Vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật Việt Nam
ĐỀ TÀI:
MỤC LỤC
A: Mở bài
Nói rõ tính cấp thiết của đề tài
B: Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận của việc quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội theo quy định của Pháp luật Hình sự Việt
Nam
1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội
1.1. Khái niệm người chưa thành niên
1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
2.Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên
3. Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
3.1. Khái niệm quyết định hình phạt
3.2. Căn cứ quyết định hình phạt
3.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
3.4.Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
4. Các biện pháp tư pháp bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên
theo quy định của Bộ luật Hình sự, ưu điểm của các biện pháp
Chương II: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội
1. Thực trạng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên
2.1. Từ phía gia đình
2.2. Từ phía nhà trường
2.3. Từ phía xã hội
2.4. Từ chính bản thân
3. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ở
Việt Nam hiện nay.
3.1. Phòng chống và ngăn ngừa hành vi phạm tội của người chưa thành
niên ở Việt Nam hiện nay
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội
C: Kết luận
D: Tài liệu tham khảo
1
2
2
3
3
3
3
3
4
5
6
6
6
8
11
14
16
16
18
18
19
19
21
26
A: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong tất cả
các xã hội. Trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay, tình trạng người
chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp. Việc giải quyết vấn đề
người chưa thành niên phạm tội là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị
và trật tự an tồn xã hội nhưng cũng là vấn đề phức tạp và tế nhị. Trước hết, do xuất
phát từ đặc điểm tâm lý đang phát triển, nhân cách chưa được định hình, nhận thức
chưa được đầy đủ nên một số em đã có hành vi phạm tội một cách không tự giác.
Mặt khác khi phạm tội các em là những người phạm tội nhưng đồng thời cũng là
những nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội.
Hành động của các em ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh khách quan hoặc bị giục
ép, ép buộc, lừa dối …
Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội
phạm về người chưa thành niên là "vấn đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án,
trừng phạt một tội phạm nào đó mà điều quan trọng là phải tìm ra các cách để làm
giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để việc sai
trái ấy xảy ra". Quán triệt tinh thần đó, Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi,
bổ sung năm 2009 đã dành nguyên một chương riêng biệt (Chương X) quy định đối
với người chưa thành niên phạm tội. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối
với người chưa thành niên có hành vi phạm pháp luật xâm phạm tới những khách thể
do Bộ luật Hình sự quy định. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định này đã
nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực
trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án mà
chủ thể phạm tội là người chưa thành niên. Chúng tôi thấy những cơ quan, tham gia
vào việc giải quyết vụ án không những phải nắm vững các quy định của pháp luật,
tuân theo các quy định của pháp luật mà cịn phải có kiến thức nhất định về đặc điểm
tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để phục vụ cho công tác xét xử đạt chất
lượng cao. Hơn nữa, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, bên cạnh
những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu
cực trong đó tình hình người chưa thành niên phạm tội ngày càng diễn biến phức tạp
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hơị ngày càng tăng.
Trước những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, việc
nghiên cứu sâu về vấn đề quyết định hình phạt đối với những bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc
cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật. Với những phân tích
trên, tơi quyết định chọn đề tài "Vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội".
2
B: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm người chưa thành niên, người chưa thành niên phạm tội
1.1. Khái niệm người chưa thành niên theo pháp luật.
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi
quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1, Công ước quốc tế và quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thơng qua ngày 20/ 11/ 1989 có ghi: "Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định
tuổi thành niên sớm hơn".
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy
định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1,
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: "Trẻ em là cơng dân Việt
Nam dưới 16 tuổi".
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ
tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
1.2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Điều 12, Bộ luật Hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng".
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có
thể là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ
luật Hình sự.
3
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh) khi có đầy
đủ ba điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có
thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng
các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa
tội phạm.
Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội
phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra
bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể
nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi
phạm tội đều trở thành tội phạm.
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với tội
phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu thành
tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố
pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm
quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là "cần thiết" khi
hội đủ ba điều kiện sau đây:
- Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.
- Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
- Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa
vào trường giáo dưỡng khơng có hiệu quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội
mà cần áp dụng hình phạt đối với họ.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành niên
gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo
phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng …
2. Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như
tâm, sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm của họ cịn bị hạn chế. Người chưa
thành niên có những đặc điểm về tâm lý sau:
- Bắt đầu ý thức mình khơng cịn là trẻ con, muốn được độc lập, thích tự mình
quyết định, có xu hướng tách ra khỏi sự kiểm sốt của gia đình .
- Dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, thiếu tính thực tế, dễ bị kích động,
bị lơi kéo, dễ bị tổn thương, nhưng lại dễ thay đổi, thích nghi, dễ uốn nắn, nhiều hồi
bảo.
- Muốn được tơn trọng, được đối xử bình đẳng như người lớn.
4
- Chú trọng đến các mối quan hệ bạn bè và chịu ảnh hưởng nhiều của bạn bè
đồng trang lứa.
- Quan tâm đến hình thức bên ngồi và những thay đổi của cơ thể.
- Tị mị, thích khám phá, thử nghiệm.
- Phát triển mạnh cá tính, sở thích cá nhân, bắt đầu phát triển tư duy trừu
tượng.
- Có những hành vi mang tính thử nghiệm, bốc đồng. Cách suy nghĩ, nhận xét
và ứng xử còn hời hợt.
- Quan tâm đến bạn khác giới, dễ ngộ nhận tình bạn khác giới với tình u.
- Phát triển kỹ năng phân tích, bắt đầu nhận biết hậu quả của hành vi.
Trong các đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên nói trên, ta thấy hai
khuynh hướng nổi bật liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục, cải tạo họ đó là:
Họ dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm nhưng
do ý thức phạm tội của họ chưa cao và chưa chắc chắn nên cũng dễ uốn nắn, cải tạo,
giúp đỡ họ thành người có ích cho xã hội.
3. Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
3.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là khái niệm có thể được nghiên cứu từ hai góc độ khác
nhau đó là từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự. Luật Hình sự đề
cập đến tất cả các vấn đề liên quan đến nội dung của quyết định hình phạt cịn Luật
Tố tụng hình sự lại đề cập quyết định hình phạt như là hoạt động của Tòa án trong
giai đoạn xét xử. Trong Luật Hình sự Việt Nam, khái niệm quyết định hình phạt
được coi là khái niệm cơ bản và quan trọng sau khái niệm tội phạm và hình phạt vì
đây là những khái niệm thể hiện tính tập trung nhất bản chất giai cấp và chính sách
hình sự của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xuất phát từ góc độ Luật Hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt là sự
lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng đối với người phạm tội cụ thể.
Quyết định hình phạt chỉ đặt ra đối với các trường hợp người phạm tội khơng
được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt tức là đối với trường hợp thực sự cần
thiết phải áp dụng hình phạt cụ thể nhằm trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm
tội. Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình phạt
chính khác nhau. Quyết định hình phạt đối với người phạm tội là sự lựa chọn một
trong số các hình phạt chính và xác định mức hình phạt cụ thể trong khung quy định,
còn nếu trong phần chế tài của điều luật về tội phạm cụ thể được quy định một loại
hình phạt chính thì quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp
này là việc quyết định mức hình phạt chính trong phạm vi khung quy định.
Quyết định hình phạt được xem là sự xác định hậu quả pháp lý của tội phạm
vì thế liên quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay gọi là định tội danh. Việc
xác định tội phạm đúng tạo tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng. Định tội
danh đúng có nghĩa là chỉ ra đúng chế tài cần áp dụng đối với người phạm tội cụ thể.
