Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

bài tập lớn nhân cách người thầy giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.16 KB, 31 trang )

Phần 1. Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ lúc cịn đang học nói, tập đi, chúng tơi đã được ơng bà, cha mẹ
truyền dạy điều mang tính chân lí và cũng là đạo lí: “Khơng Thầy đố mày làm
nên”.Hai chữ Thầy Cơ bình dị ấy cứ thiêng liêng dần trong kí ức, trong tâm hồn
chúng tơi.
Được đi học, được biết Thầy, biết Cô chúng tôi càng hiểu vai trị của
Thầy, Cơ, càng ghi sâu cơng ơn thầy cô, những người chắp cánh ước mơ cho
bao thế hệ học trị chúng tơi trở thành hiện thực. Thầy cơ là những kĩ sư tâm
hồn, những người đang tạo ra cho xã hội, cuộc sống sản phẩm là những Con
Người.
Để những sản phẩm của mình ln chỉ là chính phẩm chứ không bao giờ
là thứ phẩm, các Thầy, Cô đã lao động đến mức qn cả chính bản thân mình.
Hiểu được sự tận tuỵ trong lao động trí tuệ và tâm hồn của các Thầy, các Cô,
chúng tôi đều cố gắng học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Thầy cô giáo luôn là tấm
gương sáng cho mỗi thế hệ noi theo . Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình,
mỗi người thầy phải khơng ngừng tự đổi mới, hồn thiện bản thân để đáp ứng
yêu cầu mới, phải có ý thức quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa
học giáo dục, làm tốt công tác “dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người
thầy, cá nhân người thầy không ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của
nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà
sư phạm giỏi. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư
phạm, thành công không kiêu căng, thất bại khơng nản chí, thương u, gần gũi
học sinh, đồn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những “tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.Có những người thầy đã hi sinh cả đời cho sự
nghiệp trông người, thầm lặng, một long yêu nghề. truyền cho thế hệ học sinh
những kiến thức phong phú, làm giàu cho kiến thức, dạy chúng ta cách làm
người... ,Cha ơng chúng ta từng nói. nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả
các nghề. thật đáng buồn khi hiện nay, một số thầy cơ giáo khơng hồn thành tốt
1



cơng việc của mình, đánh mất đi nhân cách của người thầy, họ được đưa lên các
mặt báo, làm đề tài để bàn luận bởi nhưng việc như bệnh thành tích, tiêu cực,
nhận đút lót của trị, hoặc có thể bị cám dỗ bởi những tệ nạn trong xã hội...
Thực tế trong thời gian qua, trên toàn lãnh thổ nước ta, mỗi tỉnh thành, mỗi
huyện, xã có bao nhiêu nhà giáo nói riêng, bao nhiêu người làm cơng tác Giáo
dục - Đào tạo nói chung vi phạm đạo đức, vi phạm tác phong, nhân cách nhà
giáo? Các cơ quan pháp luật đã xử được bao nhiêu trường hợp nhà giáo vi phạm
đạo đức? Các cơ quan thông tin đại chúng đã tìm hiểu và đưa ra được bao nhiêu
nhà giáo vi phạm đạo đức?...
Hay là đó đây trong cả nước chỉ có vài trường hợp như một thầy giáo nào
đó trong q trình giảng dạy khơng kiềm chế được bản thân hoặc suy nghĩ nông
cạn, hay một phút thiếu sáng suốt, thiếu tỉnh táo, bình tĩnh nào đó hoặc ức chế
tâm lí mà có hành vi chưa đúng đạo làm thầy dẫn đến việc hành xử không đúng
như đánh học sinh, bắt phạt các em chạy, hay lợi dụng tình cảm của các em, trù
dập điểm số đối với các em, cưỡng dâm các em, chạy bằng, bán điểm… dẫn đến
cơng luận lên tiếng phản ứng.Vì lẽ đó, nhà giáo cần phải thường xun trau dồi
khơng chỉ trình độ chun mơn mà cịn cả về đạo đức, lối sống, phong cách, tác
phong và cái tâm trong sáng của mình.
Nhân cách nhà giáo đang là vấn đề thời sự, tôi cũng là một sinh viên
ngành sư phạm, là một giáo viên tương lai, vì vậy đã chọn đề tài nhân cách
người thầy giáo trên đất nước và cụ thể là Trường Trung học phổ thông Đặng
Thai Mai, nơi mà tôi đã từng học tập để tìm hiểu mặt tích cực cũng như những
hạn chế về nhân cách của một người giáo viên. Và cũng để rèn luyện nhân các
cho bản thân mình, tránh khơng bị sa vào thực trạng đó.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cở sở nghiên cứu thực trạng nhân cách của giáo viên hiện nay ở
trường Trung học phổ thơng Đặng Thai Mai để tìm ra những mặt tích cực, hạn
chế, nguyên nhân của hạn chế trong nhân cách người thầy giáo từ đó đề ra một
số ý kiến nhằm nâng cao nhân cách của người giáo viên trong thời đại hiện nay.

2


3. Đối tượng nghiên cứu : Nhân cách người thầy giáo
4. Phạm vi nghiên cứu.
Nhân cách nhà giáo ở Trung học phổ thông Đặng Thai Mai
Nhân cách nhà giáo ở nước ta hiện nay
Liên hệ với một số nhân cách nhà giáo, nền giáo dục trên thế giới
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu sơ qua về lý luận lien quan đến đề tài
- Nghiên cứu thực trạng về nhân cách người thầy giáo trên địa bàn trường
trung học phổ thơng Đặng Thai Mai và tìm hiểu ngun nhân của thực trạng.
- Đề xuất ý kiến nhằm nâng cao nhận thức về nhân cách người thầy giáo,
rèn luyện nhân cách giáo viên trong thời đại hiện nay.
6, Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát, hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp trò chuyện,
phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
- Thu thập thông tin

3


Phần 2: Nội dung
1. Cơ sở lý luận
Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học
sinh, sức mạnh đó khơng thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất
kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách
phạt nào khác.vấn đề nhân cách nhà giáo đá được nhiều người quan tâm và

nghiên cứu đến ở các cấp học.....
2. Khái niệm nhân cách.
Nhân cách con người được hiểu là con người có phẩm chất đạo đức tốt
như lịng u nước u gia đình q hương, là con người có đủ các phẩm chất
đức trí, có tài năng…..
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản
sắc và giá trị của con người
Nhân cách giáo viên là những phẩm chất đẹp của người giáo viên nhân
dân, như yêu nghề, tận tụy với cơng việc lịng nhiệt huyết đam mê, và có chữ tài
và chữ tâm.... nhân cách người giáo viên là rất quan trọng đối với mỗi người
giáo viên và học sinh..
3. Sự cần thiết phải trau đồi nhân cách đối với người thầy giáo.
3.1 Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh do
những yêu cầu khách quan của xã hội quy định.
Sản phẩm này là kết quả tổng hợp của cả thầy lẫn trò nhằm biến những
tinh hoa của nền văn minh xã hội riêng. Nghề dạy học quy định một cách khách
quan những phẩm chất tâm lý cần phải có trong tồn bộ nhân cách của người
thầy giáo. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những
phẩm chất tương ứng trong nhân cách của người thầy tạo nên chất lượng cao của
sản phẩm giáo dục
3.2 Thầy giáo, người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo.
Trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vẫn là sự phát triển tư
duy độc lập, sáng tạo của học sinh khơng chỉ phụ thuộc vào chương trình và
4


