BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ THUỲ LINH
THIÊN NHIÊN
TRONG NHÀ CHỬ, ĐẢO HOANG, CHUYỆN NỎ THẦN
CỦA TƠ HỒI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ THUỲ LINH
THIÊN NHIÊN
TRONG NHÀ CHỬ, ĐẢO HOANG, CHUYỆN NỎ THẦN
CỦA TƠ HỒI
Chun ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THANH NGA
NGHỆ AN - 2017
MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 0
1.Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................ 6
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 7
Chƣơng 1 Cơ sở của việc nghiên cứu mối quan hệ con ngƣời với tự nhiên
trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần .................................................... 9
1.1. Vấn đề nghiên cứu mối quan hệ con người với tự nhiên trong nghiên cứu,
phê bình văn học ................................................................................................... 9
1.1.1 Vấn đề mối quan hệ con người với tự nhiên trong bối cảnh xã hội hiện đại
............................................................................................................................... 9
1.1.2. Sự quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sáng tác
văn học hiện đại. ................................................................................................. 12
1.1.3. Sự quan tâm đến quan hệ con người với tự nhiên trong nghiên cứu, phê
bình văn học hiện đại. ......................................................................................... 16
1.2. Tơ Hồi, nhà văn dành nhiều trang viết về thiên nhiên ............................... 19
1.2.1. Tơ Hồi - tiểu sử và sự nghiệp sáng tác ................................................... 19
1.2.2. Thiên nhiên trong sáng tác của Tơ Hồi................................................... 26
1.3. Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏthần - những kiệt tác miêu tả thiên nhiên
của Tơ Hồi ......................................................................................................... 28
1.3.1. Khái qt về Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần ............................... 28
1.3.2. Nhìn chung về thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần32
Chƣơng 2: Hình tƣợng thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ
thần ..................................................................................................................... 35
2.1. Thiên nhiên với tư cách là đối tượng độc lập............................................... 35
2.1.1. Thiên nhiên thơ mộng, phong phú............................................................. 35
2.1.2 Thiên nhiên hùng vĩ, bi tráng ..................................................................... 39
2.1.3 Thiên nhiên khốc liệt hiểm nguy................................................................. 41
2.2 Thiên nhiên trong mối quan hệ với con người từ góc nhìn sinh thái. ........... 45
2.2.1. Thiên nhiên và con nguời trong mối quan hệ hoà hợp. ............................ 45
2.2.2. Thiên nhiên – đối tượng chinh phục của con người. ................................ 48
2.2.3. Thiên nhiên với tư cách là chủ thể quyền lực. .......................................... 54
2.3. Thiên nhiên như những thơng điệp về lịch sử - văn hố.............................. 56
2.3.1. Thiên nhiên thể hiện nỗi gian lao của quá trình mở nước ........................ 56
2.3.2. Thiên nhiên thể hiện những năm tháng oai hùng của quá trình giữ nước.
............................................................................................................................. 61
2.3.3. Thiên nhiên – nơi thể hiện buổi đầu văn minh – văn hoá người Việt. ...... 64
Chƣơng 3: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần .................................................................................................. 71
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................... 72
3.1.1. Sự phong phú về cốt truyện và sự phong phú của thiên nhiên ................. 72
3.1.3 Phiêu lưu hóa cốt truyện - buộc con người phải trải nghiệm trong nhiều
dạng thức của thiên nhiên. .................................................................................. 79
3.2. Nghệ thuật xây dựng chi tiết ........................................................................ 85
3.2.1. Chi tiết sự vật. ........................................................................................... 85
3.2.2 Chi tiết sự việc. ........................................................................................... 90
3.3.1 Một thế giới ngôn ngữ phảng phất “cổ xưa”. ........................................... 92
3.3.2 Một thế giới từ loại sống động giàu chất thơ............................................. 95
3.3.3. Kiểu cấu trúc câu đa dạng, giàu nhạc tính ............................................. 101
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 109
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Tơ Hồi là một trong những nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật gần 70 năm, ông đã trải qua những
mốc lịch sử đặc biệt quan trọng: trong và sau Cách mạng; trước, trong và sau
chiến tranh; trước và sau khi công cuộc đổi mới được khởi xướng. Đóng góp của
Tơ Hồi thể hiện trên nhiều thể loại và đề tài: từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền
núi, từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện thiếu nhi đến kịch, ký… Việc nghiên cứu
sáng tác của ông dẫu đã được tiến hành khá lâu dài và bền bỉ nhưng khơng có
nghĩa là đã hồn kết. Tiếp tục tìm hiểu sáng tác của Tơ Hồi là góp phần khẳng
định giá trị sáng tác của nhà văn.