Dựa trên cơ sở định tội đúng có thể xác định được đúng loại và mức hình phạt cụ thể
để áp dụng đối với người phạm tội nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
5
Như vậy, có thể nói quyết định hình phạt có ý nghĩa hai mặt. Một mặt cùng
với việc định tội, quyết định hình phạt là sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất việc áp
dụng pháp luật hình sự vào đấu tranh chống tội phạm. Mặt khác, quyết định hình
phạt tạo cơ sở quan trọng để đạt được mục đích của hình phạt.
3.2. Căn cứ quyết định hình phạt
Theo Điều 45, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về căn cứ quyết định
hình phạt như sau:
"Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Theo quy định này, các căn cứ quyết định hình phạt bao gồm:
- Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999;
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
- Nhân thân người phạm tội;
- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.
3.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý và yêu cầu của việc phòng chống tội phạm của
người chưa thành niên, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy
định những nguyên tắc đặc thù về xử lý người chưa thành niên phạm tội gồm:
Nguyên tắc thứ nhất là việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng
dân có ích cho xã hội.
Trong điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây
ra tội phạm (khoản 1, điều 69 BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009). Khi
người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan tư pháp phải xác định chính xác tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Có như vậy mới giúp
cho họ nhận thức ra được lỗi lầm và sửa chữa để trở thành cơng dân có ích cho xã
hội trong tương lai.
Tính bền vững của ý thức phạm tội trong những trường hợp người chưa thành
niên phạm tội rất khác nhau nó ảnh hưởng đến sự lựa chọn các biện pháp xử lý áp
dụng đối với họ. Các cơ quan tư pháp còn cần làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây
ra tội phạm. Những nguyên nhân và điều kiện phạm tội có thể xuất phát từ mơi
trường xã hội hoặc từ chính bản thân người chưa thành niên phạm tội, từ đó có các
biện pháp cụ thể đấu tranh ngăn ngừa hiện tượng phạm tội ở người chưa thành niên.
Thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các biện pháp áp dụng với
người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được
tính chất nguy hiểm của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo
của các biện pháp áp dụng. Chỉ trong những trường hợp phạm tội có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội cao, ý thức phạm tội của người chưa thành niên sâu
sắc mới cần thiết phải áp dụng các biện pháp trừng trị đối với họ.
6
Nguyên tắc thứ hai là người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm
hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây hại khơng
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục. Đây là nguyên tắc miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội. Người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn
bốn điều kiện sau: tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng;
chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại khơng lớn; có nhiều tình tiết giảm nhẹ; được gia
đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc thứ ba là việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy khơng cần thiết phải áp
dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì Tịa án áp dụng một trong
các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo
dưỡng.
Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, không phải mọi trường hợp
người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc truy cứu
trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và xuất phát từ yêu cầu phòng
ngừa tội phạm kể cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thì họ vẫn có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt. Thay vào vị trí của hình
phạt, họ có thể được áp dụng các biện pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác dụng
cải tạo họ thành cơng dân có ích cho xã hội.
Nguyên tắc thứ tư là không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội. Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa
thành niên phạm tội, không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên
phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời han, tịa án
cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối
với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Tử hình và chung thân là những hình phạt có tính nghiêm khắc cao chỉ áp
dụng trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Việc xử lý người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, cải tạo họ. Do đó khơng áp dụng hình phạt
nghiêm khắc này đối với họ. Thể hiện nội dung nhân đạo, Điều 69 Bộ luật Hình sự
năm 1999 quy định khơng áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành
niên phạm tội. Trong trường hợp, người chưa thành niên phạm tội tương đương với
người đã thành niên và bị xử phạt tù có thời hạn thì mức án áp dụng đối với họ phải
thấp hơn so với người thành niên (Điều 74 BLHS năm 1999).\
Nguyên tắc thứ năm là án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội
khi chưa đủ 16 tuổi thì khơng được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm.
Theo Điều 49, Bộ luật Hình sự năm 1999 thì:
"1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây thì được coi là tái phạm nguy hiểm:
7
a, Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý.
b, Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý".
Như vậy, trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm không xác định đối
với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi.
3.4. Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Hệ thống hình phạt của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Căn cứ vào đặc điểm của trường hợp
người chưa thành niên phạm tội, yêu cầu của việc phòng, chống tội phạm và xuất
phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, Luật Hình sự quy định các hình phạt
sau được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
. Cảnh cáo;
. Phạt tiền;
. Cải tạo không giam giữ;
. Tù có thời hạn;
Tử hình và tù chung thân là những hình phạt chính, nghiêm khắc nhất chỉ áp
dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng khi người chưa thành niên
phạm tội, ý thức phạm tội của họ không cao và họ chịu sự chi phối, ảnh hưởng rất
lớn từ điều kiện và hoàn cảnh của xã hội. Do đó, Luật Hình sự quy định khơng áp
dụng tử hình và tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.
Các hình phạt bổ sung được quy định trong Bộ luật Hình sự trong mối liên hệ
tương hỗ với các hình phạt chính, có tác dụng đảm bảo cho các mục đích của hình
phạt. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ cả về vật chất cũng như
trí tuệ. Để họ có khả năng cải tạo, giáo dục tốt hơn và thể hiện tính nhân đạo đối với
họ. Luật Hình sự quy định khơng áp dụng hình phạt bổ sung với người chưa thành
niên phạm tội.
+ Hình phạt cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt chính có tính giáo dục sâu sắc,
thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội và hành vi
phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra cho người bị kết án tổn thất tinh thần.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng
và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Ví dụ, người chưa thành niên phạm tội "Trộm cắp tài
sản", theo khoản 1, Điều 138, Bộ luật hình sự thì có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo.
Điều kiện thứ hai của hình phạt cảnh cáo là người chưa thành niên phạm tội
có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46, Bộ
luật hình sự. Các tình tiết này đều có thể xảy ra trong trường hợp người chưa thành
niên phạm tội trừ những tình tiết quy định tại mục m, khoản 1, điều 46 Bộ luật Hình
sự.
Do tính giáo dục cao của hình phạt cảnh cáo, cần áp dụng rộng rãi hình phạt
này đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ các điều kiện trên. Người
chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo, được xóa án tích sau sáu tháng nếu họ
khơng phạm tội mới (Điều 64, Điều 77, BLHS năm 1999).
8
+ Hình phạt phạt tiền: Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội nhằm tước đi quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ
trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện đó là họ
là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Các
điều kiện về áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện
thái độ của Nhà nước trong trường hợp này. Người chưa thành niên thường chưa có
thu nhập hoặc tài sản riêng, chỉ phạt tiền khi họ có khả năng chấp hành án. Bộ luật
Hình sự năm 1999 hạn chế hình phạt phạt tiền theo độ tuổi, chỉ người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi mới có thể bị phạt tiền. Trong trường hợp khơng thỏa mãn các điều
kiện phạt tiền thì áp dụng các hình phạt khác mà Luật Hình sự cho phép như cải tạo
khơng giam giữ hoặc tù có thời hạn.
Khi phạt tiền người chưa thành niên cần tuân thủ các quy định tại các Điều 30
và Điều 72 Bộ luật Hình sự năm 1999. Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên
phạm tội được quyết định theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình
hình tài chính của người chưa thành niên phạm tội và sự biến động giá cả. Mức phạt
tiền đối với người chưa thành niên là không quá một phần hai mức tiền phạt mà luật
quy định.
Theo Điều 30, Bộ luật Hình sự năm 1999, mức phạt tiền không được thấp hơn
một triệu đồng và tiền phạt có thể nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa
án quy định.
Nếu sau khi bị phạt tiền, người chưa thành niên lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc
biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra thì Tịa án
có thể quyết định giảm hoặc miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. Người chưa
thành niên lập cơng lớn trong phịng chống tội phạm hoặc trong việc cứu giúp người
khác khi bị lụt lội, hỏa hoạn hoặc các tai nạn khác thì cũng được giảm hoặc miễn
chấp hành phần phạt tiền còn lại. Các quy định này trong Bộ luật Hình sự năm 1999
nhằm khuyến khích người chưa thành niên tham gia tích cực và có hiệu quả vào hoạt
động xã hội.
