỉ diễn ra trong nhà trường mà còn
tiếp tục phát huy khi học sinh, sinh viên rời khỏi ghế nhà trường phải học suốt

25



×