1.2. Tiểu thuyết là thể loại có vị trí đặc biệt thể hiện đậm nét phong cách
nghệ thuật của Tô Hồi, được người đọc quan tâm nhiều, trong đó các tác phẩm
viết cho thiếu nhi cũng rất được chú ý. Nghiên cứu tiểu thuyết viết cho thiếu nhi
của nhà văn là tiếp tục góp phần làm rõ sự phong phú cũng như những nét trong
sự nghiệp của nhà văn, cũng là góp phần làm đầy đặn thêm kinh nghiệm nghiên
cứu văn học thiếu nhi vốn đang có phần mỏng manh trong mặt bằng nghiên cứu
văn học nói chung ở nước ta.
1.3. Đọc các tác phẩm nói chung và Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ
thần nói riêng của Tơ Hồi, có thể thấy thiên nhiên xuất hiện như là một đối
tượng miêu tả mà nhà văn đã dành nhiều tâm huyết và cơng sức. Tìm hiểu thiên
nhiên trong ba tác phẩm này một mặt làm rõ cái nhìn, cách miêu tả thiên nhiên
trong đó, mặt khác, góp phần tìm hiểu thiên nhiên trong sáng tác nói chung của
nhà văn và góp cái nhìn tổng quan về ba tác phẩm.
1
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những cơng trình nghiên cứu chung về Tơ Hồi
Trước năm 1945, nghiên cứu về Tơ Hồi rất ít, có lẽ chỉ có duy nhất một
bài của Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942), trong bài “Tơ Hồi
- Nguyễn Sen” Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Tiểu thuyết của Tơ Hồi thuộc loại tả
chân nhưng Tơ Hồi có khuynh hướng xã hội” [43, 878]. Đánh giá tập truyện
ngắn viết về lồi vật của Tơ Hồi, Vũ Ngọc Phan viết: “Truyện của ơng có tính
chất nửa tâm lý, nửa triết lý. Nó là những truyện tả về loài vật, về cuộc sống loài
vật, tuy bề ngồi lặng lẽ nhưng phần trong có lắm cái ồn ào, vui cũng có, buồn
cũng có” [43, 880]. Về phương diện nghệ thuật, trong tác phẩm của Tơ Hồi, Vũ
Ngọc Phan có những phát hiện rất tinh tế: “Ơng tỏ ra không giống một nhà văn
nào trước ông và không giống một nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như
ơng(…), ơng có một lối văn dí dỏm, tinh qi, đầy phong vị và màu sắc thôn
quê” [43, 880].
Sau năm 1945, các cơng trình nghiên cứu về Tơ Hồi nhiều hơn, trong đó
phải kể đến các nhà nghiên cứu, phê bình tâm huyết với văn chương của Tơ
Hồi như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vương Trí Nhàn, Phong Lê, Vân Thanh,
Trần Hữu Tá…
Phan Cự Đệ thuộc số những người nghiên cứu khá kĩ sáng tác viết về
miền núi của Tơ Hồi, và cũng từng quan tâm đến các tác phẩm thuộc phạm vi
khảo sát của đề tài. Ông viết trong “Tơ Hồi, nhà văn hiện đại Việt Nam”: “Tác
phẩm của anh là sự gắn bó với quê hương đất nước, từ cảnh sắc thiên nhiên
phong tục sinh hoạt cho đến truyền thống văn hố, ngơn ngữ dân tộc…”
[14,101].
Trong lời giới thiệu Tuyển tập Tơ Hồi, Hà Minh Đức đi sâu tìm hiểu giai
đoạn và thành tựu trong sáng tác của nhà văn. Ông nhận định: “Gần nửa thế kỉ
2
đã qua, dịng văn xi của Tơ Hồi, một nhà văn lớp trước, cây bút tài hoa vẫn
phát triển với tinh thần cần mẫn sáng tạo. Ở mỗi chặng đường, thành tựu có thể
khác nhau nhưng bao giờ Tơ Hồi cũng là một tiêu chí, một cách nhìn, một
phong cách độc đáo” [16, 744].
