Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

GIAO DUC DAO DUC HOC SINH THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.94 KB, 45 trang )

Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
A. PHN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Khi đề cập đến học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng. Chắc
hẳn ai cũng nhớ ơng cha ta thường nói:”nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trị”.
Đúng vậy, học sinh THPT là lứa tuổi diễn ra nhiều sự biến động nhất về cả hình
thể lẫn tính cách. Vì vậy rất cần đến sự quan tâm, khơng chỉ riêng gia đình mà
cả nhà trường và những người xung quanh. Là đối tượng chíng của các nhà
giáo dục mà cụ thể là các thầy giáo, cô giáo những người tiếp xúc thường
xuyên và trực tiếp đến các em.Với xu thế của thế kỷ XXI thì đây là nhiệm vụ
cấp bách và to lớn của nền giáo dục của mọi quốc gia trên thế giới. Trong nền
kinh tế ngày càng phát triển thì song song với nó là một yêu cầu đặt ra cho
nghành giáo dục “phải làm sao để học sinh hình thành và phát triển một nhân
cách toàn diện của một người công dân trước khi bước vào đời”.
Với cương vị là một sinh viên nghành sư phạm, tơi cảm thấy mình có
một phần trách nhiệm đối với sự phát triển của nghành giáo dục nước nhà.
Nhìn chung, hiện nay thực trạng day và học trong nhà trường đã dần dần được
cải thiện. Trong xã hội bao câp, việc học chỉ mang tính chất phổ cập. Nhà nước
có chính sách dạy học chỉ đẻ xoá mù chữ cho tất cả mọi người từ người già đến
trẻ em. Tất cả đều được đi học chỉ để biết cái chữ, biết một vài phép tính đơn
giản phục vụ trong đới sống hàng ngày. Nhưng ngày nay cơng tác đó đã được
thay đổi, đã được hoàn thiện,cải cách và nâng cao hơn. Việc học giờ đây khơng
chỉ đơn giản có thế,mà giờ học để lĩnh hội những tinh hoa văn hoá, tiếp cận vơi
xu thế mới của thời đại. Học để nâng tầm bản thân, nâng tầm xã hội, nâng tầm
tri thức, đạo đức, nhân cách của con người. Không chỉ riêng các em học sinh
THPT hay cá nhân tôi mà ai trong chúng ta cũng có những đặc điểm riêng về
thể chất lẫn tính cách, hoàn cảnh sống và những ước mơ, những dự định cho
tương lai. Các em với những trò nghịch ngợm cịn mang đậm tính trẻ con, sự
hiếu động, ngây thơ, vô tư và những nỗi buồn của các em. Chúng ta, những
thầy giáo, cô giáo của tương lai không ai là khơng mong muốn các em lĩnh hội
SVTH: TrÞnh ThÞ Hoµ


Líp: 49A1 - Sinh

1


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
y về mặt tri thức, phẩm chất, đạo đức ngày càng hoàn thiện để làm một
hành trang vững chắc trước khi các em bước vào đời. Trên đây là một số lý do
để tơi lưa chọn đề tài này, để có thể đóng góp một phần nào đó vào lợi ích
chung cho nền giáo dục nước nhà.
II. Mục đích và nhiệm vụ chọn đề tài
Một giáo viên thành công theo đúng nghĩa của nó thì khơng chỉ biết
“dạy chữ” mà cịn “dạy người” trong đó vấn đề đạo đức cho học sinh THPT là
hết sức quan trọng, có ý nghĩa vơ cùng lớn đối với những bước đi tiếp theo của
các em trong cuộc đời. Để làm được điều đó ngồi việc nắm vững chun mơn
người giáo viên cịn là “một nhà tâm lý học”, “nhà đạo đức học”…Chúng ta
phải tìm hiểu hồn cảnh, nắm được tâm lý, tính cách, những ưu, nhược điểm
của các em, phải biết quan tâm, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng các em.
Có như vậy chúng ta mới tìm ra được những biện pháp, phương án giải quyết
đạt hiệu quả tối ưu nhất. Thiết nghĩ đào tạo thế hệ trẻ, bồi dưỡng cho các em về
cả trí lực, đạo đức, thẩm mỹ là một vấn đề nên bổ sung của gia đình, nhà trường
và xã hội dành cho các em. Bác Hồ có câu “có đức mà khơng có tài thì làm
việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức thì là người vơ dụng”. Do đó chúng ta
phải ln giương cao khẩu hiệu “vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì sự
nghiệp trăm năm trồng người” ; “tất cả vì tương lai con em chúng ta” ; “tiên
học lễ, hậu học văn”…vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT đang địi
hỏi phải được chuẩn mực hố qua những kiến thức học hỏi cũng như tìm hiểu.
Đó là tiền đề trước tiên trong mỗi con người nói chung và trong nhà giáo dục
nói riêng.Với khả năng sư phạm của mình bằng những con đường và phương
tiện giáo dục đạo đức cho học sinh, chúng ta - những nhà giáo dục phải biết

phát huy và vận dụng tốt vai trò của chúng để tạo ra một thế giới đạo đức trong
mỗi học sinh một cách trọn vẹn, phong phú với những nét cá tính riêng biệt,
độc đáo nhưng lành mạnh và phù hợp với những nguyên tắc đạo đức chung.

SVTH: TrÞnh ThÞ Hoµ
Líp: 49A1 - Sinh

2


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
B - PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC
SINH THPT
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội. Đạo đức là một
phạm trù phản ánh hệ thống các nguyên tắc, các yêu cầu, các chuẩn mực, các
quy tắc điều chỉnh sự ứng sử của con người trong tất cả các mối quan hệ thực
tiễn, trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Chuẩn mực đạo đức là yêu cầu do con người đưa ra cho mình trong
quan hệ với người khác và xã hội, nó được diễn đạt với những mệnh đề “trung
với nước, hiếu với dân”, “thương người như thể thương thân”, cần giúp người
khác lúc hoạn nạn”…hay một thuật ngữ “chí cơng vơ tư”, thật thà, trung hậu…
và được thể hiện quan niệm về cái thiện và cái ác và nó chi phối, quyết định
hành vi, cử chỉ của cá nhân.
2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là một quá trình sư phạm bộ phận, trong đó dưới tác
dụng chủ đạo của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển ở học sinh ý thức
đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức, nhờ đó mà tạo ra các

phẩm chất đạo đức ở học sinh, theo những nguyên tắc đạo đưc Cộng sản chủ
nghĩa.
Giáo dục đạo đức là mặt quan trọng của giáo dục nhân cách và là một
trong những bộ phận nền tảng của giáo dục nhà trường, xã hội chủ nghĩa. Dạy
cũng như học, điều trước tiên là phải giáo dục đạo đức.
3. Hành vi đạo đức
a. Định nghĩa
Là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về
mặt đạo đức. Chúng thường được biể hiện trong cách đối nhân xử thế, trong lối
sống, trong phong cách, trong lơi ăn tiếng nói…Vì thế trong giỏo dc o c
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