Người chưa thành niên bị phạt tiền được xóa án tích nếu sau sáu tháng kể từ
ngày họ chấp hành xong bản án mà không phạm tội mới.
+ Hình phạt cải tạo khơng giam giữ: Cải tạo khơng giam giữ là hình phạt
chính có nội dung giáo dục sâu sắc không buộc người được áp dụng hình phạt này
phải cách ly khỏi xã hội. Họ vẫn có thể thực hiện cơng việc thường ngày và sống
trong mơi trường gia đình và xã hội như trước đây.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng
hai điều kiện là hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng,
họ phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng. Chỉ những người
này mới không cần cách ly khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo. Khi họ có việc làm ổn
định hoặc chỗ ở rõ ràng thì việc giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc của chính quyền
địa phương mới có cơ sở và có hiệu quả.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện
các nghĩa vụ của mình. Họ phải chấp hành pháp luật của Nhà nước và các quy định
9
của cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát và giáo dục. Họ phải tham gia lao
động, học tập và sửa chữa những lỗi lầm của họ trước đây. Cải tạo không giam giữ
đối với người chưa thành niên phạm tội có sự khác biệt so với người đã thành niên,
họ không bị khấu trừ thu nhập khi tham gia lao động. Điều này khuyến khích họ lao
động, cải tạo thành người có ích cho xã hội.
Thời hạn của cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên cũng thấp
hơn so với người đã thành niên. Nó khơng được vượt q một phần hai thời hạn mà
điều luật quy định.
Ví dụ: người chưa thành niên phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo
Khoản 1, Điều 139, Bộ luật Hình sự năm 1999 thì mức cao nhất của cải tạo không
giam giữ đối với họ là một năm rưỡi.
Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ khi đã chấp hành được
một phần tư thời hạn và có nhiều tiến bộ thì có thể được Tịa án giảm hình phạt. Nếu
họ lập cơng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét, giảm ngay và có thể được miễn
chấp hành hình phạt cịn lại.
Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ được xóa án tích sau
sáu tháng kể từ ngày chấp hành xong bản án mà người đó khơng phạm tội mới.
Gia đình có vai trị lớn trong việc giáo dục, quản lý, giám sát người bị cải tạo
khơng giam giữ nói chung và người chưa thành niên nói riêng. Gia đình có nghĩa vụ
cùng cơ quan, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương giám sát giáo dục người bị
kết án chỉ khi sự kết hợp này được thực hiện có hiệu quả thì tác dụng giáo dục, ngăn
ngừa của hình phạt mới được đảm bảo.
+ Tù có thời hạn: tù có thời hạn là hình phạt cách ly người phạm tội ra khỏi xã
hội để giáo dục, cải tạo họ thành cơng dân có ích cho xã hội.
Đây là loại hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy,
loại hình phạt này có thể áp dụng đối với mọi tội phạm được quy định trong luật
Hình sự Việt Nam.
Đối với người chưa thành niên phạm tội khơng thể áp dụng tử hình hoặc tù
chung thân. Do vậy tù có thời hạn trở thành hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt này áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường
hợp người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng cần thiết
phải áp dụng hình phạt nhưng khơng có đủ điều kiện để áp dụng các hình phạt khác
như cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo khơng giam giữ thì cũng áp dụng hình phạt tù có
thời hạn.
Người chưa thành niên bị phạt tù có thời hạn phải cải tạo tại các trại giam,
phải tuân thủ các quy định của trại trong học tập, lao động, sinh hoạt. Họ được tham
gia riêng để đảm bảo hiệu quả của giáo dục, cải tạo khi người chưa thành niên đang
chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển họ sang chế độ giam
người đã thành niên (Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự). Trong thời gian chấp hành
hình phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên được học văn hóa và học nghề. Học
tập giúp họ cải tạo tốt và tạo điều kiện cho cuộc sống sau này khi quay trở lại xã hội.
Về mức tù giam, Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định như sau:
10
"Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc hình phạt tử hình thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng khơng quá mười tám năm tù. Nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng quá ba phần tư mức phạt tù mà điều
luật quy định
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng khơng q mười hai năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng khơng q một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định".
Các quy định trên thể hiện sự nhân đạo khi áp dụng hình phạt này đối với
người chưa thành niên đồng thời tuân thủ nguyên tắc "khi xử phạt tù có thời hạn Tòa
án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng
đối với người đả thành niên phạm tội tương ứng". (Điều 69 Bộ luật Hình sự năm
1999)
Người chưa thành niên phạm tội và bị phạt tù được giảm mức hình phạt theo
hai trường hợp sau:
+ Người chưa thành niên đã chấp hành được một phần tư thời hạn tù và có kết
quả cải tạo tốt, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của ban giám thị trại giam, Tịa án
có thể xét giảm lần đầu. Họ có thể được giảm nhiều lần, mỗi lần có thể giảm đến bốn
năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
+ Người chưa thành niên bị phạt tù nếu lập công chuộc tội hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành hình phạt cịn lại.
Khi người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù thì ban giám thị
trại giam phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội tại địa phương giúp họ trở về
sống bình thường trong xã hội. Thời hạn xóa án tích của người chưa thành niên
phạm tội nên bị phạt tù sớm hơn tương tự trường hợp ở người thành niên. Căn cứ
vào điều 77, Bộ luật Hình sự năm 1999, thời hạn xóa án tích của người chưa thành
niên phạm tội là bằng một phần hai thời hạn của người thành niên.
Đây là điểm khác so với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985. Ở Bộ luật
Hình sự năm 1985 thì theo nguyên tắc người chưa thành niên phạm tội phải được
giam riêng.
3.4. Các biện pháp tư pháp bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên
theo quy định của Bộ luật hình sự. Ưu điểm của các biện pháp.
Điều 70, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể các biện pháp tư pháp
để áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể, Điều 70 quy định như
sau:
“Điều 70. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội
1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng
một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phịng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.
11
2. Tồ án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một
năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội
nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa
vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính
quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Toà án giao trách nhiệm.
3. Tồ án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm
đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và mơi trường sống của người đó mà cần
đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào
trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Tồ án quyết định và có
nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách
nhiệm giám sát, giáo dục, Tồ án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.”
Khi người chưa thành niên phạm tội, Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ
luật Hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và u cầu
của việc phịng ngừa tội phạm nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội thì áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là
giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng
+ Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Đây là biện pháp tư pháp có
tính chất giáo dục và phòng ngừa, được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng trong thời hạn từ một năm đến hai năm
Người chưa thành niên được giáo dục tại xã, phường, thị trấn có nghĩa vụ
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, tích cực thực hiện nghĩa vụ cơng
dân và quy ước của thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú; làm bản cam
kết với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám
sát, giáo dục trong đó nêu rõ các biện pháp tích cực sửa chữa lỗi lầm của mình. Bản
cam kết phải có ý kiến của người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục.
Người chưa thành niên phạm tội khi bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thì trấn phải thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa
chữa lỗi lầm, học tập, làm ăn lương thiện và tham gia các họat động chung tại cộng
đồng dân cư nơi mình cư trú; làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng
của mình, gửi chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ
chức được giao giám sát, giáo dục khi đã chấp hành xong được một phần hai thời
gian thử thách. Bản tự kiểm điểm phải có nhận xét của người trực tiếp giám sát, giáo
dục hoặc của cảnh sát khu vực, công an xã, phường, thị trấn, làng ấp, bản nơi người
đó cư trú. Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo
dục về kết quả rèn luyện, tu dưỡng của mình. Trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú
trên 30 ngày thì báo cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu
vực hoặc công an xã nơi người chưa thành niên phạm tội đến tạm trú.