Trong cuốn Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu biểu, với
bài “Tơ Hồi – 60 năm viết”, Phong Lê đánh giá “60 năm, tính cả trước và sau
1945 – một hành trình quá dài tương ứng với đời người - cho đến tuổi 80, khi tơi
viết bài này tơi vẫn thấy Tơ Hồi dồi dào bút lực. Ông chưa hề bỏ cuộc.”
[32,416].
Khám phá nội dung độc đáo trong sáng tác của Tơ Hồi, bao gồm những
mảng truyện viết về loài vật, Nguyễn Đăng Điệp bày tỏ: “Tơ Hồi khơng thật
quen với tầng lớp trên, ông chỉ gần gũi với đám bình dân, vì thế, ông thông
thuộc tâm tính của họ, những người sinh ra trong nhếch nhác, khổ nghèo. Nói về
họ, kể về họ thực chất cũng là nói về mình, kể về mình. Tơ Hồi là thế, chỉ viết
về những điều gì ơng thật quen, những gì ơng đã nhìn thấy. Trong Tự truyện, Tơ
Hồi cho biết, thậm chí “cả những chuyện lồi vật tưởng như xa lạ kia cũng
khơng ngồi cái rộn ràng hay thầm lặng của khu vườn trước cửa” [ 15].
Tác giả Phạm Việt Chương khi viết chân dung văn học về Tơ Hồi, cũng
có nhận xét xác thực: “Chúng ta gặp lại Tơ Hồi, tác giả của những tác phẩm
phiêu lưu kì thú, khi anh viết về một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu
mến. Một điều dễ nhận, Tơ Hồi sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình
viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỉ niệm.
Giọng văn hóm hỉnh mà khơng khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho
người đọc những nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua…”
[48,404].
3
2.2 Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Lời giới thiệu Tuyển tập Tơ Hồi năm 1987 của giáo sư Hà Minh Đức là
một bài viết công phu, đánh giá khá đầy đủ những đóng góp của Tơ Hoài qua
gần nửa thế kỉ sáng tác, trong những bài viết cho tuổi thơ và viết cho người lớn
về làng quê ngoại ô Hà Nội và miền núi, ở các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết
và ký. Bài viết cũng làm nổi bật phong cách sáng tác nghệ thuật của Tơ Hồi ở
“năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”, ở các phương
tiện miêu tả phong tục, tập quán, khung cảnh thiên nhiên, tính cách nhân vật, tìm
tịi sáng tạo ngơn từ và cấu trúc đa dạng” là “một ngịi bút tươi mới khơng bị cũ
đi với thời gian” [16, 89].
Vân Thanh trong Tơ Hồi với thiếu nhi bài viết năm 1982 đánh giá cao
những đóng góp của nhà văn trong mảng sáng tác dành cho thiếu nhi, đó là: đề
tài phong phú, thể loại đa dạng, nội dung phù hợp với lứa tuổi. Truyện lịch sử
viết cho lứa tuổi người lớn đã gợi khát vọng tìm hiểu đất nước, tình quê hương,
yêu lao động và bài học về ý chí, nghị lực con người, trong đó có q trình chinh
phục thiên nhiên để tìm hạnh phúc. Bài viết cũng phân tích bút pháp miêu tả
sinh động khả năng quan sát sắc sảo, yếu tố trữ tình thấm đẫm và nghệ thuật sử
dụng ngơn từ sinh động, không chỉ khắc hoạ chân dung con người mà cảnh thiên
nhiên cũng hiện lên một cách tươi đẹp. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu
còn đề cập đến vẻ đẹp, sức hấp dẫn của Đảo hoang thông qua hình ảnh chinh
phục thiên nhiên của Mai An Tiêm, của Mon, của những con người Bãi Lở.