3


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
cho hc sinh, chúng ta phải làm cho hành vi đạo đức của thế hệ trẻ phù hợp với
đạo đức của xã hội XHCN Việt Nam và kế thừa những nét tốt đẹp của truyền
thống đạo đức dân tộc, ngày càng thoát khỏi nhữn tàn dư đạo đức của các chế
độ xã hội cũ đã lỗi thời.
b. Một số tiêu chuẩn đánh giá hành vi đạo đức
Tính tự giác của hành vi: dược thể hiện là sự hiểu biết, có thái độ, có ý
chí đạo đức dược gọi chung là có ý thức đạo đức cá nhân. Chẳng hạn khi ra
đường em học sinh nào đó bắt gặp một đứa trẻ bị ngã, thì lập tức em đó chạy
tới nâng em bé đó lên, hỏi thăm xem em bé có sao khơng. Như thế là một hành
vi tự giác. Hoặc thực tế gặp ở sinh viên trường Đại Học Vinh vào một số buổi
lễ tại hội trường A. Khi có các cơ giáo đến tham dự buổi lễ nhưng đến muộn
một chút, mang theo mình là con nhỏ hay có những cơ giáo trẻ đang mang thai.
Thế nhưng các sinh viên không có ý thức nhường chỗ ngồi cho các cơ, mặc dù

cơ đã nói “em ngồi lùi vào cho các cơ ngồi với” thế nhưng các sinh viên cũng
chẳng lùi vào mà lại bảo cơ đi tìm chỗ khác mà ngồi. Khi có thanh niên xung
kích đến bảo ngồi vào thì sinh viên với lùi, như thế là miễn cưỡng nhường ghế
cho cơ chứ thật sự thì chẳng hề muốn tí nào. Đây là một hành vi thiếu ý thức,
thiếu đạo đức.Chẳng hạn, nhu cầu giúp đỡ bạn là một nhu cầu đạo đức tiềm
tàng trong nhân cách một người nào đó. Khi người đó biết được bạn mình rơi
vào một hồn cảnh khó khăn, cần đượn giúp đỡ.Lúc này nhu cầu đó mới có
điều kiện bộc lộ, tức là nhu cầu đã có đối tượng cụ thể.Khi đã có động cơ thì nó
được thực hiện hố qua hành vi đạo đức và quy định thúc đẩy hành vi đạo đức
của q trình đó.
Tính có ích của hành vi: được thể hiện ở chỗ nó có thúc đẩy xã hội tiến
lên theo hướng có lợi cho cơng cuộc đổi mới trong cơng cuộc xây dựng xã hội
XHCN hay khơng. Ví dụ giáo dục tri thức, đạo đức, phẩm chất cho học sinh ở
tất cả các cấp học là một hành vi mang tính xã hội và góp phần to lớn vào cụng
cuc xay dng CNXH ca nc nh
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

4


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
Tớnh khụng vụ lợi của hành vi: thể hiên ở chỗ con người ta khơng tính
tốn hơn thiệt khi giúp đỡ một ai đó hay làm một việc gì đó cho người khác,
cho xã hội. Người xưa có câu “mình vì mọi người” nếu như mình tận tình làm
việc là hành vi có mục đích thì mình sẽ khơng ngại gian khổ, khơng lùi bước
trước những khó khăn trong khi làm nhiệm vụ sẽ ln có ý tưởng vươn lên chứ
khơng bao giờ nản chí. Các chiến sĩ khi xơng pha ngồi mặt trận đâu nghĩ rằng
mình sẽ rút lui mà chỉ tiến lên, quyết hành động, quyết chiến thắng kẻ thù. Cụ
thể hơn và gần gũi hơn với chúng ta đó là hình thức thanh niên tình nguyện

được tổ chức hàng năm ở các trường đại học, cao đẳng. Các sinh viên lên vùng
cao tuyên truyền công tác giáo dục, y tế sưc khoẻ. Khơng ngại khó khăn do
thiếu thốn tiện nghi, thiếu các thiết bị, thiếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Thế
nhưng họ vẫn khơng nản lịng, vẫn hồn thành nhiệm vụ của mình, vẫn nâng
cao tinh thần hi sinh vì đồng bào miền cao, các dân tộc thiểu số cịn nghèo đói,
kém hiểu biết.
c. Quan hệ giữa nhu cầu đạo đức và hành vi đạo đức
Hành vi đạo đức được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo
đức, theo chuẩn mực của một nền đạo đức nhất định. Mà động cơ đạo đức thì
được phát triển lên từ một nhu cầu đạo đức, đó là những nhu cầu cá nhân và
mỗi người có mỗi nhu cầu khác nhau để đi đến một hành vi đạo đức nhất định,
trong từng trường hợp cụ thể cũng đặt ra những nhu cầu khác nhau. Khi đối
tượng đã được xá định thì ta có động cơ đạo đức.
Một lần nữa ta khẳng định được động cơ đạo đức bắt nguồn từ nhu cầu
đạo đức, được hiện thực hố trong q trình khởi sự của hành vi đạo đức và sau
đó quy định và thúc đẩy hành vi chính trong q trình đó. Hành vi đạo đức phải
diễn ra trong hoàn cảnh cụ thể và với điều kiện cụ thể. Bởi lẽ chỉ khi trong
những điều kiện cụ thể thì động cơ đạo đức và ý thức đạo đức với được biểu
hiện ra ngồi. Nếu khơng đặt chúng trong một hồn cảnh nào đó, khơng gằn
liền với hành động cụ thể thì động cơ và ý thức khơng thể bộc lộ ra ngồi, dẫn
đến khơng thể có hành vi o c.
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

5


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
T tt cả những mối quan hệ đó ta thấy có sự quy định lẫn nhau của nhu
cầu đạo đức và hành vi đạo đức. Không tồn tại riêng biệt một mặt nào độc lập

mà nó ln chi phối và quy định lẫn nhau, ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến
nhau. Ta có thể rút ra một số mối quan hệ như sau:
Nhu cầu đạo đức quy định hành vi đạo đức và ngược lại. Chẳng hạn bạn
có nhu cầu quan tâm, chia sẻ của mình với một ai đó hay với cả một tập thể nào
đó thì bạn sẽ ln hỏi thăm, động viên, gần gũi với người bạn cần quan tâm,
luôn mong muốn cho người ấy được vui vẻ, hạnh phúc và khơng bao giờ để
bạn mình buồn, cơ đơn dù bất cứ hồn cảnh nào.
Động cơ đạo đức có ý nghĩa tích cực hay tiêu cực về mặt đạo đức. Nó là
một hành vi có đạo đức hay phi đạo đức đều phụ thuộc vào động cơ đạo đức đó
như thế nào. Ta có thể lấy ví dụ cụ thể trong trường hợp sau: Khi có một tồ
nhà bị cháy, và những người đến dập lửa, cứu người là đội cứu hộ, là một
chàng trai trẻ đang đi cùng người yêu mình và cuối cùng là một tên chộm. Khi
vụ cháy xảy ra tất cả đều lao vào giữa đám cháy. Nhìn một cách tổng thể thì ta
thấy họ đều có chung một hành vi đó la lao vào đám cháy. Thế nhưng động cơ
của họ hoàn toàn khác nhau. Đối với đội cứu hộ thì lao vào đám cháy với mục
đích là cứu người, dập lửa và có thể thì cứu vãn một số tài sản nếu có thể. Với
chàng trai trẻ thì lao vào đó khơng hề muốn cứu người hay làm gì đó giúp cho
cơng việc cứu hộ mà chàng trai trẻ này chỉ lao vào vì lịng sĩ diện với cơ bạn
gái của mình, để cơ bạn gái mình thấy mình là người dũng cảm, gan dạ, tốt
bụng. Và cuối cùng là động cơ lao vào đám cháy của tên chộm đó là lao vào
xem ở trong đám cháy đó, trong lúc mọi người hoảng loạn, khơng để ý thì mình
có thể tìm kiếm cho mình được chút gì khơng, có sơ mú được gì không. Như
vậy ta thấy từ một hành vi giống nhau ta thấy mỗi người có mỗi động cơ khác
nhau, và chỉ đội cứu hộ với trở thành một hành vi có đạo đức, cịn động cơ của
chàng trai trẻ và tên chộm đều dẫn đến một hành vi phi đạo c.

SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

6



Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
Trong giỏo dục đạo đức phải tổ chức hoạt động trong những hành vi đạo
đức cụ thể để có thể bộc lộ động cơ và ý thức đạo đức tương ứng. Có hoạt động
mới tạo ra hồn cảnh có tính đạo đức và cải tạo hồn cảnh vơ đạo đức.
4. Cấu trúc tâm lý của đạo đức
a. Tri thức và niềm tin đạo đức
Niềm tin đạo đức là sự tin tưởng một cách sâu sắc và vững chắc của
con người vào tính chính nghĩa và chân lý của các chuẩn mực đạo đức và thừa
nhận sự tất yếu phải tôn trọng triệt để các chuẩn mực ấy. Là một trong những
yếu tố quyết định hành vi đạo đức của con người, là cơ sở để làm bộc lộ những
phẩm chất ý chí của đạo đức. Đó là kim chỉ nam của hành động. Có nhận thức
đúng mới có thể có hành động đúng được. Cần bồi dưỡng cho học sinh một
cách có hệ thống những khái niệm và niềm tin hoàn chỉnh. Không chi dừng lại
ở một số khái niệm rời rạc, chắp vá.
Tri thức đạo đức là sự hiểu biết của con người về những chuẩn mực đạo
đức quy định hành vi của họ trong mối quan hệ với người khác và xã hội. Được
dựa trên cơ sở của quá trình tư duy sâu sắc và độc lập của cá nhân khi họ tiếp
xúc với chuẩn mực đạo đức ấy. Tri thức đạo đức là yếu tố quan trọng chỉ đạo
hành vi đạo đức.
b. Động cơ và tình cảm
Động cơ đạo đức là động cơ bên trong, đã được con người ý thức, nó trở
thành động lực chính làm cơ sở cho những hành động của con người trong mối
quan hệ giữa người này với người khác và với xã hội, biến hành động của con
người thành hành vi đạo đức. Động cơ có tác dụng phát động mọi sức mạnh
tinh thần và vật chất của con người, thúc đẩy con người hành động theo tri thức
và niềm tin của nó với các chuẩn mực và quy tắc đạo đức. Vì vậy muốn có
hành vi đạo đức thì phải có động cơ đạo đức.
Động cơ quy định chiều hướng tâm lý của hành động, quy định thái độ

của cá nhân với hành động của mình. Thế nên khi giáo dục đạo đức cho học
sinh, không những rèn luyện cho các em có những hành vi đạo đức, mà điều
SVTH: TrÞnh ThÞ Hoµ
Líp: 49A1 - Sinh

7


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
quan trng là xây dựng cho các em ó những động cơ đạo đức bền vững. Hệ
thống những kích thích liên tục thúc đẩy hành vi đạo đức của học sinh là nhiệm
vụ cơ bản của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thái độ tích cực của cá nhân trong mối quan hệ của mình với người
khác với xã hội được gọi là tình cảm đạo đức. Đó là những rung cảm của cá
nhân với hành vi của người khác và với hành vi của chính mình và với xã hội.
Tình cảm đạo đức được xem như là một trong những loại động cơ thúc đẩy và
điều chỉnh hành vi đạo đức của cá nhân. Tình cảm đạo đức được chia làm hai
mặt đó là tình cảm đạo đức tích cực và tình cảm đạo đức tiêu cực. Chẳng hạn
các bạn học trong cùng một lớp, trong đó có bạn học giỏi, bạn học kém và vì
lịng ghen ghét, đố kị mà những bạn học kém ln tìm cách nói xấu, hạ thấp
danh dự và phẩm chất của những bạn học giỏi. Như thế là tình cảm đạo đức
tiêu cực, chỉ làm cho bạn học đã kém về tri thức lại kém hơn về cả đạo đức chứ
khơng có lợi gì trong q trình phát triển của bạn đó được. Ngược lại nếu nhìn
vào thành tích học tập của những bạn học giỏi, những bạn khác khâm phục,
kính nể và có ý chí học hỏi theo. Như thế nó lại trở thành tình cảm đạo đức
ctích cực chứ khơng phải là tiêu cực nữa. Kết quả đẻ lại được cho những bạn có
tình cảm đạo đức tích cực là khả năng thay đổi mình đẻ ngày càng hồn thiện
hơn về cả tri thức lẫn tình cảm đạo đức.
c. Thiện chí và thói quen đạo đức:
Nếu như con người chỉ có tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức thì chưa

thể có hành vi đạo đức. Mà hành vi đạo đức chỉ xuất hiện khi người đó có khả
năng biến ý thức đạo đức thành hành vi đạo đức. Khi ấy ý chí của con người đã
hướng vào việc tạo ra giá trị đạo đức là ý chí đạo đức thì ta gọi đó là người có
thiện chí. Mặt khác, một hành vi đạo đức chỉ có thể xảy ra thực sự khi có một
sức mạnh tinh thần, đó là sức mạnh của thiện chí mà người ta thường gọi là
nghị lực. Vì thế, trong giáo dục đạo đức học sinh, cần hình thành ở các em
những thiện chí và làm cho các em có nghị lực biến thiện chí đó thành hành vi
đạo đức thực sự. Ta có thể lấy ví dụ về những cậu học sinh THPT nghịch ngợm,
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

8


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
chi bi. Các bạn đó đang trên đường lao xuống vực thẳm, phẩm chất đang bị
xuống cấp trầm trọng. Khi nhận ra mình đã quá sa đà, muốn thay đổi mình để
gia đình, thầ cơ, bạn bè khơng buồn vì mình nữa. Thế nhưng, cuộc sống
mà..các em gọi là “đâm lao thì phải theo lao” nên suy nghĩ là như thế nhưng
hành động thì các em khơng thể làm được. Chơi vẫn chơi, nghịch vẫn nghịch.
Chúng ta gọi trường hợp này là người khơng có ý chí, nghị lực, khơng có khả
năng vượt lên theo suy nghĩ của chính mình.
5. Nhân cách là chủ thể của hành vi đạo đức :
Giáo dục đạo đức khơng thể hình thành một cách cơ lập một phẩm chất
hay một năng lực nào đó mà phải giáo dục tồn bộ nhân cách thơng qua tổ chức
hành vi đạo đức.
a. Tính sẵn sàng hành động có đạo đức:
Xu hướng đạo đức của nhân cách là cơ sở đàu tiên, cơ bản để có tính sẵn
sàng hành động có đạo đức, phẩm chất ý chí và phương thức hành vi là những
yếu tố góp phần tạo ra tính sẵn sàng hành động. Tính sẵn sành hành động có

đạo đức liên quan đến các phẩm chất của nhân cách và năng lực.
b. Ý thức bản ngã:
Theo luận điểm của A.Maslou, ông khẳng định gốc rễ của động cơ là
nhu cầu trong quá trình phát triển cá nhân, các nhu cầu đó tạo nên một kiểu
dạng tháp, có thứ tự bậc:
Nhu cầu sinh lý (đói, khát, tình dục…) nằm ở đáy tháp, một số chúng tuy
không phải là tất cả đều tuân theo nguyên tắc cân bằng trạng thái.
Mức tiếp theo: nhu cầu về sự an toàn. Maslou khác với các tác giả trường
phái sinh học coi đó là sự thể hiện bản năng tự vệ, ơng coi đó là sự cần thiết
phải có trật tự ổn định.
Mức thứ ba: Nhu cầu lệ thuộc, nhu cầu có chân trong một nhóm người
nào đó, nhu cầu về giao tiếp…
Mốc thứ tư: nhu cầu được tơn trọng, có uy tín…
SVTH: TrÞnh ThÞ Hoµ
Líp: 49A1 - Sinh