12
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát,
giáo dục có trách nhiệm phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người chưa
thành niên phạm tội; tạo điều kiện giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội học
nghề, tìm việc làm để ổn định cuộc sống; phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan
khác và gia đình người chưa thành niên phạm tội trong việc giáo dục, cảm hóa giúp
họ sửa chữa lỗi lầm; yêu cầu người chưa thành niên phạm tội thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ của mình, có biện pháp ngăn ngừa, uốn nắn kịp thời khi người đó có biểu
hiện tiêu cực và thơng báo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý khi cần thiết; kịp thời
biểu dương khi người chưa thành niên phạm tội có tiến bộ, tích cực tham gia hoạt
động xã hội hoặc lập công; xem xét giải quyết cho người chưa thành niên phạm tội
vắng mặt ở nơi cư trú; đề nghị hoặc theo đề nghị của người chưa thành niên phạm
tội đề nghị tòa án cấp huyện nơi người đó đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn ra quyết định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp này khi người
đó chấp hành được một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ; cấp giấy chứng nhận
đã chấp hành xong thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
cho người chưa thành niên phạm tội.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn chỉ được áp dụng khi môi trường sống của
người chưa thành niên phạm tội có những điều kiện tốt cho việc giáo dục, cải tạo họ
trở thành người có ích cho xã hội thông qua các hoạt động học tập, lao động, sinh
hoạt của họ. Trong trường hợp môi trường xã hội của người chưa thành niên không
đáp ứng đủ các điều kiện về giáo dục, cải tạo thì phải áp dụng biện pháp tư pháp đưa
họ vào trường giáo dưỡng.
Ưu điểm của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn do Toà án quyết định đối với người chưa thành niên phạm tội
nhằm tạo điều kiện cho người đó lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối
cải của mình ngay trong mơi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và gia đình.
+ Đưa vào trường giáo dưỡng
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội nếu xét thấy cần phải có kỷ luật chặt chẽ và cần phải cách ly họ
khỏi môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành cơng dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định áp dụng biện pháp tư pháp này, Tịa án cần xem xét tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và môi trường sống của người
đó. Thời hạn của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm.
Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để
giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội hoặc có những vi phạm pháp luật
khác. Đưa người chưa thành niên phạm tội vào trường giáo dưỡng là biện pháp
nghiêm khắc hơn biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp này được áp
dụng khi thấy cần thiết phải cách ly người chưa thành niên phạm tội khỏi môi trường
xã hội mà họ đang sinh sống để giáo dục, cải tạo. Môi trường cũ khơng có các điều
kiện thuận lợi cho việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên là môi trường như
trong gia đình có bố, mẹ, anh, chị, em là người có tiền án hoặc thường xuyên vi
phạm pháp luật; bạn bè của người chưa thành niên là những người có nhân thân
13
không tốt, đã ảnh hưởng xấu đến lối sống của họ; bản thân người chưa thành niên
khơng có chỗ học tập, lao động, sinh sống ổn định đã sớm có lối sống trụy lạc, sa
đọa …
Ưu điểm của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: Biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng tuy đã bắt buộc người chưa thành niên phạm tội phải chịu sự quản lý
chặt chẽ và phải cách ly khỏi xã hội nhưng họ được học tập văn hóa và nghề nghiệp.
Tại đây, họ được rèn luyện và cải tạo lối sống trước đây của mình để trở thành cơng
dân có ý thức pháp luật đầy đủ trong tương lai. Họ không bị giam giữ như trường
hợp áp dụng hình phạt tù. Khi đã chấp hành được một phần hai thời hạn và có nhiều
tiến bộ thì theo đề nghị của nhà trường, Tịa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn
ở trường giáo dưỡng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1. Thực trạng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội đã và đang được
tất cả các nhà nước trên thế giới quan tâm, lo lắng. Liên hợp quốc đã ban hành một
số Công ước, Quy tắc liên quan đến cơng tác phịng chống vi phạm pháp luật của
người chưa thành niên. Các cơ quan của tổ chức lớn nhất hành tinh này cũng đã tổ
chức nhiều cuộc hội thảo có tính chất tồn cầu và khu vực để bàn về vấn đề này.
Ở nước ta, công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và phạm tội của
người chưa thành niên thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ
chức và toàn thể nhân dân. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn
diện của trẻ em và người chưa thành niên. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính
quyền các cấp đã đề ra nhiều chương trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện
pháp để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an tồn xã hội, đấu tranh phịng và chống
vi phạm pháp luật nói chung trong đó có vi phạm pháp luật của người chưa thành
niên nói riêng. Tuy nhiên, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và
phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc
biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ
chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất cơn đồ hung hãn; thực hiện các hành
vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém
mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số người vi phạm pháp luật
hình sự bị khởi tố, truy tố, xét xử trong 5 năm (từ năm 2003 đến 2007), như sau:
- Năm 2003 khởi tố 4.578 người, truy tố 3.260 người, xét xử 2.940 người.
- Năm 2004 khởi tố 5.138 người, truy tố 3.421 người, xét xử 2.930 người.
- Năm 2005 khởi tố 6.420 người, truy tố 4.172 người, xét xử 3.404 người.
- Năm 2006 khởi tố 7.818 người, truy tố 5700 người, xét xử 5.171 người.
- Năm 2007 khởi tố 8.394 người, truy tố 5.889 người, xét xử 5.247 người.
Số người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật là 71.581 người. Hàng năm
có khoảng 18.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Trong đó 15% phạm tội
14
đặc biệt nghiêm trọng. Pháp luật Nhà nước luôn coi người chưa thành niên là đối
tượng đặc biệt cần phải được bảo vệ, ngay cả khi trẻ em là đối tượng vi phạm gây
nguy hiểm cho xã hội.
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (Bộ
Cơng an) thì trong 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ, với khoảng 9.000
người người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự, tăng 2% số vụ so với cùng
kỳ năm ngoái.
Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì
tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện
có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các
vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện.
Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật hình
sự của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở
hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội
xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng.
Trong đó tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm
11%, đặc biệt là giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện.
Về địa bàn hoạt động, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người chưa
thành niên thực hiện không chỉ xảy ra ở các thành phố, thị xã mà cịn xảy ra ở các
vùng nơng thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể trên
phạm vi tồn quốc thì tại các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triển mạnh thu hút
nhiều lực lượng lao động, nhiều thành phần xã hội sinh sống, thì tỷ lệ người chưa
thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng
tăng nhanh hơn. Theo thống kê của Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thì năm
2002 có 385 người chưa thành niên bị đưa ra xét xử, đến năm 2006 con số này là
gần 700 người (tỷ lệ tăng gần 100% sau 4 năm). Tại các thành phố lớn khác như Hà
Nội, Hải Phịng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh … thì tỷ lệ này cũng cao hơn và
tăng nhanh hơn các tỉnh khác.
Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, số vụ
và số lượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều hướng
ngày càng gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình
sự do người chưa thành niên thực hiện ngày càng nghiêm trọng. Nếu như những năm
2000 trở về trước, người chưa thành niên thường thực hiện các hành vi trộm cắp, gây
rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích khơng gây nguy hại lớn, thì những năm
gần đây tính chất, mức độ của tội phạm lại nguy hiểm hơn vượt quá giới hạn của độ
tuổi người chưa thành niên như: hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, có
cơ cấu chặt chẽ. Thực hiện các hành vi phạm tội: giết người (con giết cha mẹ, cháu
giết ơng bà); cướp tài sản có sử dụng vũ khí nóng; hiếp dâm; mua bán, sử dụng trái
phép các chất ma túy. Sự gia tăng về số lượng, mức độ vi phạm pháp luật của người
15
chưa thành niên có sự khác nhau giữa các địa phương, theo đó tỷ lệ tăng nhiều nhất
chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn.