sách giáo khoa, nhân cách học sinh, mà còn phụ thuộc vào người thầy giáo
,phẩm chất chính trị trình độ chun mơn và khả năng tay nghề... trong nhà
trường chính vì thế việc trau đồi nhân cách nhà giáo là việc cần thiết.
3.3 Thầy giáo là cái "dấu nối ' giữa nền văn hóa nhân loại và dân tộc

với việc tái tạo nền văn hóa trong chính thế hệ trẻ.
Nền văn hóa của nhân loại, cũng như của dân tộc cũng chỉ được bảo tồn
và phát triển thông qua sự lĩnh hội của thế hệ trẻ . Người thầy có vai trò huấn
luyện theo phương thức đặc biệt đẻ trẻ lĩnh hội chính xác đầy đủ. Sự lĩnh hội
được thực hiện bằng cơ chế ( Thầy tổ chức và điều khiển hoạt động lĩnh hội của
trò. Trò hoạt động để chiễm lĩnh nền văn hóa đó)
Tri thức khoa học là phương tiện của hoạt động dạy của thầy , đồng thời
là mục đích của hoạt động dạy học ,cả thầy và trị đều phải hoạt đơng tích cực.
trị hoạt động theo sự tổ chức và điều kiển của thầy đẻ tái sản xuất nền văn hóa
nhân loại và dân tộc, tạo ra sự phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những
năng lực mang tính con người.
Thầy đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình giáo dục của trị
. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên sản
phẩm giáo dục nhân cách. Người thầy có sứ mạng thật vẻ vang nhưng công việc
không đơn giản . Công việc phải dựa trên cơ sở nắm vứng tri thức , dựa trên cơ
sở nắm vững con đường mà loài người đã đi qua trong khi phát hiện ra nền văn
hóa đó, dựa trên cơ sở những thành tựu tâm lý học, giáo dục học hiện đại, cần
phải an hiểu đầy đủ đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí
tuệ và đạo đức. Cần một quá trình lý luận nghiêm túc, trau dồi chuyên mơn, rèn
luyện tay nghề... và trau dồi nhân cách. Chính vì những lẽ đó mà sự trau dồi
nhân cách là tất yếu đối với một người thầy giáo để từng bước trau dồi chun
mơn, hồn thiện , hình thành lý tượng nghề nghiệp cao cả và tài năng sư phạm
hoàn hảo

5


4. Đặc điểm lao động của người thầy giáo.
Mỗi nghề nghiệp trong xã hội đều có những đặc diểm riêng biệt và khác
nhau khơng có nghề nào giống như nghề nào. Nghề giáo viên cũng có những

đặc điểm lao động khơng giống như những người khác đó chính là nghề mà xã
hội yêu cầu đồi hỏi rất cao và tài năng lẫn phẩm chất. chính vì vậy mà nghề giáo
cần đến nhân cách cao khi thực hiện công viêc dạy chữ trơng người của mình.
4.1 Nghề mà đối tượng quan hề trực tiếp là con người
Nhà giáo những con người trên giảng đường đã cho chúng ta những tri
thức quan trọng trong cuộc sống. nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con
người. vì thế nên nhân cách nhà giáo được đưa lên hàng đầu. Từ lời nói và hành
động họ cần phải có sự tơn trọng đối với học sinh, lịng tin, tình thương, cơng
bằng, thái độ lịch sự ân cần tế nhị…
Nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề, nó khác với các
nghề: bác sĩ, cơng an, bộ đội… nó là nghề giáo dục ra những con người của
tương lai. Xã hội của chúng ta tốt đẹp, phát triển được hay không là nhờ vào thế
hệ trẻ để thế hệ trẻ phát triển hết khả năng của mình một phần cơng sức to lớn
nhờ vào những người giáo viên. Hoạt đọng chính của người thầy giáo là tổ chức
và điều khiển trẻ lính hội thông qua những kinh nghiệm, những tinh hoa mà lồi
người tích lũy được và biến chúng trở thành những nét nhân cách của chính
mình. Vi vậy nà những người giáo viên họ là những người co nhiẹm vụ cao cả
mà không ai co thể thay thế được trong xã hội
4.2 Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình.
K.D.Usinxki đã khẳng định: “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”
đúng vậy nghề nào cũng cần đến nhân cách nhưng nghề giáo viên thi nhân cách
là công cụ chủ yếu của chính mình. Phải là người có phẩm chất chính trị, có lý
tưởng cao cả, là lịng u nghề mến trẻ là người có trình độ học vấn cao, người
thành thạo về nghề nghiệp. Có lối sống văn hóa cách xử sự và kỹ nắng giao tiếp
tốt… mới là người thầy giáo có nhân cách.

6


Ở trường trung học phổ thông tooid đã bắt gặp một giáo viên có nhân

cách đáng trân trọng, thấy là tấm gương cho mọi học sinh noi theo vì nhân cách
của mình. Tơi nhớ năm lớp 10, chúng tơi được biết thầy Phó Hiệu Trưởng nhà
trường Nguyễn Văn Ngọ, thầy có nụ cười hiền hậu nhưng khi làm việc thì rất
nghiêm nghị, thầy là thầy giáo dạy Sinh, mọi người ví thầy là con người của
cơng việc, thầy vừa đảm nhận cơng việc của nhà trường, vừa đóng góp vào cơng
tác quản lý học sinh và đều hồn thành mọi việc rất tốt. Thầy yêu nghề, yêu học
sinh, từ khi thầy chuyển về làm hiệu phó trường tơi, học sinh trong trường đã
chăm chú hơn, các tệ nạn trong trường giảm xuống. Trước đây trường tơi thường
xun có các vụ đánh nhau giữa các nam sinh trong trường nhưng khi thầy về
trường hiện tượng này đã giảm hẳn và bây giờ là khơng cịn nữa, thầy giúp nhiều
học sinh nhận ra hướng đi cho mình, tránh được những tiêu cực, tệ nạn trong xã
hội. Thầy là con người chưa từng nhận đút lót của một phụ huynh nào, ln ln
làm tròn phẩm chất của một người thầy giáo, thưởng và phạt rõ ràng khơng thiên
vị ai. Vì thế mà hình ảnh của thầy đã làm bao thế hệ học trò ngưỡng mộ và trân
trọng.
Nếu như một giáo viên với lối sơng sa đọa, ăn nói thơ tục, có tài năng
nhưng đánh mất đi phẩm chất thì người giáo viên đó cũng chỉ là thứ phế phẩm
trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Có tài mà khơng có đức là người
vô dụng” người giáo viên cũng vậy. Thầy giáo C, một giáo viên dạy hóa là một
thầy giáo nhưng khơng chăm lo vào cơng việc của mình, khơng có tư cách đạo
đức, nhận quà đút lót của học sinh chạy điểm,…. Và từng bị nhà trường kiểm
điểm và phê bình. Một giáo viên lao động nghiêm túc có phẩm chất tốt tài năng
giỏi thì học sinh của họ sẽ là những viên ngọc sáng giá mà xã hội rất cần. Để
đào tạo ra một con người co tài cho xã hội cần một người giáo viên có nhân cách
tốt. Vì vậy cần phải trau dồi hơn nữa nhân cách giáo viên.
4.3 Nghề tái tạo sản xuất mở rộng sức lao động xã hội.
Để tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cần đến sức lao động. Sức lao
động chính là tồn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người, trong
7



nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có để sinh ra sản phẩm vật chất hay
tinh thần có ích cho xã hội, giáo dục có chức năng quan trọng trong bồi dưỡng
và phát triển sức mạnh đó ở trong mỗi con người. Người giáo viên chính lực
lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội đó .
Để tạo ra sức mạnh này không phải đơn giản. Lấy ví dụ để biết vai trị to
lớn của người giáo viên. Một quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhưng
đất nước vẫn chậm phát triển như Châu Phi… chịu lệ thuộc làm sân sau của Mĩ.
Còn những nước có trình độ dân trí cao nguồn lao động có chất xám như Mĩ –
đất nước của dân nhập cư nơi hội tụ nhũng tài năng trên thế giới hay Nhật Bản
hay nhiều quốc gia khác. Là những quốc gia phát triển với tiềm lực kinh tế vững
chắc. Họ biết tận dụng người lao động có chất xám. Và để tạo nên những con
người thơng minh tài giỏi đó cần nhờ đến giáo dục. Nhờ đến nhà trường, thầy cô
những con người này tạo ra sức mạnh đó theo phương thức tái sản xuất mở rộng.
4.4 Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao.
Để học sinh nắm vứng được kiến thức chân lý, nắm vững phương pháp
phát triển trí tuệ ... khơng chỉ dừng lại ở trình độ kiến thức mà cịn địi hỏi ở
người giáo viên tình thần trách nhiệm, lịng u nghề, lương tâm nghề nghiệp,
lòng yêu thương học sinh. Thực hiện được cơng việc theo tinh thần đó, người
thầy giáo phải dựa trên nền tảng khoa học và có kỹ năng sử dụng chúng vào
từng tình huống sư phạm cụ thể thích ứng với từng cá nhân sinh động. “Ngươi
thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, người thầy giáo giỏi là người biết
dạy học sinh đi tìm chân lý” . Người giáo viên thực hiện chức năng của mình
theo u cầu cơng việc của họ địi hỏi phải có tính khoa học cao tính nghệ thuật
và tính sáng tạo cao như một người thợ lành nghề ,một nghệ sỹ, một nhà thơ giỏi
trong q trình sư phạm.
Trong mơn Địa lý của thầy Hồng chủ nhiệm lớp tơi, đặc thù của môn Địa
lý thường trừu tượng cả về biểu tượng lẫn kiến thức để khắc phục thầy đã sáng
tạo ra những đồ dùng học tập làm phong phú cho bài dạy như quả núi lửa phun
trào để chúng tôi có thể hình dung hoạt động của núi lửa. Qua hình ảnh thầy tơi

8


càng hiểu một giáo viên thì cần phải có tính sáng tạo cao trong dạy học và sau
này khi tôi trở thành một giáo viên tôi cũng sẽ cố gắng tìm hiểu khoa học và
sáng tạo đưa vào việc dạy học cho học sinh của mình một cách nghiêm túc như
thầy.
4.5 Nghề lao động trí óc chun nghiệp.
Lao động trí óc là dung sức mạnh của bộ não tạo ra những sản phẩm của
mình cho xã hội nghề lao động trí óc là nghề mà phải suy nghĩ hàng ngày, hàng
đêm, hàng năm và có khi là cả đời người để tạo ra sản phẩm cho mình. Nghề
giáo viên cũng chính là nghề lao động bằng trí óc của mình, để có thể soạn ra
một tập giáo án với vơ vàn kiến thức cho học sinh hiểu và áp dụng vào thực tế
người thấy cần phâỉ sự dụng bộ não của mình, phải thao thức hàng đêm, để suy
nghĩ làm như thế nào để tốt với học sinh mang lại tri thức cho học sinh. Vì thế
nhân cách giáo viên là yêu cầu tất yếu đối với người giáo viên là tầm quan trọng
của người thầy giáo trong thời đại hiện nay. Cô Anh dạy văn năm tôi lớp 12 đã
nói, cơ có bài giảng hay như hơm nay là nhờ những đêm cặm cụi với những
trang giáo án, chỉnh sửa, suy nghĩ làm sao để các em có thể hiểu được kiến thức
mà không bị nhàm chán.. Cô ấy nói với chúng tơi cơ ln thức q 11 giờ đêm
để soạn bài và đọc thêm tài liệu nên chúng tơi có thể hỏi những lĩnh vực về kiến
thức trong khung giờ đó. Một thành quả lao động đáng trân trọng và khâm phục
của một người giáo viên, không chỉ lao động ở trong giờ dạy cơ cịn lao động
ngồi giờ góp phần làm giàu thêm kiến thức cho chúng tơi.
Tóm lại thơng qua đặc điểm của người thầy giáo đặt ra nhiều đòi hỏi
nhiều phẩm chất và năng lực của người thầy giáo và yêu cầu đối với nhân cách
nhà giáo những giáo viên trong thời đại mới.
5. Cấu trúc nhân cách người thầy giáo.
Nhân cách là nói đến những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá
trị tinh thần của mỗi người như vậy cấu trúc nhân cách là một hệ thống gồm hai

bộ phận : phẩm chất và năng lực.

9


5.1 Phẩm chất
Là thái độ của người đó với hiện thực là hệ thống những thuộc tính tâm lý
biểu hiện các mối quan hệ cụ thể của người đó những mối quan hệ cụ thể đó
thường được thể hiện bằng hành động, hành vi và cách xử sự đối với con người
công viêc tổ chức. Mặt phẩm nhân cách bao gồm: ý thức, niềm tin đạo
đức( nhận thức)
5.2 Năng lực
Là nói đến mặt hiệu quả của tác động vào con người vào sự việc như thế
nào kết quả ra sao hiệu quả gì? Bao gồm năng lực trí tuệ ( nhận thức) , tình cảm
trí tuệ và hành động trí tuệ( ý thức) .
Phẩm chất và năng lực là tổ chức của 3 yếu tố cơ bản: nhận thức, tình
cảm, ý chí. Cả phẩm chất và năng lực làm thành hệ thống quyện vào nhau chi
phối lấn nhau và tạo nên một cấu trúc một thể thống nhất toàn vẹn.
5.3 Cấu trúc nhân cách người thầy giáo
Phẩm chất: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu
nghề nghiệp, những phẩm chất đạo đức của người thầy giáo,
Năng lực: năng lực hiểu học sinh trong qúa trình dạy học và giáo dục, tri
thức và tầm hiểu biết năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực ngôn ngữ năng
lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp sư phạm, năng
lực cảm hóa học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt
động sư phạm …
6. Phẩm chất của người thầy giáo
6.1 Thế giới quan khoa học
Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới quan Mác-Lênin, bao hàm
những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy.