9


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
Mc cui cùng: cao nhất là nhu cầu tự biểu lộ, thể hiện những năng lực
của mình, nhu cầu trong việc sáng tao, tự thể hiện.
Như vậy tháp Maslou bao gồm cả nhu cầu có nguồn gốc sinh học và xã
hội. Thế nhưng đặc điểm các mức độ nêu trên hết sức vơ định hình. Khi cá
nhân thoả mãn nhu cầu của một mức độ, sẽ xuất hiện nhu cầu ở mức độ tiếp
theo. Nếu thoả mãn nhu cầu đó thì nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ được nảy sinh.
Từ cấu trúc của nhân cách ta thấy ý thức bản ngã cũng tham gia quy định
hành vi đạo đức. Ý thưc bản ngã xuất hiện dưới hình thức như một nhu cầu tự
khẳng định, lương tâm, lòng tự trọng, danh dự cá nhân. Trong đó sự tự đánh giá
là biểu hiện rõ rệt của nhu cầu tự khẳng định, khẳng định mình là một thành

viên của xã hội, thành viên của một tập thể…được nảy sinh và phát triển mạnh
mẽ trong hoạt động và giao lưu ở những điều kiện xã hội khác nhau.Mặt khác
lương tâm cũng là hiện tượng của ý thức bản ngã. Lương tâm là kết tinh của
nhu cầu đạo đức và ý thức đạo đức đã trở thành bản tính của một cá nhân. Đối
với học sinh THPT, phải làm cho nền đạo đức mới XHCN biến thành lương
tâm của cá nhân, để tự đánh giá, phán xét, điều chỉnh hành vi của mình. Bên
cạnh đó lòng tự trọng, danh dự cá nhân cũng là biểu hiện ý thức của mình là kết
quả của tự giáo dục về đạo đức.
II. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách và
là một trong những bộ phận nền tảng của giáo dục nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Dạy cũng như học phải chú ý cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng” (bài nói chuyện với cán bộ, học
sinh trường đại học sư phạm Hà Nội ngày 21-10-1964). Với mục đích hình
thành và phát triển các phẩm chất đạo đức ở học sinh. Để hình thành và phát
triển được các phẩm cất đạo đức ấy cần phải giải quyết đồng bộ các yếu tố cấu
thành, đó là: ý thức đạo đức, thái độ và tình cảm đạo c, hnh vi v thúi quen
o c.
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

10


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
1. Giỏo dục, bồi dưỡng tình cảm đạo đức:
Tình cảm đạo đức được hình thành nhờ sự tổng hợp, khái quát các xúc
cảm đạo đức. Lòng yêu nước, yêu nhân dân, yêu Đảng được xây dưng trên cở
sở long yêu cha mẹ, anh em trong gia đình, yêu bạn bè, thầy giáo, cô giáo, yêu
mảnh vườn, yêu làng quê, yêu con đường rợp bóng mát, yêu vầng trăng sáng

đêm thu…
Tác dụng lớn lao của tình cảm đạo đức là chỗ thúc đẩy con người hành
động, giúp con người hăng hái hoạt động vì lợi ích chung. Nó giúp quan hệ
giữa người với nhau được dễ dàng, gần gũi, thông cảm và giúp cho lý trí và
tình cảm được thống nhất. Do đó người ta nói tình cảm là động cơ hành động.
Nếu khơng có tình cảm mà chỉ nặng về lý trí thì hoạt động của con người lãnh
đạm, lạnh nhạt, khơng có sức lơi cuốn
2. Giáo dục hành vi và thói quen đạo đức:
Suy cho cùng việc hình thành nét phẩm chất đạo đức nào đó ở học sinh
thì đích cuối cùng phải là chúng thể hiện hành vi tương ứng trong cuộc sống,
trong các mối quan hệ hang ngày. Hành vi đó phải trở thành các thói quen của
học sinh, được thể hiện như những nét tính cách bền vững
Việc thực hiện hành vi do ý thức chi phối, định hướng, cịn tình cảm
đích thực thúc đẩy con người hành động. Hành vi khơng có ý thức dẫn lối,
thiếu tính chất tích cực là kết quả khơng trọn vẹn của quá trình giáo dục đạo
đức.
Hành vi và đặc biệt là thói quen hành vi chỉ có thể được hình thành qua
tập luyện, rèn luyện. Trong cuộc sống, trong sinh hoạt, cần giáo dục cho các em
hành vi có văn hố, tức là hành vi đó khơng những “đúng” về mặt đạo đức, mà
còn “đẹp” về thẩm mỹ
Các nhiệm vụ trên liên quan, gắn bó chặt chẽ lẫn nhau và cần phải
được thực hiện đồng bộ. Việc thực hiện đồng bộ chúng sẽ tạo ra được ở học
sinh những hành vi đạo đức trọn vẹn, chân chính và bền vững.
SVTH: TrÞnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

11


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT

3. Bi dưỡng ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen đạo đức:
Ý chí là khâu rất quan trọng dẫn tới hành động, quyết chí hành động, ý
chí biểu hiện ở chỗ học sinh biết đè ra mục đích đúng, lựa chọn cách thức đẻ
đạt được mục đích. Ý chí giúp học sinh luôn tự kiềm chế những ham muốn cá
nhân, biết tự chủ trước những tình huống gay cấn để hành động đúng dẫn đến
những hành vi, những kỹ xảo và thói quen đạo đức.
Thói quen đạo đức là những hành vi con người thực hiện theo nhu cầu
bên trong, theo tiếng gọi của lý trí và tình cảm, và được kiểm tra bằng lý trí và
tình cảm của chính bản thân. Ta rèn luyện cho học sinh không những là những
kỹ xảo về các hành vi đạo đức mà còn hình thành cho các em các thói quen đạo
đức vì thói quen được xây dựng trên cơ sở niềm tin, gắn liền với nhu cầu, với
tình cảm và ý chí nghị lực của con người. Thói quen đạo đức là bộ mặt của con
người, là cơ sở để đánh giá nhân cách con người. Đo cũng là mục đích của quá
trình giáo dục đạo đức. Usinxky nhà giáo dục vĩ đại Nga nói: “ Giáo dục mà
thiếu thói quen thì đó là một lâu đài trên bãi cát”.
Chú ý giáo dục cho các em thói quen lễ độ, ăn nói nhã nhặn, thưa gửi,
các thói quen lao động, giữ vệ sinh, trật tự, kỷ luật, thói quen giúp đỡ cha mẹ,
anh chị em ruột, người già cả, các em bé, tơn trọng gìn giữ của cơng, đặc biệt là
thói quen học tập tốt, hồn thành nhiệm vụ chính của các em
4. Giáo dục thái độ tình cảm đạo đức:
Đời sống tinh thần của con người nói chung hay của học sinh nói riêng sẽ
trở nên khơ cứng, trống rỗng nếu như con người đó khơng biết u thương,
khơng biết thù ghét, khơng có cảm xúc hay tình cảm khi tiếp xúc với người
khác xung quanh, với lao động, với thiên nhiên… Ngược lại ở những người có
tình cảm đạo đức chân chính, họ rất dễ hồ đồng với những người xung quanh,
đời sống tinh thần trở nên phong phú, đa dạng, cuộc sống tươi vui, có ý nghĩa
hơn… Vì vậy giáo dục tình cảm đạo đức là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
nhưng cũng rất khó khăn, tinh tế bởi vì phải tác đơng đến thế giới nội tâm thế
giới của những cảm xúc của học sinh.
SVTH: TrÞnh ThÞ Hoµ

Líp: 49A1 - Sinh

12


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
Giỏo dc tình cảm đạo đức cho học sinh là thức tỉnh chúng ở những rung
động trái tim đối với hiện thực xung quanh, làm cho chúng biết yêu, ghét rõ
rang, có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng trong đời song xã hội và tập
thể… Thái độ thờ ơ, lãnh đạm là kẻ thù của giáo dục tình cảm đạo đức.
5. Giáo dục ý thức đạo đức:
Đối với từng chuẩn mực đạo đức hay nét phẩm chất nhân cách, trước
hết cần cho học sinh hiểu: trong những tình huống tương tự hay đối với chuẩn
mực đó thì cần phải làm gì? Tại sao lại phải làm như thế?... Cho các em hiểu lợi
ích bản thân, lợi ích của người khác… Khi thực hiện chuẩn mực và cần phải
thực hiện như thế nào? Chỉ cho các en biết cách thức thực hiện chuẩn mực đó.
Những tri thức đạo đức đó giúp các em phân biệt được cái đúng – cái sai, cái
tốt – cái xấu, cái thiện – cái ác… Từ đó các em sẽ làm theo cái đúng, ủng hộ cái
tốt, tán thành cái thiện và đấu tranh, phê phán, tránh cái xấu, cái sai, cái ác.
Trên cơ sở những tri thức đạo đức sơ đẳng, cần hình thành ở các em niềm tin
đạo đức vững chắc, đóng vai trị định hướng cho tình cảm và hành vi đạo đức.
6. Giáo dục đạo đức quốc tế:
Ngày nay cùng với sự giao lưu, hoà nhập giữa các dân tộc, các nền văn
hoá trên thế giới, ở nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh cịn có các khía
cạnh của giáo dục quốc tế đó là:
Tơn trọng sự bình đăng mọi dân tộc trên thế giới, tôn trọng các nền văn
hoá, nền văn minh, các giá trị và các nguồn sống của con người.
Tinh thần giúp đỡ lẫn nhau dựa vào nhau giữa các nhóm xã hội, quốc gia,
tổ chức quốc tế. u chuộng hồ bình giữa các dân tộc, tin cậy lẫn nhau cùng
chia sẻ, gánh vác công việc là những điều kiện tiên quyết cho cuộc sống hồ

bình.
Thái độ trách nhiệm đối với bảo vệ môi trường song xung quanh, coi trái
đất như “ngôi nhà chung” của nhân loại.
Hiểu biết về các tổ chức lien hiệp quốc…
SVTH: TrÞnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