Trong bài Tiểu thuyết Đảo hoang của Tơ Hồi năm 1977, Phan Cự Đệ
đánh giá cao những giá trị nội dung của tác phẩm: ca ngợi tình yêu quê hương,
đất nước, ca ngợi sức mạnh ý chí và nghị lực con người trong công cuộc chinh
phục thiên nhiên qua nhân vật tiêu biểu là An Tiêm. Tác giả bài viết cũng phát
hiện nhà văn Tơ Hồi đã khai thác những đặc điểm của thần thoại, truyền thuyết
4
trong công việc miêu tả thế giới cỏ cây, chim muông, khơi dậy ước mơ khám
phá thiên nhiên ở các em thiếu nhi và khẳng định Đảo hoang “đánh dấu một
bước phát triển trong nghệ viết tiểu thuyết”, “là một thành cơng quan trọng của
Tơ Hồi” [14, 92].
Được đánh giá là “cuốn sách tuyệt vời” trong bài Đọc Đảo hoang ở Liên
Xô năm 1981, tác giả Ac-ca- đi Xtơ- ru-ga xki đã nêu lên ấn tượng sâu sắc của
mình về cốt truyện phiêu lưu hấp dẫn những nhân vật hết sức sinh động và trí
tưởng tượng phong phú của Tơ Hoài thể hiện trong tác phẩm. Tác giả bài viết
cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ Tơ Hồi ở nhiều phương diện: nhà văn, nhà hoạt
động xã hội nổi tiếng, con người khiêm nhường, chân thành, thuỷ chung trong
tình bạn, một người tốt không bị vinh quang làm hỏng.
Trong Đọc truyện nỏ thần, sau khi nêu những điều kiện thuận lợi về lịch
sử, xã hội, văn hoá làm cơ sở cho việc hình thành tiểu thuyết Chuyện nỏ thần,
tác giả Đỗ Bạch Mai đã đánh giá trí tưởng tượng và vốn sống của Tơ Hồi trong
việc miêu tả, trần thuật, xây dựng nhân vật, đồng thời cũng khẳng định “cuốn
tiểu thuyết có một giọng văn thuần Việt khá mẫu mực” [41].
Cũng về tác phẩm này, tác giả Văn Hồng trong Chuyện nỏ thần, hiện thực
và huyền thoại lại tập trung làm rõ mối quan hệ giữa bút pháp hiện thực và bút
pháp huyền thoại trong sáng tác miêu tả thiên nhiên, phong tục, tập quán, hội hè,
lao động, xây thành, làm nỏ cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình là
vua Thục và Cao Lỗ. Theo Văn Hồng thì “cách nhìn, cách cảm nhận của tác giả
mang tính hiện thực lịch sử, cách nhìn, cách cảm nhận của nhân vật…ít nhiều
mang tính huyền thoại” [26, 508]. Cả Đỗ Bạch Mai và Văn Hồng đều đi đến
thống nhất: “Cảnh và tình, thực và hư cứ đan quyện vào nhau trong một ngơn
ngữ giàu có, tươi mát” [26, 509].
5
Là nhà văn có nghề, Tơ Hồi được đánh giá “là tấm gương sáng về tinh
thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một con người viết
văn xuôi ở nước ta”. Bởi vậy, “khám phá ông cả về văn lẫn về đời là say mê với
chúng ta, những người có hạnh phúc và được cùng thời với ông, và chắc cả thế
hệ sau. Khám phá về ơng…là địi hỏi của tình cảm, của lịng biết ơn, sự noi
gương [ 47, 30].
Một số luận văn thạc sĩ cũng có những nghiên cứu khá sâu sắc và bài bản
về Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần như Đặc điểm tiểu thuyết lịch sử viết
cho thiếu nhi của Tơ Hồi qua Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần của
Trương Thị Thu (Đại học Vinh, 2009), Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của
Tơ Hồi của Phạm Thị Nhân (Đại học Vinh, 2013),…
Tính đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có cơng trình nào đặt vấn đề nghiên
cứu thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo Hoang, Chuyện nỏ thần với tư cách là đối
tượng độc lập, một cách quy mô và hệ thống. Mặc dù vậy, những cơng trình đã
có sẽ ít nhiều đem đến những gợi ý quý báu cho chúng tơi trong q trình hồn
thiện luận văn này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo
Hoang, Chuyện nỏ thần của Tơ Hồi.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.1. Thiết lập cơ sở lí thuyết, mô tả một cách khái quát thiên nhiên trong
sáng tác của Tơ Hồi nói chung và trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần
nói riêng.