Trong những năm sắp tới, công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước sẽ đặt
ra yêu cầu mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, văn hóa – xã hội với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích
cực của nó, như thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa – xã hội theo
nguyên tắc các bên cùng có lợi, cịn có mặt tiêu cực là khơng chỉ làm gia tăng về số
lượng tội phạm mà tính chất mức độ của hành vi phạm tội cũng ngày càng nghiêm
trọng hơn, đặc biệt một số loại tội phạm có tính chất xun quốc gia, tội phạm cơng
nghệ cao cũng xuất hiện và phát triển. Đây cũng là một trong những yếu tố sẽ có tác
động mạnh đến tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Vì vậy, dự
báo trong thời gian tới, số lượng các vụ vi phạm pháp luật và số người vi phạm vẫn
tiếp tục gia tăng; tính chất của hành vi vi phạm ngày càng nghiêm trọng và diễn biến
phức tạp; các tội phạm hoạt động theo băng nhóm, có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ ở
độ tuổi này vẫn tiếp tục gia tăng. Hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi
phạm tội vẫn chủ yếu tập trung vào các nhóm tội như: xâm phạm tính mạng sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm an tồn cơng cộng và trật tự
cơng cộng; các tội phạm về ma túy. Trong tương lai gần, người chưa thành niên có
thể tham gia vào các đường dây tội phạm xuyên quốc gia như tội phạm về ma túy,
tội phạm cơng nghệ cao, tội mua bán phụ nữ với tính chất và hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên
Thực trạng tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên có nhiều
nguyên nhân gây ra. Song, xuất phát từ thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng, chống vi
phạm và tội phạm, đồng thời thông qua hoạt động thống kê tội phạm, có thể rút ra
bốn nguyên nhân cơ bản sau:
2.1. Từ phía gia đình
Đây là ngun nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi môi trường sống trong gia đình
có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của trẻ
em. Vai trị của gia đình trong việc quản lý, giáo dục trẻ em – đặc biệt là vai trò của
cha mẹ – là hết sức quan trọng. Quản lý và giáo dục của gia đình là một quá trình
liên tục và lâu dài từ khi đứa trẻ sinh ra cho đến khi trưởng thành. Gia đình nào tạo
dựng được mơi trường giáo dục tốt, có nề nếp kỷ cương thì mặc dù điều kiện kinh tế
có khó khăn nhưng vẫn có cuộc sống hạnh phúc, con cái có lối sống trong sáng, lành
mạnh. Ngược lại, môi trường giáo dục trong gia đình khơng tốt sẽ là ngun nhân
dẫn con cái đến con đường vi phạm pháp luật. Những thiếu sót, sai lầm từ phía gia
đình có thể là do:
Một là, lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục không đúng, như: thỏa mãn
và đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất của con cái khi các yêu cầu này là khơng chính
đáng, khơng phù hợp với lứa tuổi hoặc điều kiện kinh tế của gia đình. Trên thực tế,
cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là người tốt, có đủ kiến thức và trình độ hiểu biết
nhưng khơng chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc không có điều kiện
16
giáo dục chúng. Có người ỷ lại cho nhà trường, số khác mải lo làm ăn hoặc đi công
tác xa lâu ngày. Có gia đình bố mẹ ly hơn, có con ngồi giá thú, một trong hai người
chết hoặc vì lý do nào đó phải xa cách dẫn đến việc con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ
và tình thương gia đình.
Đứa trẻ khơng được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do
ngang bướng, thậm chí bất cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo... Số
liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên
phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn.
Sự nng chiều thái quá, không bắt làm lụng, coi nhẹ hoặc bỏ qua lỗi lầm,
nghĩa vụ của con cái, từ đó tạo ra thói quen, tâm lý địi hỏi, hưởng thụ sống ích kỷ, ỷ
lại. Ngược lại, có gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết nên khi thấy con có lỗi đã khơng
tìm cách khun răn mà lại dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.
Hai là, gia đình thiếu trách nhiệm, khơng quan tâm trong việc quản lý và giáo
dục con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội như: bố mẹ lo làm ăn buôn bán, do phải
đi công tác xa thường xuyên, bố mẹ ốm đau bệnh tật không quản lý chặt chẽ việc
học tập, sinh hoạt của con cái. Có trường hợp con cái bỏ học hàng tháng, đi chơi qua
đêm, nghiện hút và có hành vi vi phạm pháp luật mà bố mẹ không hề hay biết, chỉ
đến khi nhận được thông báo của cơ quan công an hoặc hàng xóm, bạn bè mách bảo
thì mọi việc đã muộn. Nhiều bậc phụ huynh không chú ý đến sự phát triển tâm, sinh
lý của con cái, nuông chiều con cái, không nghiêm khắc trong việc dạy bảo con em
mình mà mải lo cơng việc, tranh thủ kiếm tiền. Một số trẻ em phải sống trong hồn
cảnh mồ cơi bố hoặc mẹ, cha mẹ bất hoà, ly thân, ly hơn dẫn đến sự thiếu hụt về mặt
tình cảm, sự phát triển lệch lạc. Hơn nữa do thiếu sự chỉ bảo, quan tâm của gia đình
nên số thanh, thiếu niên này dễ bị kẻ xấu lợi dụng và lôi kéo vào con đường phạm
tội.
Theo số liệu thống kê tội phạm học, trẻ em phạm pháp có nguồn gốc gia đình
làm nghề bn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%, gia đình có người phạm tội hình sự
chiếm 40%. Cứ 10 trẻ phạm tội thì có đến 3 trẻ có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút. Có
trường hợp bố mẹ trực tiếp đẩy con ra đường, xúi giục chúng làm bậy khiến trẻ bỏ
nhà đi hoang, trộm cắp. Theo số liệu của Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội, tỉ lệ
người chưa thành niên có hành vi trộm cắp tài sản đồng phạm với bố mẹ là 5%.
Những năm gần đây 38,8% vị thành niên vi phạm pháp luật xuất thân từ những gia
đình có cha mẹ làm nghề bn bán; trong đó số trẻ em được trực tiếp phỏng vấn có
52,4% là đang sống với cha mẹ, được cha mẹ ni dưỡng. Số cịn lại là sống trong
hồn cảnh gia đình khơng bình thường: 12% chỉ sống với mẹ, 4% chỉ sống với bố,
3,1% sống với cha mẹ kế, 9,03% sống với người khác. Trong số vị thành niên vi
phạm pháp luật có tới 17% là những trẻ lang thang, vô gia cư; 71,37% số trẻ thành
niên vi phạm pháp luật trả lời không nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy đủ của
cha mẹ và gia đình.
Ba là, một số gia đình có hồn cảnh đặc biệt như bố mẹ ly hôn: bố mẹ đang
chấp hành án phạt tù, bố hoặc mẹ đã chết, sống với gì ghẻ hoặc bố dượng, mồ côi cả
bố mẹ các em phải ở với ông bà, anh chị em ruột, sống một mình, sống lang thang.
17
Những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này thường bị tổn thương về tâm lý do tự ti, mặc
cảm, thiếu thốn tình cảm, thiếu điều kiện học tập vui chơi, thiếu quản lý, giáo dục
dẫn đến mất phương hướng khi hành động dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực,
phạm tội. Một nghiên cứu mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm
tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hơn, 28%
phàn nàn bố mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách
đối xử của bố mẹ.