13


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
õy l những nội dung tương đối mới mẻ đang dần dần đưa vào nội
dung giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh. Giáo viên cần lựa chọn các bài
học, các hoạt động ngồi giờ thích hợp để liên hệ, lồng ghép các nội dung này
vào chương trình dạy
III. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
1. Lương tâm
Có hai trạng thái cơ bản của lương tâm đó là lương tâm thanh thản và
cắn rứt lương tâm
a. Làm thế nào để trở thành người có lương tâm
Cần thường xuyên rèn luyện tư tưởng, đạo đức theo quan điểm tiến bộ
cách mạng và tự giác thực hiện các hành vi đạo đức hàng ngày để biến ý thức
đạo đức thành thói quen đạo đức
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bản thân một cách tự nguyện, phấn đấu
trở thành công dân tốt, người có ích cho xã hội
Bồi dưỡng tình cảm trong sáng, đẹp đẽ trong quan hệ giữa người với
người, cao thượng, bao dung và nhân ái.
b. Chúng ta thấy rằng trong cuộc sống những người có đạo đức luôn tự
xem xét, đáng giá mối quan hệ giữa bản thân với những người xung quanh, với
xã hội. Trên cơ sở đánh giá hành vi của mình, các cá nhân tự giác điều chỉnh

hành vi cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Đó là người lương tâm. Ơng
cha ta có câu tục ngữ: “thương người như thể thương thân”, “cây ngay khơng
sợ chết đứng”. Từ đó ta thấy rằng lương tâm dù ở trạng thái nào cũng có ý
nghĩa tích cực đối với cá nhân. Trạng thái thanh thản của lương tâm giúp con
người tự tin hơn vào bản thân và phát huy được tính tích cực trong hành vi.
Trạng thái cắn rứt lương tâm giúp cá nhân điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Một cá nhân thường làm điều ác nhưng
khơng cắn rứt lương tâm thì được coi là ngi vụ lng tõm.

SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

14


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
Túm li lương tâm là đặc trưng của đời sống đạo đức, là yếu tố nội tâm
làm nên giá trị đạo đức con người. Nhờ có lương tâm mà những cái tốt đẹp
trong đời sống được duy trì và phát triển. Do đó trong cuộc sống khơng chỉ địi
hỏi mỗi cá nhân có lương tâm mà phải biết giữ gìn lương tâm
2. Nhân phẩm và danh dự
a. Nhân phẩm
Nhân phẩm là toàn bộ những phẩm chất mà con người có được. Hay nói
một cách khác nhân phẩm có giá trị làm người của mỗi người. Xã hội đánh giá
cao người có nhân phẩm, có lương tâm trong sáng, nhu cầu vật chất và tinh
thần lành mạnh, thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức, thực hiện tốt chuẩn mực đạo
đức
Tuy nhiên trong cuộc sống cịn có nhiều người đánh mất nhân phẩm, đi
ngược lại với lợi ích cộng đồng. Chúng ta ln tin rằng xã hội chúng ta cịn có
nhiều người tốt biết giữ gìn nhân phẩm của mình. Một ví dụ minh hoạ : Một

em học sinh nhặt được chiếc ví trước cổng trường. Em đó khơng vì lịng tham
của mình để chiếm đoạt chiếc ví đó mà đã mang nộp nó cho cơ hiệu trưởng để
hồn lại cho người đánh mất.
b. Danh dự
Danh dự đó là sự coi trọng đánh giá cao của dư luận xã hội đối với một
người dựa trên những giá trị tinh thần, đạo đức của người đó. Do vậy danh dự
là nhân phẩm được đánh giá và cơng nhận. Từ câu tục ngữ “đói cho sạch, rách
cho thơm”, “tốt danh còn hơn lành áo”, “bần thanh còn hơn phú trọc”. Ta thấy
rằng khi con người tạo ra cho mình những giá trị tư tưởng đạo đức, giá trị làm
người mà được xã hội đánh giá, công nhận thì đó là người có danh dự. Chẳng
hạn khi ta nhắc đến danh dự của người đoàn viên thanh niên thì người ấy phải
có lịng nhiệt tình, tự nguyện trong mọi hoạt động của cơng tác đồn. Hay danh
dự của người thầy thuốc “lương y như từ mẫu” những người thầy thuốc có
lịng thương người, mang hết tâm huyết của mình để cứu bệnh nhân, khơng
ngại nguy hiểm, gian nan. Họ ln làm trịn trách nhiệm của mình.
SVTH: TrÞnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

15


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
3. Lũng tự trọng
Khi một cá nhân biết tôn trọng và bảo vệ danh dự của mình thì người đó
được coi là người có lịng tự trọng. Như vậy lịng tự trọng là ý thức và tình cảm
của mỗi cá nhân tơn trọng và bảo vệ nhân phẩm và danh dự của chính mình.
Người có lịng tự trọng biết làm chủ các nhu cầu của bản thân, kiềm chế
nhu cầu ham muốn khơng chính đáng và cố gắng tn theo các quy tắc chuẩn
mực đạo đức tiến bộ của xã hội, đồng thời biết quý trọng nhân phẩm và danh
dự của người khác.

4. Hạnh phúc
a. Hạnh phúc là gì ?
Hạnh phúc là cảm xúc vui sướng, hài lòng của con người trong cuộc
sống khi được đáp ứng, thoả mãn các nhu cầu chân chính, lành mạnh về vật
chất và tinh thần. Tuy nhiên trong thực tế có những nhu cầu khơng lành mạnh,
thiếu đạo đức như nghiện hút, chộm cắp, chiếm đoạt tài sản của người khác về
làm giàu cho mình. Một ví dụ cụ thể nói về hạnh phúc của một gia đình bị phá
hoại chỉ vì tranh nhau 900m ruộng. Bố mất sớm, mẹ già phải nuôi bốn người
con khôn lớn thành người, đến khi trưởng thành ai cũng có gia đình, có con lớn
nhưng người con trai duy nhất của bà mẹ ấy cùng với người mẹ của mình
mang nhau ra toà để tranh chấp đất đai. Trên cơ sở pháp lý, hoàn cảnh thực tế
và nguồn gốc của 900m đất ấy thì người mẹ là người được hưởng, thế nhưng
người con vẫn không chịu, vẫn muốn tranh đến cùng số đất ấy của người mẹ
già đã có cơng sinh thành mình. Hạnh phúc ở đây là gì mà tại sao người con ấy
có thể có nhu cầu thiếu đạo đức như vậy. Và liệu khi đã tranh được đất rồi thì
người con ấy có hạnh phúc. Theo tác giả nghĩ rằng có lẽ ơng ấy rất hạnh phúc
khi tranh được đất của người mẹ mình, bởi lẽ nếu khơng thì ơng ta đã khơng
mấy lần kiện lại để dành phần thắng cho mình. Nhưng người mẹ đã lấy được
đất rồi cũng khơng hạnh phúc lý do vì đứa con mình đứt ruột đẻ ra giờ lại vì
900m đất mà tuyệt tình với mẹ. Quả thật trong xã hội không biết người ta quan
niệm như thế nào là hạnh phỳc na?
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