6.2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ
Đây là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo.không phải là
những cái gì có sẵn , cũng khơng phải cái gì có thể truyền từ người này sang
người khác bằng cách áp đặt. hình thành và phát triển là nhờ quá trinh hoạt động
10


tích cực trong cơng tác giáo dục. Chính q trình đó nhận thức và yêu cầu đối
với nghề ngáy càng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng có quyết tâm cao.
Lý tưởng đào tạo của người thầy giáo biểu hiện bên ngồi bằng niềm say mê
nghề nghiệp, lịng u trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hi sinh với công việc,
tác phong làm việc cần cù trách nhiệm, lỗi sống giản di thân tình… tạo nên sức
mạnh gúp người thầy vượt qua mọi khó khăn về tinh thần và vật chất, hoàn
thành nhiệm vụ đào tạo xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính lý tưởng của người
thầy giáo đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người học sinh, có tác
dụng hướng dẫn điều khiển q trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Năm lớp 10 tôi cũng như bao bạn khác đều phải định ra cho mình những
kế hoạch cho tương lai, định hướng nghề nghiệp, lúc đó tơi đang hoang mang vì
mình vẫn chưa có dự định gì cho tương lai phía trước cả, nhưng rồi sau một thời
gian học bộ môn địa lý của thầy Hồng, ở tơi dấy lên một nguyện vọng tha thiết
là trở thành một nhà giáo, một giáo viên dạy địa lý. Tơi hằng mơ ước mình sẽ
được như thầy , đứng lên bục giảng và say sưa giảng cho học sinh nghe những
kiến thức mà tơi có, để các em biết về lãnh thổ nước ta, để biết khí hậu, để biết
Việt Nam ta có những địa danh nào… tơi cịn thấy hạnh phúc khi hình dung
mình sẽ là một cô giáo tốt như thầy, truyền cho trò những vốn tri thức một cách
đầy thuyết phục và tơi cịn dịu dàng hơn thầy nữa, và từ lúc đó tơi đã mong thời
gian trơi nhanh để tơi thực hiện ước mơ của mình. Thầy đã tạo ra trong chúng tơi
những niềm say mê riêng. Chính lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của thầy đã gúp cho
tôi định hướng được nghề nghiệp của mình. Vì những tác dụng to lớn của lý
tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong nhân cách giáo viên, cho nên các trường sư phạm

đều phải nhằm xây dựng lý tượng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu
khơng giáo dục lý tưởng thì khơng giáo dục gì hết
5.3 Lịng u trẻ.
Lịng u trẻ là một trong những phẩm chất cao quý của của con người ,
là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo, vì lịng u thương

11


người đó là đạo lý của cuộc sống, người giáo viên nào có lịng u người , u
trẻ nhiều ,thì người giáo viên đó vĩ đại bấy nhiêu
Lịng u trẻ của người thầy giáo biểu hiện
-Cảm thấy vui, sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế
giới độc đáo của trẻ
-Thái độ quan tâm đây thiện chí và ân cần đối với trẻ, kể cả khi học sinh
đó học khém học có thái độ vơ lễ
-Tinh thần giúp đỡ học sinh bằng ý kiến hoặc hành động thực tế của mình
một cách chân thành và giản dị. đối với học sinh khơng bao giờ có thái độ phân
biệt và đối xử
Lịng u trẻ chính là nét đẹp trong nhân cách người giáo viên.
Tôi đã học ở trường ngơi trường mà 3 năm tơi đã gắn bó ở đây thầy cơ
giáo ai cũng có một lịng u trẻ u nghề và ln làm hết mình vì cơng việc.
khi cả học sinh có yếu khém đến thế nào các cô thầy vẫn không chán nản, vẫn
luôn truyền giảng nhiệt tình nhất,để chúng tơi có thể làm được bài tập, 102 giáo
viên ở trường trung học phổ thông Đặng Thai Mai hầu hết mỗi giáo viên đều
than thiện với học sinh, mỗi giáo viên đều giàu tình cảm, tuy khó tính trong việc
dạy học, nhưng rất giàu tinh u thương trị nổi bật lên là các thầy các cơ như
thầy hiểu trưởng , thầy hiệu phó, cơ Đào. Cơ Oanh dạy văn.. cơ Hoa , thầy
Hồng dạy địa…nhiều cơ thầy khác trong nhiều lĩnh vực khác . Đều là những
giáo viên khắt khe với việc dạy học nhưng lại là những cô thầy coi học sinh như

con như cháu họ, ln u thương quan tâm, và tận tình chỉ bảo. Và tơi cịn nhớ
hình ảnh thầy Hồng khi vào chủ nhiệm lớp, đôi mắt của thầy làm chúng tôi sợ,
sau một vụ tai nạn một bên mắt thầy nhìn thấy mờ, thị lực giảm. Khác hẳn với
vẻ bề ngoài của thầy, thầy quan tâm lớp, quan tâm đến từng học sinh, đặc thù
của lớp là khối C nên thường hay nói chuyện riêng và yếu hơn về các mơn tự
nhiên, chính thầy là người đã đưa lớp tơi đi lên từ đó. Hồi đó lớp tơi có một cậu
bạn gia đình hồn cảnh khó khăn khơng có điều kiện đi học, cậu thường xuyên
bỏ học để đi làm, thầy đã giúp cậu có điều kiện để đến trường và cuối năm lớp
12


12 cậu đậu vào trương An ninh và không phải trang trải học phí. Chính lịng u
trẻ, u học sinh đã giúp cho người thầy giáo này hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình. Và tơi nghĩ nếu trở thành một giáo viên tơi cũng sẽ quan tâm, chăm sóc và
động viên học sinh của mình giống thầy. Cũng có những giáo viên khơng tốt
như thầy C dạy hóa có chun mơn, tay nghề giỏi nhưng khơng có lịng u trẻ,
giáo viên đó ln đánh học sinh, khi học sinh chậm hiểu,… và đã bị nhà trường
kỉ luật nhiều lần
Tóm lại lòng yêu trẻ của người thầy giáo là điều cần thiết của người giáo
viên, không thể pha trộn với những nét ủy mỵ, mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu
cao, nghiêm khắc đối với trẻ.
Bí quyết thành cơng của người thầy giáo xuất sắc là bắt nguồn từ tình cảm
vơ cùng sâu sắc, đó là lịng u trẻ “tất cả vì học sinh thân yêu”
Một giáo viên giỏi nhưng thiếu đi tính người thì người giáo viên đó liệu
có thể trở thành một giáo viên tốt hay không, cũng mới đây thôi tôi đọc trên
trang facebook của người than của một em bé mới lên lớp 6, đó là gì của em bé
đó đang viết ra những nỗi oan của người cháu gái của mình khi bị cơ giáo dạy
công nghệ dung thước đánh váo mông cháu, và cháu đá bị chết trong khi cô giáo
vẫn thờ ơ chối bỏ trách nhiệm trích đoạn bài viết tơi đọc được “Gửi mọi người
cháu mình tên Lê Thị Phước Hải, học sinh lớp 6/7, Trường trung học Phan Bội