2.2. Từ phía nhà trường
Hiện nay, hầu hết các trường học đều tổ chức cho học sinh tham gia ký cam
kết không vi phạm pháp luật, nhưng thực tế đây cũng chỉ có tính hình thức. Trong
khi đó, các chương trình giáo dục pháp luật lại chưa được chú trọng, chưa có nhiều
giải pháp quản lý, giáo dục và giúp đỡ các học sinh chưa ngoan. Vấn đề giáo dục
pháp luật, đạo đức công dân chưa được chú trọng đúng mức, đặc biệt là việc trang bị
những kiến thức về kỹ năng sống cho học sinh chưa được đầy đủ .Thông thường, khi
phát hiện học sinh vi phạm kỷ luật thì hình thức xử lý là đuổi học, mà hình thức này
khi áp dụng lại vơ tình tạo ra khoảng trống thiếu vắng sự quản lý, giáo dục nên dễ
đưa học sinh vào con đường vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, sự phối hợp trao đổi thông tin, liên lạc giữa gia đình và nhà trường
thiếu chặt chẽ nên nhiều học sinh tự ý bỏ học đi lang thang hoặc tìm niềm vui qua
các trò chơi điện tử, phim ảnh bạo lực, khiêu dâm mà nhà trường và gia đình khơng
hay biết. Đây là điều kiện để các đối tượng xấu ngoài xã hội lợi dụng để lôi kéo các
em vào con đường vi phạm pháp luật.
2.3. Từ phía xã hội
Do những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng với những thiếu
sót trong việc quản lý văn hóa – xã hội của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội, vì vậy chúng ta chưa đánh giá hết tính chất phức tạp, nghiêm trọng của tình hình
vi phạm và tội phạm người chưa thành niên để đề ra những chủ trương, biện pháp
phòng ngừa ngăn chặn và đấu tranh phù hợp.
Hệ thống pháp luật về trẻ em và người chưa thành niên thiếu đồng bộ, việc thi
hành chưa nghiêm. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn
thiếu chặt chẽ, các ngành, các cấp chính quyền chưa coi trọng đúng mức và chưa
thực hiện hết trách nhiệm của mình trong cơng tác phòng, chống vi phạm pháp luật
của người chưa thành niên, coi đó là trách nhiệm chủ yếu của gia đình và nhà
trường.
Vai trị của các đồn thể xã hội, đặc biệt là Đồn Thanh niên trong cơng tác
giáo dục và phòng ngừa vi phạm pháp luật của người chưa thành niên cịn mờ nhạt.
Thơng thường những người vi phạm pháp luật thuộc đối tượng ở tổ chức nào thì ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn giao cho tổ chức đó giáo dục, giúp đỡ và bảo vệ
quyền lợi của họ, nhưng thực tế thì rất ít trẻ em vi phạm pháp luật được giao cho
Đoàn Thanh niên quản lý, giáo dục, nếu có thì cũng chưa được các cơ sở đoàn quan
tâm đúng mức. Sự mờ nhạt của các tổ chức đoàn cùng với việc thiếu quan tâm của
gia đình dẫn đến nhiều thanh niên sau khi trở về từ trường giáo dưỡng lại tiếp tục đi
vào con đường tái phạm.
18
2.4. Từ chính bản thân người chưa thành niên
Người chưa thành niên có những đặc thù riêng, đó là nhóm đối tượng cịn
chưa được hồn thiện về thể chất và tinh thần. Ở độ tuổi này, họ luôn hướng tới sự
ham thích mới lạ, hiếu động, muốn thể hiện tính anh hùng, hảo hán, do đó có trường
hợp chỉ vì cái nhìn thiếu thiện cảm hay chỉ vì xích mích nhỏ mà các em thực hiện
những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như cố ý gây thương tích, giết người
hoặc dễ bị các đối tượng xấu trong xã hội kích động, lơi kéo vào con đường vi phạm
pháp luật.
3. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
về vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt
Nam hiện nay
3.1. Phòng chống và ngăn ngừa hành vi phạm tội của người chưa thành
niên ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Phương hướng
- Xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ
thống chính trị, nâng cao trách nhiệm vai trị chủ động của các ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh các
loại tội phạm, tệ nạn xã hội nói chung và các hành vi vi phạm pháp luật của người
chưa thành niên nói riêng.
- Đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ
pháp luật; nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng của các cơ sở Đảng, các cơ
quan nhà nước, các đơn vị vũ trang, các tổ chức chính trị – xã hội. Xây dựng lực
lượng công an nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác thật sự trong sạch,
vững mạnh để thực hiện tốt vai trị nịng cốt, xung kích trong đấu tranh phịng, chống
vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.
- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tuyên truyền
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật để phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho cơng cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Tiếp tục nâng cao chất lượng
công tác quản lý giáo dục, cải tạo người chưa thành niên bằng nhiều hình thức, giúp
họ cải tạo tiến bộ, hồn lương, tái hịa nhập gia đình và cộng đồng xã hội.
- Các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân các địa phương hàng năm phải sơ kết và có
kế hoạch tiếp tục chỉ đạo thực hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phịng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật; tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa, bài trừ các tệ nạn xã
hội.
- Đặt nhiệm vụ phòng, chống vi phạm, tội phạm của người chưa thành niên
thành Chương trình quốc gia có mục tiêu và nội dung cụ thể, nhằm huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cơng tác phịng, ngừa, từng bước làm giảm tình
hình vi phạm, tội phạm. Xây dựng mơi trường sống lành mạnh trong xã hội, nâng
cao ý thức tôn trọng pháp luật và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Trước mắt phải
ngăn chặn kịp thời một số loại tội phạm nguy hiểm do người chưa thành niên thực
hiện, đẩy lùi một bước các loại tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, mại dâm.
19
- Tiếp tục phát động quần chúng xây dựng phong trào tồn dân tham gia
phịng ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Xây
dựng và thực hiện quy chế phối hợp ngăn ngừa tội phạm trong gia đình, nhà trường
và xã hội. Củng cố các tổ dân phố, lực lượng bảo vệ chuyên trách, bán chuyên trách,
các tổ chức đoàn thể quần chúng ở cơ sở phường, xã, thị trấn tham gia phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc.
3.1.2. Giải pháp
Thứ nhất, tăng cường vai trị của gia đình với ý nghĩa là rào cản của hiện
tượng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.
- Công tác giáo dục được thể hiện cụ thể như việc lựa chọn phương pháp giáo
dục đúng, tăng cường trách nhiệm trong quản lý và giáo dục con cái, kiểm tra các
hoạt động hằng ngày của các em để kịp thời uốn nắn, sửa chữa các lệch lạc trong suy
nghĩ và hành động, không để các em bị lợi dụng, lôi kéo vào con đường tiêu cực là
việc làm hết sức cần thiết.
- Các bậc cha mẹ cần được nâng cao tri thức về phòng, chống vi phạm, tội
phạm, tệ nạn xã hội để hiểu được vi phạm tội phạm và tệ nạn xã hội là gì; nguyên
nhân chủ quan và khách quan dẫn đến việc gây ra các hành vi này; cách nhận biết
người phạm tội, vi phạm pháp luật, mắc nghiện ma túy; tội phạm và tệ nạn xã hội
gây ra tác hại gì cho bản thân, gia đình, xã hội; có thể cai nghiện ma túy được
không; cai nghiện bằng cách nào để họ có định hướng và có biện pháp quản lý, giáo
dục con cái.
- Xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm cho các em lớn khôn và trưởng thành,
không vi phạm pháp luật, không phạm tội và mắc tệ nạn xã hội; đảm bảo được đời
sống kinh tế gia đình để trẻ em có được những điều kiện sống tối thiểu như ăn ở,
mặc, sinh hoạt, học hành.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình, giữa nhà trường
và các cơ quan chức năng khác trong việc quản lý, giáo dục các em và phòng chống
vi phạm pháp luật của học sinh, sinh viên. Cụ thể là, các cơ sở đào tạo có trách
nhiệm quản lý giáo dục học sinh, sinh viên trong các trường học, đưa nội dung giáo
dục, pháp luật và các quy định bảo vệ an ninh, trật tự vào chương trình giáo dục
chính khóa ở các cấp học; phối hợp tốt với gia đình trong việc quản lý, giáo dục học
sinh, sinh viên, bảo vệ an ninh, trật tự trong khu vực nhà trường.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý, tuyên truyền và phát huy hiệu lực, hiệu
quả của các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực sau đây:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; ý thức tôn
trọng pháp luật, trách nhiệm công dân trong phịng, chống vi phạm tội phạm; thơng
qua các loại hình văn hóa nghệ thuật, phổ biến rộng rãi những gương người tốt, việc
tốt; phản ảnh kịp thời những hiện tượng tiêu cực, giúp các cơ quan chuyên trách phát
hiện kịp thời những hành vi vi phạm, phạm tội, thường xuyên kiểm tra và kiên quyết
khắc phục những hiện tượng khơng lành mạnh trong các hoạt động văn hóa, báo chí,
văn nghệ; xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm Luật Báo chí, Luật Xuất bản.
- Cần nâng cao hiệu quả các biện pháp quản lý nhà nước về an ninh trật tự,
củng cố các lực lượng nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm,
20
nhất là các lực lượng ở cơ sở, bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ chuyên trách, bán
chuyên trách của các cơ quan, xí nghiệp; đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia
bảo vệ an ninh Tổ quốc, liên tục phát động quần chúng tấn công trấn áp tội phạm;
kịp thời phát hiện, phòng ngừa đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm nguy hiểm;
phối hợp với ngành nội chính tiến hành điều tra, truy tố, xét xử kịp thời các đối
tượng phạm tội; nghiên cứu, dự báo tình hình tội phạm, đề xuất chủ trương, biện
pháp đấu tranh phù hợp.
- Triển khai tốt việc dạy nghề cho các đối tượng ở các trại giam, đưa chương
trình việc làm vào các trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hỗ trợ
giải quyết việc làm cho các đối tượng vừa ra khỏi các trường giáo dưỡng hoặc trại
giam nhanh chóng tái hịa nhập với cộng đồng.
3.1.3. Một số vấn đề rút ra trong cơng tác phịng ngừa, điều tra tội phạm và
xử lý người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên do chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và nhân
cách nên việc bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên; việc phịng ngừa và điều tra
tội phạm; xử lý người chưa thành niên phạm tội là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa
mang tính nhân văn. Khi tiến hành phịng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người
chưa thành niên phạm tội cần chú ý:
- Xác định đối tượng tác động trong phòng ngừa tội phạm cụ thể, trong các kế
hoạch phòng ngừa tội phạm phải xác định đối tượng là trẻ em hay người chưa thành
niên mỗi đối tượng đó rõ ràng khác nhau về độ tuổi do vậy khác nhau về đặc điểm
tâm lý cho nên phương pháp tác động cũng khác nhau.
- Tính thân thiện trong điều tra tội phạm thể hiện ở chỗ cán bộ cảnh sát nhân
dân trong khi tiến hành điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài việc
vận dụng đúng các quy định của pháp luật, sử dụng linh hoạt nghiệp vụ cần phải là
người có kiến thức sâu sắc về tâm lý, đặc biệt là tâm lý thân thiện với người chưa
thành niên. Thái độ của cán bộ công an, lời nói và biện pháp được sử dụng, mơi
trường và các điều kiện vật chất để tiến hành điều tra luôn luôn gắn liền với từ “thân
thiện”. Trong giai đoạn điều tra, cán bộ điều tra phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tố
tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên như việc bắt, giam, tạm giam, tạm giữ,
việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội … cũng có nghĩa là thái độ hà
khắc, gay gắt, vô cảm và những biện pháp cứng nhắc vi phạm thủ tục tố tụng là điều
hết sức “cấm kị” đối với cán bộ cảnh sát nhân dân trong hoạt động điều tra tội phạm
do người chưa thành niên gây ra.
- Tính cụ thể, nhân văn trong xử lý người chưa thành niên phạm tội: Không
phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều phải xử lý bằng hình sự.
Trong cơng tác điều tra, cán bộ cảnh sát nhân dân cần thu thập thông tin, chứng cứ
để không chỉ làm rõ tất cả những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự mà
cịn nhằm xác định rõ những vấn đề khác theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng
hình sự phải vận dụng một cách có căn cứ những nguyên tắc quy định tại Điều 69
Bộ luật Hình sự, chúng ta thấu hiểu và đồng tình với quan niệm “nhà tù là lựa chọn
cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội.”
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật
21
Vấn đề tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội rất được chú trọng
nhằm xây dựng được một hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên với mục
tiêu đề cao giáo dục, hạn chế trừng phạt, không ưu tiên biện pháp tước đoạt tự do.
Theo Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc, một chính sách toàn diện của tư pháp
đối với người chưa thành niên phạm tội cần đáp ứng các yếu tố cơ bản phịng ngừa
tội phạm vị thành niên, can thiệp khơng sử dụng các thủ tục tư pháp và can thiệp
trong điều kiện thủ tục tư pháp, độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự và những
giới hạn độ độ tuổi đối với tư pháp vị thành niên, những bảo đảm cho một phiên tịa
xét xử cơng bằng, khách quan và việc tước đoạt tự do dưới hai hình thức giam giữ
trước và sau khi xét xử.
Bộ luật Hình sự hiện hành đã dành hẳn một chương quy định về người chưa
thành niên phạm tội với phương châm giúp các em nhận thức, sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Tương ứng với những quy
định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng dành một chương riêng quy
định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cùng với thời
gian, những quy định trên đã bộc lộ một số hạn chế, cần phải sửa đổi.
Trong một số hình phạt khơng tước tự do áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, có hình phạt chưa thực sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, cũng
như nhu cầu giáo dục của đối tượng này. Hình phạt cảnh cáo (khoản 1 Điều 72
BLHS) là một ví dụ. Hình phạt này thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước
đối với người phạm tội. Khi hội đồng xét xử tuyên án xong, cũng có nghĩa rằng hình
phạt được thi hành xong. Vì khơng có cơ chế theo dõi, hỗ trợ người chưa thành niên
phạm tội thực sự nhận thức được lỗi lầm mình gây ra, cho nên khơng phải lúc nào
hình phạt cảnh cáo cũng phát huy hiệu quả. Một trong những nguyên nhân làm
người chưa thành niên phạm tội tái phạm chính là vì luật thiếu cơ chế hỗ trợ giúp
người người chưa thành niên phạm tội nhận thức được lỗi lầm của mình để khắc
phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội của mình". Hay như hình phạt tiền
(Khoản 2 Điều 71 BLHS) cũng là vấn đề phải suy nghĩ. Hình phạt này đánh vào lợi
ích vật chất của người phạm tội. Thế nhưng phần lớn người chưa thành niên phạm
tội đều khơng có tài sản và chưa nhận thức đầy đủ giá trị đồng tiền. Do vậy, việc áp
dụng hình phạt tiền đối với đối tượng này xem ra không hợp lý.
Nhiều chuyên gia pháp lý nhận xét, những chế tài pháp luật hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội còn nặng về giam giữ. Cụ thể, trong số sáu chế tài
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, chỉ có hai chế tài có thể áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Đó là đưa
vào trường giáo dưỡng hoặc tù có thời hạn. Cả hai chế tài này đều tước tự do của
người phạm tội. Đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên, mặc
dù hai phần ba trên tổng số sáu chế tài luật quy định là chế tài không tước tự do
(giáo dục tại xã phường, thị trấn và hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ), thực tế việc áp dụng các chế tài này có nhiều hạn chế. Chính hiệu quả giáo dục,
phục hồi thấp của một số hình phạt khơng tước tự do như đã phân tích ở trên có thể
là một trong những nguyên nhân khiến toà án ngần ngại áp dụng những hình phạt
này.