16


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
b. Hnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội
Cảm xúc của con người ln gắn với từng cá nhân. Vì vậy khi nói đến

hạnh phúc, trước hết là nói đến hạnh phúc cá nhân. Và sống trong xã hội thì
con người phải có nghĩa vụ đối với con người. Nghĩa vụ đó là đem lại hạnh
phúc cho mọi người được gọi là hạnh phúc của xã hội.
Con người sống trong xã hội nên hạnh phúc cá nhân có mối quan hệ chặt
chẽ với hạnh phúc xã hội. Vì hạnh phúc cá nhân là hạnh phúc của xã hội, khi xã
hội hạnh phúc thì con người với có điều kiện để phấn đấu. Khi cá nhân phấn
đấu cho hạnh phúc của mình thì phải có nghĩa vụ đó với người khác và với xã
hội.
CHƯƠNG II : CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng giáo dục đạo đức hiện nay:
Hàng loạt các vấn đề gay cấn đang đặt ra trước sự nghiệp giáo dục.
Mọi người càng ý thức rõ “giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và cần thiết”. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã di chúc. Các nguy
cơ, thách thức là ở chỗ này. Tụt hậu, chệch hướng hay diễn biến hồ bình đều
tập trung vào thế hệ trẻ. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phụ thuộc phần
lớn vào kết quả giáo dục trong những năm tới. Trong dòng suy nghĩ ấy nỗi lo
lắng nổi bật lên và tập trung vào giáo dục đạo đức – tư tưởng chính trị và giáo
dục tay nghề. Nói khái quát, lo lắng về mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục,
cả ở nhà trường và gia đình đang là một vấn đề. Thang giá trị trong xã hội,
trong thanh niên học sinh đang có sự đảo lộn lớn, có ý kiến cho là đang khủng
hoảng, phát triển xu hướng cá nhân chủ nghĩa, tinh tế đơn thuần, thực dụng,
chạy theo đồng tiền. Ngay cả lý tưởng xã hội, chứ chưa nói gì đến lý tưởng xã
hội chủ nghĩa bị mờ nhạt, bị đặt vào bậc thấp trong thang giá trị. Vấn đề là ở
chỗ, trong thời gian có nhiều chuyển đổi xã hội – kinh tế ta quan tâm chưa
đúng mức đến việc định hướng giá trị xã hội. Thêm vào đó giáo dục nghề
nghiệp kém phát triển, nội dung còn lạc hậu, học sinh sinh viên ra trường hầu
như chưa có tay nghề, không đáp ứng được lao động kỹ thuật, nhất là cỏc liờn
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh


17


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
doanh hay của nước ngồi. Lo cho giáo dục hơm nay là nỗi lo cho tương lai của
dân tộc.
a. Thực trạng đạo đức chung của xã hội:
Giáo dục đạo đức công dân trong trường THPT vừa qua, khơng chỉ cịn
là một bộ mơn mà cịn thể hiện một cách tíh cực thơng qua các hoạt động của
nhà trường. Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm, các tập thể giáo viên dạy lớp,
của giáo viên quản nhiệm, của đoàn - đội và các hoạt động ngồi giời lên lớp…
đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo mục tiêu đào tạo,
hình thành nhân cách học sinh, chú trọng tốt hơn đến chức năng dạy người. Bên
cạnh đó báo chí đã phản ánh nhiều vụ học trò chia băng phái “thanh toán” nhau
ngay trước cổnh trường, nghiện hút, vi phạm pháp luật,…nhiều vụ việc xảy ra
ngày càng nghiêm trọng. Không những thế, thanh thiếu niên cịn có lối sống
hưởng thụ, coi nặng giá trị vật chất, tiêu xài hoang phí, lười lao động, sống ích
kỉ.
Học sinh ngày xưa với cuộc sống bao cấp, khó khăn, gian khổ thì nói dối
là một lỗi bị phạt rất nặng nhưng bây giờ những hành vi như tẩy sửa điểm, nhờ
ơng xích lơ, bà đồng nát…giả làm cha mẹ học sinh để đi gặp thầy cô giáo mỗi
khi học sinh phạm lỗi cần gặp phụ huynh để trao đổi về cách dạy và học ở các
em.
Số học sinh vi phạm pháp luật, thiếu lễ độ với người lớn, gây ggổ đánh
nhau, không trung thực, sống ích kỉ, ham chơi, đua đòi…ngày càng nhiều. Học
sinh hầu hhết đều biết hết mọi thứ về quan hệ tình dục, biết nhiều hơn người
lớn tưởng. Không chào hỏi người lớn, nói dối, xé bài vở trước mặt thầy cơ khi
bị điểm kém, chạy xe lạng lách ngồi đường, vơ lễ với giáo viên, sửa điểm
trong số liên lạc, mạo chữ kí của cha mẹ để xin nghỉ học đi chơi.
Học sinh vô lễ với thầy cô giáo, tỏ thái độ bất cẩn cùng những lời nói

hỗn xược trước sự nhắc nhở của thầy cơ. Các em thưịng gọi thầy cơ của mình
là “ơng ấy”, “bà ấy”, “lão ta”…Tệ hơn, các em cịn mắng nhiếc và văng tục
với thầy cơ mà khơng hề băn khoăn hay hối hận gì. Thậm chớ, kộo bố kộo cỏnh
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

18


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
ỏnh thy ngay tại lớp học, làm thầy bị thương phải điều trị dài ngày tại bệnh
viện. Nhưng câu chuyện đau lòng như vậy vẫn cứ tái diễn ở nhiều nơi…làm
đau lòng các nhà lương tri.
b. Thực trạng giáo dục đạo đức tại địa phương:
Bên cạnh đó là vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hết sức gay
cấn. Học sinh ngày nay được học tập, lao động, rèn luyện trong ngơi trường của
mình chỉ vơi mục tiêu chủ yếu đó la học tập.Họ đã quá lơ làng trong việc giáo
dục đạo đức cho các em. Các em là những người mới bắt đầu bước vào vị tuổi
thành niên, còn chưa hiểu hết các vấn đề xã hội. Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc,
rượu chè, trai gái mại dâm, nghiện hút, đánh nhau, đâm thuê chém mướn…Các
em nhanh chóng bị lơi kéo vào các vấn đề này một cách dễ dàng, không nhận
thức được hậu quả và tác hại vơ cùng lơn của nó.Sự việc ngày càng đi theo
chiều hướng xấu bởi lẽ ra ngoai xã hội thầy cô giáo không hề quản lý được
hành động của các em. Song song với đó là thái độ thờ ơ của gia đình học sinh.
Họ đã phó thác hồn tồn con em mình cho nhà trương quản lý và khơng một
chút mảy may, đối hồi đến.Hoặc các em khơng may mắn trong hồn cảnh gia
đình, bố mẹ ly hơn, nhà nghèo, hoặc bị bố mẹ quản lý quá chặt về cuộc sống
cũng khiến các em thấy ngột ngạt, khó chịu và muốn đi tìm cảm giác mới. Ra
đường băt gặp những người trơng có vẻ ưa nhìn một chút, tung tiền thoáng một
chút cũng đủ để các em muốn đi theo rồi.Các em đâu biết đươc đó chỉ là cạm

bẫy dụ dỗ các em, đưa các em đến bên lề của vực thẳm.Thiếu tiền, các em tìm
đến những kẻ dẫn dắt để chúng bày cho cách kiếm tiền. Không trừ một thủ
đoạn nào, các em bất chấp số phận, không ngại nguy hiểm để làm theo những
lời dạy của kẻ xấu mặt.Một khi đạo đức bị suy thoái, các em khơng thể tập
trung vào cơng việc học tập của mình. Tất cả đêu đổ vỡ, ngồi học phá lớp,
không chịu học bài, xúc phạm thầy cô giáo khi họ nhăc nhở, khuyên nhủ mình.
Đây quả thật là vấn đề nan giải, hết sức khó khăn mà chưa một nhà trường
THPT nào khăc phục được. Tất cả còn là câu hỏi ln cho cỏc nh giỏo
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