Châu Quận Tân Phú. Hôm qua ngày 6/1/2015 mẹ cháu được nhà trường điện
thoại báo cháu đang được cấp cứu ở trạm y tế phường lúc mẹ cháu đến thì cháu
đang được nhồi tim. Mẹ cháu có hỏi tại sao lại nhồi tim con tơi thì cơ y tá ở
trường có nói là cháu đã khơng cịn nhịp tim từ lúc cháu xĩu ở trường. Sau đó
mới đưa lên bệnh viện với hy vọng cháu cịn sống nhưng khơng kịp vì tim cháu
đã ngừng đập. Lý do là vì cháu nói chuyện trong lớp cô giáo V dạy môn Công
Nghệ kêu cháu lên la cháu và bắt cháu nằm lên trên bàn. Cặp hết thước trong lớp
lại đánh cháu, và cháu khó thở, cháu té từ trên bàn xuống cháu sợ đái ra quần
mắt cháu trợn lên. Nhưng cô V không đỡ cháu rồi cháu xĩu, không đưa cháu đi
cấp cứu ở bệnh viện mà lại đưa cháu xuống phòng y tế ở trường. Nhưng xuống
13


tới đó, cơ y tá trường nói khơng đo được nhịp tim cháu. Rồi cô V dặn các sinh
trong lớp, khơng được nói ra khơng có đánh cháu, chị của cháu hỏi những bạn
trong lớp thì các em chối nói khơng có đánh. Nhưng có một em thấy cháu chết
oan nên đã kể ra, và có ghi âm lại là cháu có bị cơ đánh té xĩu đái ra quần khó
thở, mắt trợn lên, khơng đưa đi cấp cứu ngay lập tức. Giờ em ấy sợ liên quan,
hay sợ cô V nên bây giờ hỏi lại, em ấy lại chối nói rằng khơng nhớ. Từ lúc ba
mẹ cháu đưa xác cháu về mắt cháu không nhắm. Sau khi đưa xác cháu về thì
thầy hiệu trưởng và mấy cơ tới thăm hỏi nói sẽ kĩ luật cơ V thì sau đó cháu tức
oan ức máu mũi và miệng cháu tự ọc ra và trên đầu cháu tự hiện ra vết bầm cho
mọi người xem. Đó là do cháu oan ức, nên cho mọi người thấy vết thương của
cháu. Cháu mất rất oan ức cháu chỉ mới 11 tuổi mới sinh nhật được 7 ngày thơi.
Cháu chỉ là đứa trẻ cịn chưa hiểu biết. Tại sao cơ V khơng có lời thăm hỏi hoặc
xin lỗi tới gia đình. Cơ V thì chỉ bị nhà trường kĩ luật còn cháu chỉ là đứa trẻ 11
tuổi thì lại chết oan ức khơng nhắm mắt. Mong mọi người hãy đưa ra tiếng, địi
cơng lý “bài viết là một bức thư đầy thảm thương và một vết dơ cho nhân cách
người giáo viên của. Một sinh viên ngành sư phạm khi đọc đươc bài báo của
người dân phẩn nộ gửi lên mà còn thấy hổ thẹn với lương tâm vậy cơ giáo đó thì

sao. Một mạng người , một sinh linh. Có nhiều tấm gương tốt cần noi theo
nhưng cũng có những bộ mặt cần được có xã hội lên tiếng trỉ trích.
Một giáo viên khơng có lịng u trẻ thì sẽ làm tổn thương bao nhiêu thế
hệ học trị và có thể là tính mạng. Vậy nên cần phải rèn luyện phẩm chất này
trong nhân cách mỗi nhà giáo hơn nữa
5.4 Lòng yêu nghề (yêu lao động sư phạm)
Một người có thể lao động tốt và xuất sắc nhiệm vụ vì người đó có lịng
u nghề, người giáo viên cũng vậy. càng yêu nghề bao nhiêu thì sẽ hồn thành
nhiệm vụ trồng người bấy nhiêu.
Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào
tạo thề hệ trẻ của mình. Trong giảng dạy họ luôn làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp. Người hiến dâng cả đời cho
14


sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, hi sinh phấn đấu hồn thành tốt nhiệm vụ cao cả
của mình, gieo trồng nên những hạt giống cho tương lai. Họ luôn phấn đấu hoàn
thành tốt nhiệm vụ đào tạo con người làm hạnh phúc cao cả cho cuộc đời mình.
Và khẳng định người giáo viên tốt là người giáo viên có tình u với nghề
nghiệp. Từ khi tơi muốn trở thành một giáo viên, tôi đã nhiều lần quan sát các
thầy cô giáo trong trường, ở đây tôi luôn tự hào khi mình được giáo dục tại ngơi
trường có truyền thống u nghề có cơ giáo Diệp Anh mơn giáo dục công dân,
giáo viên Thanh dạy văn hoc, thầy Chương hiệu trưởng nhà trường, những con
người đó cũng là những tâm gương sáng cho nhà giáo Việt Nam noi theo. Luôn
cải tiến và biến đổi phương pháp học theo đổi mới của bộ giáo dục và đào tạo
như thầy Hồng cơ Hoa dạy đia lý, cơ Tâm dạy tốn…họ là những giáo viên yêu
nghề giáo , không bao giờ phàn nàn với cơng việc, ln tận tụy hết mình và dù
như thế nào vẫn ln gắn bó với cơng việc. Và với tơi thầy Hồng là người thầy
mà tơi khâm phục tôn trọng và luôn là tấm gương để tôi noi theo nhất. là học trò
của thầy suootrs ba năm học tôi thấy được con người thầy là tấm gương bao

người mến mộ. với thầy công việc dạy học như gia đình của thầy, nhìn chúng tơi
cơ gắng thầy thấy vui. Thầy cũng cô gắng để trau đồi kiến thức nhiều hơn nữa
để chúng tôi cô gắng học hơn nữa. Ngôi trường này tuy không phải nằm ở vùng
trọng điểm, không phải trường chuyên, nhưng các cô thầy giáo ở đây ln là
người thầy cơ giáo ngồi rèn luyện chun mơn giỏi cịn là niềm đam mê với
cơng việc giáo dục học sinh. Cơng việc dạy chữ của mình, tơi sẽ cố gắng hơn
nữa để sau này ra trường cũng là một giáo viên tốt, yêu nghề, yêu trẻ.
Là thầy giáo tốt thì u cơng việc giáo dục là vấn đề mỗi nhà giáo phải có
trong sự nghiệp trồng người của mình
5.5 Một số phẩm chất đạo đức (nét tính cách) và phẩm chất ý chí của
người thầy giáo.
Nghề giáo là nghề giáo dục con người, hoạt động của thầy giáo là làm
thay đổi con người (học sinh) vì vậy nếu người thầy giáo xây dựng được mỗi