6
4.1.2.Tìm hiểu hình tượng thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần.
4.1.3. Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo
hoang, Chuyện nỏ thần
4.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là mơ tả, phân tích một cách hệ thống những biểu
hiện của thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, từ đó góp
phần làm sáng tỏ hơn những đặc điểm thế giới nghệ thuật của tác phẩm này, và
sáng tác nói chung của Tơ Hồi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tơi sử dụng phương pháp loại hình, phương
pháp hệ thống – cấu trúc, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu và xác định những đặc điểm của thiên nhiên trong
tiểu thuyết của Tơ Hồi thơng qua góc nhìn sinh thái. Kết quả của luận văn có
thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về sáng tác của Tơ Hồi, về văn
học viết cho thiếu nhi hoặc về tiểu thuyết lịch sử.
7. Cấu trúc của luận văn
Tương ứng với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, ngoài Mở đầu,
Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài sẽ được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở của nghiên cứu thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần
7
Chương 2: Hình tượng thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang, Chuyện
nỏ thần.
Chương 3: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Nhà Chử, Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
THIÊN NHIÊN TRONG NHÀ CHỬ, ĐẢO HOANG, CHUYỆN NỎ THẦN
1.1. Vấn đề nghiên cứu mối quan hệ con ngƣời với tự nhiên trong nghiên
cứu, phê bình văn học
1.1.1 Vấn đề mối quan hệ con người với tự nhiên trong bối cảnh xã hội
hiện đại
Bước sang thế kỉ XXI, nhân loại ngày càng chứng kiến sự nghiêm trọng
của tình thế mất cân bằng sinh thái với những hệ lụy không hề nhẹ đối với đời
sống con người. Người ta nhận ra rằng, sự hủy hoại môi trường sinh thái đang
đe dọa một cách trực tiếp đến khả năng phát triển bền vững của mỗi vùng miền,
mỗi quốc gia, dân tộc cũng như toàn thế giới. Chính vì lẽ đó, sự quan tâm
nghiên cứu các vấn đề sinh thái cũng trở nên phổ biến.
Trong mọi hoàn cảnh, con người với tự nhiên ln có mối quan hệ chặt
chẽ, gắn bó, khơng thể tách rời. Khơng phải ngẫu nhiên mà có người gọi thiên
nhiên là “bà mẹ vĩ đại” của lồi người! Sinh ra từ chính tự nhiên, con người tạo
dựng sự sống và lịch sử trong khơng gian do tự nhiên ban tặng. Trong một hành
trình thật dài, tự nhiên chính là yếu tố quy định cách thức tồn tại và phát triển
của con người. Tự nhiên là nguồn sống, là nơi để con người gửi gắm tâm tình,
kiếm tìm sự đồng điệu. Người ta có thể thấy thiên nhiên xuất hiện trong mọi lĩnh
vực của đời sống con người, cả vật chất và tinh thần: thiên nhiên cho cá thịt, lúa
gạo để ăn, cho ánh sáng mặt trời để sưởi ấm, cung cấp nguồn điện năng; thiên
nhiên xuất hiện trong thi, ca, nhạc, họa, là nơi trú ẩn của con người trong những
vui buồn... Kể cả khi đã trở nên văn minh và mạnh mẽ hơn, có thể bắt ép thiên
nhiên phải chiều theo mình trong nhiều việc, thì con người vẫn phải lệ thuộc,
9
phải nương tựa thiên nhiên, thiên nhiên vẫn mãi còn những bí ẩn đánh thức khát
khao khám phá của con người.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng hiện đại, văn minh, sự tác động của con
người vào tự nhiên ngày càng trở nên bất cẩn và tiêu cực. Con người đã đánh
đổi mạng sống của tự nhiên để thu về những lợi ích lớn nhỏ mà khơng hề lường