19


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
dc.Khuyn cỏo tình trang này đối với nền gáo dục Việt Nam và đặc biệt là
giáo dục nhân cách đạo đức cho học sinh .
Hiện thực xảy ra ở một số trường THPT, đạo đức của các em bị suy
thoái nghiêm trọng. Năm 2007 tại trường THPT Hoàng Lệ Kha đã xảy ra
những vụ việc mà khiến thầy cô giáo trong nhà trường, các cơ quan đoàn thể
hết sức bàng hoàng. Trên sân vận động huyện Hà Trung – Thanh Hố cơng an
huyên đã bắt giữ và thu tang vật tại hiện trường là những thanh “mã tấu” với
chiều dài đến gần 1m. Đó khơng phải là của những em nam đánh nhau mà ngạc
nhiên vì đó là của 2 em học sinh nữ lớp 12. Chỉ với lý do chuyện tình cảm. Khi
bị cơng an tra cứu thì 2 học sinh này đã khai rằng: “ vì anh ấy là người yêu của
em mà nó dám cướp, để giữ người yêu cho mình nên bọn em đã hẹn nhau ra
sân vận động tỷ thí. Nếu ai thắng thì anh ấy sẽ thuộc về người đó”.Là người
con gái mà tại sao? tại sao các em lại dám làm như vậy? Liệu khi này các cơ
quan chức năng, các nhà giáo dục mới can thiệp vào có cịn kịp khơng? Liệu
các em có giác ngộ kịp nữa hay không?

Vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Các em học sinh THPT ở đây vô cùng
giữ tợn, các em đặt ra một loại luật được lưu hành trong giới học sinh, các em
đưa ra định nghĩa về cái được gọi là “nhìn đểu”. Ra đường bắt gặp những cặp
mắt chỉ nhìn chúng với ánh mắt ngơ ngác, chăm chú một chút là tốp những đứa
con gái, con trai ấy lao đến đánh tới tấp khiến khơng ít các em học sinh học xa
nhà khơng lo lắng. Đến các bậc phụ huynh cũng lo lắng cho con em mình khi đi
học xa nhà. Thế nhưng tại sao các nhà chức trách vẫn chưa can thiệp vào, hay
can thiệp và cịn q nhẹ nhàng để tình trạng ấy vẫn tiễp diễn ra và ngày càng
nguy kịch hơn. Rồi từng tốp, từng tốp em nam nữ kéo nhau đi thành tập đồn
với vẻ mặt đầy sát khí, mang theo bên mình là những “gậy, cơn, kiếm” kéo đi
từ trương THPT Lê Hồng Phong vào trường THPT Hoàng Lệ Kha – Thanh Hóa
chỉ để xem trường nào mạnh hơn trường nào mà thôi. Vậy khi ấy các cơ quan
chức năng, luật pháp, nhà trường đang đứng ở đâu? Tại sao khơng biết và vẫn
để tình trạng ấy xảy ra thường xuyên, liên tục. Nghiêm trọng và nguy hiểm hn
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

20


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
na l “trinh tiết” của con gái. Học sinh THPT đã được xem là đủ lớn về sinh
lý, tất cả các cơ quan, các chức năng đều đã hoàn thiện. Một số phần tử nhỏ em
nữ của các trường học đã quá xem nhẹ việc này. Vì chơi bời, đánh lơ, đánh đề
không thể cung cấp đủ tiền cho các em tiêu xài các em nghĩ đến một việc làm
nhẹ nhàng, tốn ít công sức hơn là đi “bán trinh”. Các em một buổi đi học ở
trường, một buổi làm viêc tại các nhà nghỉ, khách sạn. Làm một mình khơng
vui, các em cịn lơi kéo thêm đi làm cùng mình là những cơ bạn thân có cùng
hồn cảnh, cùng số phận ăn chơi không đủ tiền. Làm việc một cách mù quáng,
không phân biệt được đúng sai, làm những nghề mất hết nhân tính người,

những nghề mà khơng được gọi là nghề. Tại sao năm nào cũng có những cuộc
nói chuyện, tuyên truyền về tệ nạn xã hội mà các em vân lao vào cuộc chơi như
con thiêu thân. Liệu khi bố mẹ các em biết, những người có cơng sinh thành,
giáo dưỡng, nuôi dạy các em để thành người như hơm nay có chịu nổi nỗi nhục
này khơng? liệu rằng khi việc làm ấy của các em bị lộ, bị mọi người biết thì các
em có xấu hổ khơng, có thấy nhục, có thấy có lỗi với cha mẹ mình hay không?
Rồi cuộc đời các em sẽ đi về đâu? Vấn đề đạo đức, nhân cách của học sinh
THPT đã khơng chỉ cịn là vấn đề của nhà giáo dục mà nó đã trở thành vấn đề
của tồn xã hội, nó ảnh hưởng đến cả một thế hệ, cả một đời người. Vấn đề
giáo dục đạo đức cho các em đang là một câu hỏi lớn cho nghành giáo dục
nước nhà.
2. Nguyên nhân của thực trạng :
Sự giáo dục yếu kém ở cả gia đình, nhà trường và xã hội. Về giáo dục
đạo đức trong nhà trường thường chú trọng đến nề nếp kỉ cương với những nội
dung, những bài học giáo huấn, không chú trọng đến hành vi ứng xử thực tế,
chương trình sách giáo khoa nặng về lí thuyết
Học trị là lứa tuổi ước mơ và sống lí tưởng. Vì thế họ có những mối tình
sét đánh, những nhân vật ăn chơi sành điệu, những sát thủ tàn bạo…trên phim
ảnh đã trở thành thần tượng của không biết bao nhiêu cơ cậu học trị. Các em vi
phạm đạo đức là do đây là lứa tuổi dậy thì, muốn vn lờn lm ngi ln ( tip
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

21


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
thu nhanh cái lạ và bắt trước nhân vật ưa thích trong phim ảnh) và về mặt tâm lí
thì các em thích gì thì say mê khơng suy nghĩ đến hậu quả. Các em ln cho
mình là người lớn, muốn tự khẳng định “cái tơi” của mình. Là lứa tuổi khao

khát khám phá những gì mà các em cho là bí mật. Đây cũng là thời kì các em
dễ bị tổn thương nhất. Chính vì thế cần phải hiểu rõ những thay đổi của các em
dù là nhỏ nhất, để có những định hướng kịp thời, tránh xa những việc làm đáng
tiếc.
Vấn đề được nhiều người quan tâm là sống theo kiểu “ lối văn hố
phong bì” trong nghành giáo dục. Đó là một hiện tượng chung của tồn xã hội,
khơng riêng gì nghành giáo dục. Người ta giải quyết cơng việc bằn “phong bì”
và siêu phong bì. Bố mẹ chiều con, khơng để con cái mình tự học tập theo đung
khả năng và năng lực của mình mà ln mang tiền ra để chạy điểm cho con
khiến chúng tiếp thu những loại văn hố đạo đức vừa khơ khan vừa thiếu thực
tế.
Hiện nay vào thời kì hội nhập nhiều học sinh sinh viên có ý chí vươn lên
trong học tập, có hồi bão, khát vọng lớn. Tuy nhiên đó cũng là nguyên nhân
dẫn đến những hành vi lệch chuẩn của thanh niên. Các học sinh cịn ngồi trên
ghế nhà trường ln vi phạm luật pháp khiến gia đình, xã hội lo lắng như thiếu
ý thức rèn luyện, không đáu tranh với cái sai, thờ ơ, vô cảm, bạo lực trường
học…
Chạy theo “bệnh thành tích trong giáo dục”, học sinh học kém, không
đủ điều kiện lên lớp nhưng vẫn được qua. Nếu như kiến thức cũ mà các em
chưa nắm hết được thì khi tiếp cận với một hệ thống mới gồm nhiều tri thức
mới vừa phức tạp, vừa khó nhớ thì sao các em coa thể tiếp thu được ? Từ biết ít
dần dần trở thành khơng biết dẫn đến tình trạng chán học ở các em, khi đó các
em sẽ quậy phá lớp, lập băng nhóm đánh nhau. Nguyên nhân ở đây là vì giáo
dục chưa tạo hứng thú cho các em học, không đủ thực tế để các em gần gũi với
văn hố cần tiếp thu. Chương trình học rất nhiều nhưng khó nhớ, khó nhập tâm.
Trên lớp giáo viên chỉ lo truyền thụ kiến thức, quan hệ thầy trũ nht nht. V
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