15


quan hệ tốt với học sinh thì chất lượng dạy học sẽ cao hơn, tính tích cực của
hoạt động sẽ được nâng cao.
Mỗi thầy giáo đều là tấm gương của mỗi học sinh, vì thế nên người thầy
giáo khơng những bằng những hành động trực tiếp của mình mà cịn phải bằng
tấm gương của cái nhân, bằng thái độ của chính mình để giáo dục học sinh.
Thực tế ở trường Trung học phổ thơng Đặng Thai Mai đã có nhiều tấm gương để
học sinh noi theo với những phẩm chất đáng q là cơ Hoa, thầy Hồng, cơ Anh,
Hiệu trưởng, Hiệu phó, …
Để có thể làm tốt những điều đó, thầy giáo phải biết những quy luật khách
quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác phải có
những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Đó là tinh thần nghĩa vụ,
tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, thái độ nhân đạo, lịng tơn
trọng, thái độ cơng bằng, thái độ trung thực ngay thẳng, giản dị và khiêm tốn,

tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính kiềm chế, biết tự chiến thắng
với mọi thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng thích hợp với
mỗi tình huống sư phạm …
Phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí đều quan trọng với mỗi người giáo
viên, và đều tác động sâu sắc tới học sinh
Những người thầy giáo tôi đá học qua biết đến đều là những người thầy
giáo tốt, ln sẵn sàng vì cơng việc của mình. Họ là những người ln theo
phẩm chất chuẩn mực của người thầy giáo, luôn là tấm gương cho chúng tôi noi
theo. Các thầy cô giáo luôn làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.. phấn
đấu trở thành một nhà giáo gương mẫu cho đất nước,
6. Năng lực của người thầy giáo (Năng lực sư phạm)
Mỗi người thầy giáo đều có năng lực sư phạm nhất định . Hoạt động của
người thầy giáo biểu hiện ở tất cả các hình thái khác nhau của cơng tác sư phạm
nhưng thành tựu chung ở hai đặc trưng:
- Công tác dạy học
- Công tác giáo dục
16


Đây là sự phân chia mang tính tương đối vì khi tiến hành cơng tác dạy học
thì cũng đá đạt mục đích giáo dục, ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa
trên cơ sở dạy học. Đều để xây nhân cách cho thế hệ trẻ.
Cũng có người thầy giáo dựa váo chức năng đặc trưng của người thầy
giáo là dạy học và giáo dục để xác định cấu trúc của năng lực sư phạm . Để thực
hiện hiệu quả các chức năng đặc trưng đó phải có năng lực tương ứng , do đó tạo
thành các nhóm năng lực như:
- Nhóm năng lực dạy học
- Nhóm năng lực giáo dục
- Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm
Cách phân chia này giúp ta thấy những năng lực cần thiết cơ bản của

người thầy giáo, từ đó trong đào tạo ở các trường sư phạm cũng như tự rèn luyện
của giáo sinh, những hiểu biết sẽ có định hương bổ ích
6.1Nhóm năng lực dạy học
6.1.1 Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
Dạy học là quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động dạy
học và do thầy và trò đảm nhiệm. Trong q trình đó, chức năng của thầy là tổ
chức và điều khiển hoạt động của trò, chức năng của trị là chiễm lĩnh nền văn
hóa xã hội. dạy học chỉ có hiệu quả cao khi q trình đó thực sự là quá trình điều
khiển được. Kết quả của sự điều khiển một phần phụ thuộc vào tần số trao đổi
thong tin giữ người dạy và người học. Thầy càng hiểu trị hiêu kịp thời bao
nhiêu thì càng có căn cứ để tổ chức và điều khiển quá trình dạy và giáo dục của
mình bấy nhiêu.
Vì vậy năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy và giáo dục của được
xem là chỉ số cơ bản của năng lực sư phạm
Năng lực này sẽ gúp thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ , hiểu biết
tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những
biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục.

17


Biểu hiện của năng lực hiểu học sinh là ở chỗ, thầy biết định khối lượng
kiến thức đá có và mức đọ lĩnh hội, phạm vi lĩnh hội của học sinh từ đó xác định
mức độ và khối lượng kiến thức trình bày trong cơng tác dạy học hay giáo dục.
Người thầy có năng lực hiểu học sinh cịn thể hiện ở chỗ dự đốn được thuận lợi
và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các
nhiệm vụ nhận thức
Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách
nhiệm thương yêu học sinh, nắm vững môn dạy, am hiểu đầy đủ tâm lý trẻ
Chính thầy Hồng chủ nhiệm lớp tôi thời phổ thông, cũng là giáo viên dạy địa lý

người đá hiểu được những lo sợ của chúng tôi, đẫn dắt chúng tôi từ những buổi
đầu vào trường để chúng tôi cố gắng học tập và không bị sao nhãng, giúp chúng
tôi định hướng được tương lai, và thầy cũng là người làm tơi có mơ ước trở
thành một giáo viên. Thầy hiểu được chúng tôi đang lo lắng điều gì, và gúp
chúng tơi thốt khỏi những lo lắng đó. Để chúng tơi những học trị của thầy có
được như hơm nay
6.1.2 Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo
Đây là năng lực trụ cột của nghề dạy học. Thầy giáo có nhiệm vụ phát
triển nhân cách học sinh nhờ một phương thức đặc biệt là tri thức, quan điểm kỹ
năng thái độ,.. mà loài người khám phá ra, nhất là tri thức khoa học thuộc lĩnh
vực giảng dạy của mình.
Thầy giáo phải nắm vững nội dung bản chất như con dường mà loài người
đá đi qua.Chỉ có trong điều kiện ấy, thầy giáo mới có thể tổ chức cho học sinh
tái tạo và lấy lại những cái cần cho sự phát triển tâm lý, nhân cách của học sinh,
tạo ra những cơ sở trọng yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người
mới.
Công việc của thầy giáo là một dạng lao động phonng phú và đa dạng. Họ
vừa dạy một môn học, lại vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có một hững thú, một
nhãn quan rộng rãi và thiên hướng thích hợp. Do dó cần ở thầy giáo một tầm

18


hiểu biết rộng, tâm hồn của thầy giáo phải được bồi bổ nhiều tinh hoa dân tộc,
của cuộc sống và khoa học.
Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết được biểu hiện ở chỗ ;
_Nắm vững được những kiến thức và hiểu biết rộng môn phụ trách
_Thường xuyên theo dõi những xu hướng , những phát minh khoa học
thuộc mơn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những
hững thú lớn lao đối với nó