22
Ở khía cạnh khác, một số tội phạm và ranh giới giữa tội phạm và vi phạm
hành chính (bảo kê mại dâm, môi giới mại dâm trẻ em...) chưa rõ ràng. Ngồi ra, Bộ
luật Hình sự chưa quy định một tội danh riêng, cụ thể về sản xuất, tàng trữ, lưu hành
những văn hố phẩm có sử dụng hình ảnh trẻ em để khiêu dâm, mà chỉ có một tội
danh chung về truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy. Theo đó, việc xử lý hình sự chỉ đặt
ra khi số lượng tang vật phạm pháp lớn, phổ biến cho nhiều người, hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính hay bị kết án mà còn vi phạm. Như vậy, những hành vi sản
xuất, tàng trữ, lưu hành văn hoá phẩm có sử dụng hình ảnh trẻ em để khiêu dâm sẽ
bị xử lý hình sự muộn hơn so với yêu cầu của Nghị định thư không bắt buộc về mua
bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung Công ước
Quyền trẻ em.
Mới đây, trong cuộc Hội thảo: "Hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa
thành niên", đại diện Bộ Tư pháp cho biết: mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự dành hẳn
một chương quy định về người chưa thành niên phạm tội, nhưng nhìn chung chưa
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu hỗ trợ và bảo vệ trẻ em. Khi người chưa thành niên
tham gia tố tụng với tư cách bị can, bị cáo, bị hại... dù ở giai đoạn điều tra, truy tố
hay xét xử chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề bảo vệ bí mật đời tư của người
chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em là nạn nhân trong các vụ án hình sự chưa được
quy định đầy đủ, gây tổn thương cho các em trong q trình tố tụng.
Chính vì vậy, tái hồ nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm
pháp luật phải được xem là khâu cuối cùng trong hệ thống tư pháp người chưa thành
niên. Hiện nay, thực hiện công tác tái hịa nhập cộng đồng khơng chỉ là sự thể hiện
tính nhân đạo trong chính sách của Đảng và Nhà nước, mà cịn là biện pháp để góp
phần ổn định an ninh và phịng chống tội phạm hữu hiệu.
Đối phó với thực trạng người chưa thành niên phạm tội, tăng cường các biện
pháp giáo dục tại cộng đồng đang được các ban ngành, dư luận đánh giá cao hơn so
với các biện pháp giam giữ. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thanh thiếu
niên của nhiều nước trên thế giới cho thấy: những chế tài như không tước tự do, giáo
dục, phục hội người chưa thành niên ngay tại cộng đồng được thiết lập phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên phạm tội đã giảm đáng kể tỷ lệ tái
phạm. Điều này không những phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ
em (biện pháp giam giữ chỉ được áp dụng sau cùng, trong thời gian ngắn nhất có
thể), mà cịn phù hợp với Nghị quyết 49-NQ/TW của Đảng về cải cách tư pháp với
chủ trương hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tù.
Vì thế, trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật
Hình sự thì việc hồn thiện pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
cần hướng tới mục tiêu phát huy vai trị của gia đình, cộng đồng và các tổ chức xã
hội, trên cơ sở Công ước Quyền trẻ em và chuẩn mực quốc tế có liên quan. Bên cạnh
đó, nên hạn chế áp dụng biện pháp giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội,
mở rộng phạm vi áp dụng của án treo đối với người chưa thành niên phạm tội; bổ
sung chế định trả tự do có điều kiện cho người chưa thành niên phạm tội đang chấp
hành hình phạt tù. Ngồi ra, cần sửa đổi, bổ sung một số tội xâm hại trẻ em, đặc biệt
23
là tội mua bán trẻ em, các cơ chế bảo đảm giữ bí mật đời tư của trẻ em là nạn nhân
của tội phạm...
Một vấn đề nữa là khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm nhiều tội phải tuân thủ những quy định chung về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đồng thời phải
tuân thủ những quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là
quy định về tổng hợp hình phạt theo Điều 75 của Bộ luật Hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, tổng hợp hình phạt trong
trường hợp có tội được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, có tội được
thực hiện khi người đó đã thành niên, hình phạt chung khơng được vượt q mức
hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74. Như vậy, mức hình phạt cao nhất quy định
tại Điều luật này được áp dụng đối với cả trường hợp người chưa thành niên phạm
tội phạm một tội và trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội. Quy định này
thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, quy định tại
khoản 1, Điều 75 có sự bất hợp lý trong trường hợp có tội nặng nhất được thực hiện
khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đã đủ 18 tuổi mà
hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội được thực hiện khi người
phạm tội đã thành niên cao hơn mức hình phạt tối đa theo quy định tại Điều 74 của
bộ luật hình sự như đã phân tích ở trên. Do đó, cần sửa đổi và bổ sung vào khoản 1,
Điều 75 của Bộ luật Hình sự quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp này
theo hướng hình phạt chung của tất cả các tội bằng hình phạt của tội hoặc hình phạt
tổng hợp của các tội được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên. Quy định
theo hướng này vẫn phù hợp với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam,
bởi lẽ hình phạt của tất cả các tội được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên
và khi đã thành niên chỉ bằng hình phạt của tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội
được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên. Trong trường hợp này, hình phạt
đã tuyên đối với tội đã được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi dù ở mức
thấp hay cao, thậm chí là ở mức cao nhất thì cũng khơng được cộng một phần nào
vào hình phạt đã tun đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội được thực
hiện khi người phạm tội đã thành niên.
Về tổng hợp hình phạt trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người
phạm tội chưa thành niên, cần bổ sung vào Điều 75 của Bộ luật Hình sự một khoản
quy định về tổng hợp hình phạt trong các trường hợp cụ thể sau: các tội đều được
thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; có tội được thực
hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, có tội được thực hiện
khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; các tội đều được thực hiện
khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Vì người chưa thành niên
được chia thành hai nhóm với đường lối xử lý khác nhau, nên việc hoàn thiện các
quy định về tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên cũng cần phải căn cứ
vào tội nặng nhất được thực hiện khi người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi nào.
Mức hình phạt tổng hợp tối đa đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phải thấp hơn mức hình phạt tổng hợp tối đa đối với người chưa thành niên
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
24
Như vậy, khoản 1 và khoản 2, Điều 75 của Bộ luật Hình sự cần được chuyển
thành điểm a và b tương ứng trong một khoản - khoản 1 quy định về tổng hợp hình
phạt trong trường hợp có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực
hiện sau khi đủ 18 tuổi. Cùng đó, bổ sung một khoản - khoản 2 vào Điều 75 của Bộ
luật Hình sự quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp các tội đều được thực
hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi theo hai trường hợp: tội nặng nhất được
thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; tội nặng nhất được
thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.Trên tinh thần này,
chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung điều 75 Bộ luật Hình sự như sau:
“Điều 75. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
1. Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi,
có tội được thực hiện trong khi đủ 18 tuổi trở lên, thì việc tổng hợp hình phạt áp
dụng như sau:
a) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình
phạt chung khơng được vượt q mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của
Bộ luật này.
Trong trường hợp sau khi thành niên, người này lại phạm một hoặc nhiều tội
mà hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội cao hơn mức hình phạt
tối đa quy định tại Điều 74 của Bộ luật này, thì hình phạt chung của tất cả các tội
bằng hình phạt của tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội được thực hiện khi người
phạm tội đã thành niên.
b) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt
chung được áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
2. Trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ
18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau:
a) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi
từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt chung khơng được vượt mức hình phạt cao
nhất quy định tại khoản 1, Điều 74 của Bộ luật này.
b) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi
từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, thì hình phạt chung khơng được vượt mức hình phạt cao
nhất quy định tại khoản 2, Điều 74 của Bộ luật này”.
25