22



Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
nh, cha mẹ bận lo công việc, trẻ không được trang bị những kĩ năng tối thiểu
cũng như cách ứng xử trong cuộc sống.
Sự bng lỏng trong quản lí giáo dục con cái trong gia đình. Nhiều cha
mẹ sau thời gian đi làm về, muốn rảnh nợ đã mở ti vi hoằc trị chơi trên máy vi
tính cho con. Cứ như thế những đứa trẻ ngày càng tách khỏi thế giới thực và bị
cuốn hút bởi những trò chơi bạo lực li kì, hấp dẫn mà qn nhiệm vụ chính là
học tập, giúp đỡ gia đình. Nhiều gia đình cả cha và mẹ đều nặng về mưu sinh,
khơng có thời gian dạy dỗ con cái, đành giao trách nhiệm cho ông bà hoặc phó
thác cho nhà trường.
Nguyên nhân do áp lực về chuyên môn của giáo viên quá lớn. các thầy
cô giáo ngồi việc trường lớp cịn bao nhiêu việc cần giải quyết, kể cả việc dạy
thêm để tăng thêm thu nhập trong hồn cảnh đồng lương eo hẹp. Điều đó làm
giảm đi phần nào sự gắn bó, gần gũi với học sinh. Quan hệ thầy trị khơng cịn
được mật thiết nữa. Vì thế, trong những khúc mắc, trăn trở của học sinh chưa
nắm bắt kịp thời để có biện pháp ngăn chặn hay động viên các em vượt qua, sự
“khủng hoảng” về tinh thần của tuổi mới lớn đưa các em đến với nhiều thay đổi
về mọi mặt trong đới sống cũng như trong học tập. Giáo viên chưa đầu tư thời
gian, công sức vào sọan giáo án trước khi lên lớp, chưa có kĩ năng xây dựng và
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh chưa có thói
quen độc lập tư duy sáng tạo, chưa có năng lực và phẩm chất thể hiện tính tích
cực trong học tập
Trào lưu dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao dân
trí đã làm ý thức cá nhân được tăng lên. Tuy nhiên, các cá nhân nhiều khi làm
át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trộng hơn tất cả. Chẳng hạn các
nhà kinh doanh cho rằng hoạt động đem lại lợi nhuận cho mình bằng bất cứ giá
nào và không đém xỉa đến vấn đề đạo đức.
Giáo dục và đào tạo không phù hợp đối với xã hội trong giai đoạn

chuyển tiếp và xảy ra hiện tượng suy thoái đạo đức đối với các nhà giáo dục.
Tham ô, hối lộ,…tạo cho học sinh có suy nghĩ “tiền là trên ht mi hot ng
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

23


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
ca hc sinh đều dựa vào tiền để phát triển. Đặc biệt là vấn đề điểm trác, bằng
cấp.
Thiếu và kém hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế cho giáo
dục và đào tạo. Sử dụng còn chưa dung cách, đúng chỗ và kém khoa học.Nhà
nước cịn nghèo, kinh phí cung cấp cho mọi hoạt động kể cả vấn đề giáo dục
cũng thế.Có cung cấp cũng chưa đúng và đủ dẫn đến hiệu quả cho cơ sở hạ
tầng của giáo dục khơng có.
Giảm sút số lượng và chất lượng ở các cấp học: Năm 1987, tỷ lệ số
học sinh trên số dân là 20,63%. Năm 1994 tỷ lệ đó cịn 20,11%. Riêng ở bậc
THPT thì tỷ lệ là 1,48% và 1,18%
Sự cung ứng không đầy đủ giáo dục đại học, mạng lưới giáo dục đại
học không phù hợp, kém liên kết giữa các ngành nghề.Sinh viên đào tạo qua
trương đại học khi ra trường vẫn khơng có việc làm.Tình trạng thất nghiệp xảy
ra phổ biến ở hầu hết các nghành nghề đặc biệt là sư phạm.
Các nhược điểm và khó khăn của đội ngũ giáo viên.Các học sinh khi
còn ngồi dưới ghế nhà trường, khi chịu sự tác động hương nghiệp của giáo viên
và phụ huynh dặt ra cho minh một mục tiêu hướng tới.Nhưng do sự hiếu động
của trẻ mới lớn, các em chưa có ý thức lắm về nghề của mình nên có thái độ
học để đối phó, để thi đại học cho qua.Khi vào đến cổng trừơng đại học, cuộc
sơng xa nhà, tự mình phải lo liệu cho cuộc sống.Biết bao nhiêu cái cân phải
học, cần phải biết.Những khó khăn về tình cảm xa gia đình, khó khăn khi bố

mẹ chu cấp không kịp thời về kinh tế.Dẫn đến hiệu qủa đào tạo không cao.Khi
ra trường không có kinh nghiệm giảng dạy, khơng có đủ phẩm chất và năng lực
để giáo dục.Khiến học sinh đặc biệt là học sinh THPT, các em đã bước nào
nhận thức được và đúng thì khi đứng trước thầy cơ giáo đó sẽ khiến các em
nhận thức sai lầm về nhân cách, đạo đức sai lệch với thực tại.
Hệ thống tổ chức, quản lý và pháp luật trong giáo dục và đào tạo không
phù hợp với từng đối tượng cụ thể cần giáo dục. Ơng cha ta thường nói
“thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”,nếu như trong môi trương giỏo
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

24


Vấn đề giáo dục đạo đức học sinh THPT
dc nhà trường mà áp dụng phương pháp này đảm bảo học sinh sẽ không
muốn ngồi trong ghế nhà trường thêm một giây phút nào nữa.Các em sẽ cảm
thấy mình bị xúc phạm, bị sỉ nhục nhân cách.Vì thế đây là quan điểm sai lầm
của ông cha ta.Cáng dùng phương pháp mạnh với những em không đáng phải
chịu như thế sẽ làm em khác nhìn vào và có thái độ đạo đức không đúng.
3. Một số phương pháp giáo dục đạo đức:
1. Đạo đức Việt Nam luôn vươn tới lý tưởng “ chân, thiện, mỹ”, lấy chữ
Nhân làm đầu, lấy chữ Nghĩa làm trọng rồi mới đên Trí, Dũng. Văn hố Việt
Nam là văn hố nhân nghĩa thuỷ chung, ln hướng tới Chân, Thiện, Mỹ.Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân kết tinh truyền thống văn hoá Việt Nam mà giáo
sư Trần Văn Giàu trong tác phẩm “ bàn về truyền thống dân tộc” đã đúc kết
như sau:
Đó là biểu tượng của các giá trị dân tộc và nhân loại.
Suốt đời tận tuỵ, quên mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng.
Khí phách anh hung bất khuất, kiên trì chịu đựng gian khổ, kiên quyết

triệt để khơng gì lay chuyển nổi.
Nhìn xa trơng rộng, ung dung thư thái, khiêm tốn, giản dị, thanh
bạch tao nhã.
Hài hoà kết hợp.
Chủ nghĩa nhân đạo: thương người, vì người.
Trọng đạo đức.
Các em hoc sinh THPT cần học tập và rèn luyện theo tâm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Tấm gương sáng của Người không chỉ dành cho các chiên sĩ
lực lượng vũ trang mà dành cho tất cả mọi người.Dạy học vừa là con đường
vừa là phương tiện để giáo dục đạo đức cho học sinh.Dạy học không chỉ cung
cấp tri thức đạo đức cho học sinh, mà cịn có tác dụng phát triển toàn bộ phẩm
chất đạo đức ở học sinh.Nhà giáo dục phải thấm nhuần sâu sắc câu nói của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “thơng qua dạy chữ để dạy người”.
SVTH: Trịnh Thị Hoà
Lớp: 49A1 - Sinh

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×