_có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hồn thiện tri thức của
mình, đầy đủ ý thức tự nguyện làm “một thứ bọt biển” để thấm hụt vào mình
mọi tinh hoa của khoa học, của nền văn hóa của nhân loại.
Người thầy giáo phải có hai yếu tố cơ bản trong chính mình . Thứ nhất là
nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết . Thứ hai là những kĩ năng để
làm thỏa mãn những nhu cầu đó 102 giáo viên của trường điều có năng lực
chun mơn cao, họ đều là những nhà giáo có tri thức và được đào tạo có hệ
thống ở các trường đào tạo sư phạm..có bằng đại học trở lên và họ là những nhà
giáo có tri thức và tầm hiểu biết. Một cô giáo tôi biết ở trường ngoài 4 năm học
Đại học với nguồn tri thức phong phú cô đã không ngừng trau dồi thêm kiến
thức đam mê đọc sách vở và đã có những bài giảng hết sức thuyết phục những ví
dụ thực tế và thêm vào đó là những kiến thức bên ngồi. Cơ cũng dạy Địa lý và
là trưởng bộ mơn Địa lý của trường. Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy
giáo rất quan trọng nên mỗi thầy giáo phải không ngừng học tập để trau dồi
thêm kiến thức của mình phục vụ cho việc dạy học.
6.1.3 Năng lực chế biến tài liệu học tập
Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập
nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi,đặc điểm cá nhân học
sinh,trình độ,kinh nghiệm của các em và đảm bảo logic sư phạm
Người thầy giáo phải biết đánh giá đúng đắn tài lệu. Việc đánh giá đúng
đắn tài liệu của giáo viên chính là xác lập mỗi quan hệ giữa yêu cầu kiến thức
của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh. Người giáo viên có năng
19


lực chính là người biết tính và xác lập được đúng đắn mỗi quan hệ nói trên, làm
sao vừa đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình,vừa làm
cho tài liệu đó vừa sức tiếp thu đối với trẻ
Trên cơ sở đánh giá đúng tài liệu,người giáo viên phải chế biến,gia công
tài liệu đảm bảo logic của sự phát triển khoa học,và phù hợp với logic sư

phạm,thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Người thầy giáo phải làm việc
vận chuyển tài liệu từ sách giáo khoa đến trò,tổ chức cho trẻ dành lại được tri
thức khoa học đã được gửi gắm trong sách giáo khoa,truyền được sức sống của
kiến thức, làm cho kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Cô
thầy giáo trong trường đã áp dụng những cách dạy mới để học sinh nắm được
bài, nhiều thầy cô giáo đã tiến hành dạy bằng máy chiếu, đưa những hình ảnh
đời sống vào bài dạy để trị dễ hiểu, dễ tiếp và có hứng thú trong việc học. Mơn
Tốn, một mơn địi hỏi trí thơng minh cao và đặc thù của lớp chúng tôi là lớp C,
nắm được tâm lý của lớp nên cơ liên đã có những cách dạy truyền đạt để học
sinh như khối C chúng tôi thi đua học tập hơn nữa. Nhờ có cơ mà lớp chúng tơi
đã cố gắng học tốn, kết quả kỳ thi tốt nghiệp cuối năm mơn tốn khơng ai dưới
5 điểm.
6.1.4 Nắm vững kỹ thuật dạy học.
Kết quả lĩnh hội tri thức,chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào ba
yếu tố: Một là trình độ nhận biết của học sinh, hai là nội dung của bài giảng,ba
là cách dạy của thầy. Vì vậy,thầy phải biết cách dạy và nâng cao trình độ cách
dạy lên mức năng lực. Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuật tổ chức
và điều khiển nhận thức của trò qua bài giảng
6.1.5 Năng lực ngơn ngữ
Ai cũng có những khuyết điểm, nhược điểm và tơi cũng vậy, tơi có tật nói
lắp, mơ ước trở thành một giáo viên Địa lý sẽ khó thực hiện khi không khắc
phục được nhược điểm này, tôi đã tâm sự với cơ Anh, và từ đó cơ bắt đầu giúp
tôi trong cách phát âm và giúp tôi tự tin khi đứng trước đám đông, khắc phục
được nhược điểm tôi đã bắt đầu tự tin khi nạp đơn đăng ký dự tuyển vào trường
20


Đại học sư phạm. Trong dạy học cũng như trong giáo dục ngôn ngữ của thầy
thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó,như truyền thụ
kiến thức mới,kiểm tra kiến thức cũ,thuyết phục học sinh tin vào một chân

lí,một lẽ phải nào đó,hoặc có khi qua lời nói biểu thị một sự đồng tình hay phản
đối điều gì.
Năng lực ngơn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ.
Nó là một trong những năng lực quan trọng của người thầy giáo,là cơng
cụ sống cịn đảm bảo cho người thầy giáo thực hiện chức năng dạy học và giáo
dục của mình.Sở dĩ như vậy là vì: Bằng ngơn ngữ giáo viên truyền đạt đến học
sinh,thúc đẩy sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng,điều khiển và
điều chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh.
Năng lực ngôn ngữ của thày giáo thường được biểu hiện ở nội dung và
hình thức vì thế yêu cầu về ngôn ngữ của thầy giáo là phải sâu sắc về nội dung
giản dị về hình thức.
a.Về nội dung:
-Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến tồn bài giảng ngơn ngữ phải chứa đựng một
mật độ thơng tin lớn,diễn tả trình bày phải chính xác cơ đọng.Những điều nói
trên là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết,của sự suy nghĩ sâu sắc.
-Lời nói phải phản ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo
thơng tin liên tục,logic.
-Nội dung và hình thức ngơn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận
thức khác nhau.
-Nhân cách của người thầy giáo là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho
lời nói của mình dù là thơng báo tán thưởng hay trách móc….Ngơn ngữ của
người thầy giáo bao giờ cũng được cân nặng bởi sức mạnh bên trong của họ.Vì
thế sức mạnh,sự lơi cuốn,lực hấp dẫn của lời nói người thầy giáo là tùy thuộc
một phần lớn vào nhân cách và uy tín của chính họ.

21


b.về hình thức:

-Về hình thức ngơn ngữ của thầy giáo có năng lực thường giản dị sinh
động giàu hình ảnh,có ngữ điệu,biểu cảm.Vì thế người thầy giáo cần suy nghĩ để
lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ hiểu,có chiều sâu về tư tưởng,có sức lay
động được tâm hồn học sinh.Nếu lời nói cầu kỳ,hoa mỹ kêu nhưng rỗng tuếch
thường khơng gây được ấn tượng tốt trong lịng học sinh.
-Năng lực ngơn ngữ của thầy giáo cịn biểu hiện ở chỗ thúc đẩy một cách
tối đa sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng.
-Nhịp độ ngơn ngữ của thầy giáo cũng có một ý nghĩa nhất định.Nếu ngôn
ngữ của thầy giáo đều đều,đơn điệu sẽ gây mệt mỏi rất nhanh chóng,làm cho
người nghe nhàm chán và thờ ơ.Nhịp độ quá gấp cũng gây khó khăn trong việc
lĩnh hội,chống gây mệt mỏi,ức chế bảo bệ phát sinh nhanh.Ngược lại nhịp độ
quá chậm cũng gây uể oải và tẻ nhạt.Người thầy giáo cần phải rèn luyện ngơn
ngữ của mình nhiều hơn nữa.
6.2 Nhóm năng lực giáo dục.
6.2.1 Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh.
Hình thành nhân cách là mục đích của giáo dục, . Nó là tổ hợp của những
phẩm chất và năng lực theo một cấu trúc nhất định . Vì vậy mọi hoạt động sư
phạm phải nhằm hình thành nên những “chất liệu” để dệt nên nhân cách học
sinh.
Người thầy giáo phải biết hình dung trước biểu tượng nhân cách học sinh
mà mình có nhiệm vụ đào tạo.
Đó là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục,yêu cầu đào tạo hình dung
trước cần phải giáo dục cho học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng
hoạt động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới.
Biểu hiện:
-Vừa có kỹ năng tiên đốn sự phát triển của những thuộc tính này hay
khác của từng học sinh,vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ
phát triển của những thuộc tính đó.
22



-Có sự sáng rõ về những biểu hiện nhân cách của những học sinh khác sẽ
thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách
do mình xây dựng
-Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình dung
nhân cách theo dự án.
Nhờ có năng lực này,cơng việc của thầy giáo trở nên có kế hoạch,chủ
động và sáng tạo.
6.2.2 Năng lực giao tiếp sư phạm.
Giao tiếp là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm.Những hình
thức chủ yếu của cơng tác giáo dục và học tập diễn ra trong điều kiện giao tiếp
như giảng bài,phụ đạo,thi cử,công tác cá biệt,lao động,vui chơi… Khơng có giao
tiếp thì hoạt động của giáo viên và học sinh khơng thể diễn ra.Vì vậy người giáo
viên cũng phải có năng lưc giao tiếp sư phạm.
Năng lực sư phạm thường được biểu hiện ở các kỹ năng chính như:
-Kỹ năng định hướng giao tiếp.
-Kỹ năng định vị.
Năng lực giao tiếp sư phạm không chỉ thể hiện trong việc tiếp xúc giữa
thầy và trò trong mọi mặt của hoạt động sư phạm.Trong thực tiễn hoạt động giáo
dục của mình,thầy giáo cịn có sự tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ huynh học
sinh,với các tổ chức xã hội khác.Thơng qua sự giao tiếp này,thầy giáo đóng góp
cơng sức của mình vào việc gắn giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã
hội,làm cho giáo dục cuộc sống cùng chiều với giáo dục nhà trường tạo nên sức
mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các
phẩm chất nhân cách.Chỉ có những giáo viên nào có nhiệt tình,tơn trọng nhân
cách học sinh,thiện chí,quan tâm giúp đỡ học sinh,ln lắng nghe và dân chủ
trong giao tiếp với họ thì thường dễ dàng thiết lập quan hệ tốt với học sinh,dễ
đạt kết quả cao trong hoạt động sư phạm của mình.


23


6.2.3. Năng lực cảm hóa học sinh
Muốn hiểu tưởng được giáo dục của mình , muốn cho tác động sư phạm
của mình có ý nghĩa đến sự hình thành nhân cách của trẻ, trong hệ thống các
năng lực sư phạm khơng thể vắng mặt năng lực cảm hóa học sinh.
Đó là năng lực gây được ảnh hương trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt
tình cảm và ý chí.Nói cách khác,đó là khả năng làm cho học sinh nghe,tin và
làm theo mình,bằng tình cảm bằng niềm tin.
Năng lực cảm hóa học sinh phụ thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân
cách giáo viên như tinh thần trách nhiệm đối với cơng việc,niềm tin vào sự
nghiệp chính nghĩa cũng như kỹ năng truyền đạt niềm tin đó,long tơn trọng học
sinh cũng như sự chu đáo và khéo léo đối xử của giáo viên,lòng vị tha và các
phẩm chất của ý thức. Tôi nhớ lúc mới bước chân vào lớp 10 mọi thứ đều trở
nên lạ lẫm, lớp chúng tơi khơng hịa đồng với nhau, trong lớp có 1 học sinh cá
biệt, thường xuyên bỏ học, đánh điện tử, cả lớp không ai chơi với bạn, xa lánh,
không ai tìm hiểu ngun nhân tại sao nhưng chính thầy chủ nhiệm, thầy Hồng
đã tìm ra ngun nhân và lơi bạn trở về với lớp. Thầy đã giúp lớp chúng tôi rất
nhiều từ những học sinh chán học, tìm lại được hứng thú để những học sinh
khơng có mơ ước trong tương lai tìm ra được hướng đi cho mình, thầy đã cảm
hóa được chúng tơi.
Tóm lại sức hút của sự cảm hóa hồn tồn bắt nguồn và hiện thân từ chính
bộ mặt chính trị đạo đức và tài nghệ sư phạm của thầy.
6.2.4 Năng lực khéo léo đối xử sư phạm.
Trong quá trình đào tạo người thầy giáo đứng trước nhiều tình huống sư
phạm khác nhau. Điều đó,một mặt địi hỏi người thầy giáo phải biết hiểu tâm lí
trẻ,hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em; mặt khác phải đòi
hỏi người thầy giáo phải biết giải quyết linh hoạt những tình huống sư phạm của
từng cá nhân cũng như tập thể học sinh.Muốn ứng xử tốt rõ ràng cần có tài năng

ứng xử sư phạm.Nói cách khác,sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng trong bất
cứ trường hợp nào cũng tìm ra được những tác động sư phạm đúng đắn nhất như
24


là một nghệ thuật.Vì thế,sự khéo léo đối xử sư phạm được xem như một thành
phần quan trọng của tài nghệ sư phạm.
Tóm lại,tài ứng xử sư phạm khơng gì khác hơn là một bộ phận của nghệ
thuật sư phạm.Cho nên,cơ sở hình thành nên nó cũng là do lương tâm nghề
nghiệp niềm tin yêu và tôn trọng người mà mình dạy dỗ,tinh thơng nghề nghiệp.
6.3 Nhóm năng lực hoạt động tổ chức sư phạm.
Người thầy giáo là người tổ chức lao động cho cá nhân và tập thể học sinh
trong những điều kiện sư phạm khác nhau,vừa là hạt nhân để gắn học sinh thành
một tập thể,vừa là người tuyên truyền và liên kết,phối hợp các lực lượng giáo
dục.Vì thế,năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là tất yếu cần có trong năng lực
của người giáo viên.
Năng lực tổ chức hoạt động của người giáo được thể hiện,trước hết ở chỗ
tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạy
học và giáo dục ở trên lớp cũng như ngoài trường cho từng học sinh cũng như
cho tập thể của chúng.
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm còn thể hiện ở chỗ biết đoàn kết học
sinh thành một tập thể thống nhất,lành mạnh có kỷ luật,có nề nếp đảm bảo cho
mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi,biến tập thể học sinh thành
thầy giáo thứ hai.
Người thầy giáo có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm khơng những biết
tổ chức và đồn kết học sinh,mà cịn biết tổ chức và vận động nhân dân,cha mẹ
học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một mục
tiêu xác định.
Những thành phần trong cấu trúc nêu trên sẽ giúp người thầy giáo thực
hiện chức năng cao cả của mình.Nhân cách người thầy giáo lại càng phát triển

hơn.
Mỗi thầy cô giáo trong trường luôn học tập để trau dồi phẩm chất, năng
lực của mình. Cố gắng nhiều để hồn thiện chun mơn nghề nghiệp của mình,
có nhiều thầy giáo tuổi đã cao nhưng vẫn hòa nhịp được cùng với học sinh, nắm
25


×