hết những cái giá sẽ phải trả trong quá trình tác động và xâm hại ấy. Thậm chí,
có khơng ít những tập thể và cá nhân, dù có thể tự ý thức được, có thể được
tuyên truyền về những hậu quả sẽ phải nhận lĩnh đối với hành động tàn phá tự
nhiên, nhưng vẫn vì lịng tham mà bất chấp tất cả. Người ta đã từng cảnh báo
rằng, sẽ khơng cịn lâu nữa, đàn voi châu Phi cũng sẽ chỉ tồn tại như một hồi
niệm của con người và người ta chỉ cịn có thể nghĩ về tê giác Gia-va như nghĩ
về những con khủng long bạo chúa. Còn ở Việt Nam, đã từ lâu những người yêu
thích khám phá thiên nhiên, những người thợ rừng khơng cịn được nghe một
tiếng hổ gầm, khơng cịn được nhìn thấy một dấu chân tê giác; trong khi đàn sếu
đầu đỏ đang loay hoay tự tìm kiếm cho mình những khơng gian sống phù hợp
thì những con voọc chà vá vẫn bị xiên, nướng một cách tàn nhẫn; sự xuất hiện
của những con voi phía ven khu dân cư ở bìa rừng khơng phải là một chỉ dấu về
sự phát triển, sinh sôi của chúng, mà là dấu hiệu của sự cạn kiệt nguồn thức ăn,
dấu hiệu của việc không gian sống của chúng đang bị hủy diệt một cách thê
thảm; chuyện một con sông ở Tây Nguyên bị mất dòng để phục vụ thủy điện
hay việc bán đảo Sơn Trà bị xẻ thịt chỉ là hai trong vơ vàn chuyện đau lịng ở
Việt Nam về sự ngược đãi của con người với tự nhiên. Tóm lại, ở Việt Nam và
khắp nơi trên thế giới, tự nhiên đang bị xâm hại một cách nghiêm trọng một
cách có hoặc khơng ý thức, mà những hành động hay lời nói phản kháng yếu ớt
khơng đủ uy lực để cải thiện tình hình.
Và dĩ nhiên, những cái giá mà con người phải trả cho lịng tham khơng
đáy của mình cũng không hề nhỏ: vài chục năm lại nay, động đất, sóng thần
10
khơng cịn là điều gì mới mẻ, cịn chuyện sạt lở, lũ ống, lũ quét đã trở thành cơm
bữa, và chính con người chứ khơng ai khác phải chịu những thương tổn khủng
khiếp khi thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, mơi trường ngày càng bị ơ nhiễm. Bởi
chính những hành động liều lĩnh của mình, con người đang hàng ngày bị chính
thiên nhiên cướp đi mạng sống, hay cũng như chính con người đang hàng ngày,
hàng giờ hủy hoại mạng sống của mình, một cách trực tiếp hay gián tiếp, bằng
những xác người nổi chìm trong dịng lũ dữ bởi sơng bị đổi dịng, rừng bị chặt
phá hay những cơ thể vật vã trên giường bệnh bởi những chứng nan y do sự
nóng lên của tái đất, do lượng khí độc thải vào môi trường từ các nhà máy, hầm
mỏ và cả những họng súng… Một thống kê gần đây cho thấy, trong những năm
qua, khắp các châu lục trên thế giới phải chịu những thảm họa thời tiết mà hệ
quả được đo bằng mạng sống của con người. Chỉ tính riêng năm xảy ra kì “siêu
El Nino” 2015, có 1.200 người Pakistan chết vì sốc nhiệt và mất nước, trong khi
2.500 người ở Ấn Độ tử vong vì nắng nóng; chưa kể, cũng tại Pakistan, năm
2011, trận lũ lụt Sind đã khiến 434 người thiệt mạng và 1.524.773 căn nhà bị tàn
phá; đợt hạn hán tồi tệ năm 2010 đã khiến mười triệu người ở châu Phi lâm cảnh
nghèo đói…
Trước tình hình nối dài của những thảm họa sinh thái hiện hữu, nhiều tổ
chức, cá nhân bằng cách này hay cách khác đã phải lên tiếng cảnh báo hoặc thực
sự bắt tay vào, ở những mức độ khác nhau giải quyết những vấn đề của môi
trường sinh thái. Không phải đến bây giờ, mà từ hơn năm mươi năm về trước, tổ
chức môi trường của Liên hiệp quốc đã lấy ngày 05 tháng 6 hằng năm làm Ngày
vì mơi trường thế giới. Từ đó đến nay, tổ chức này, cũng như các vùng, miền,
nhiều đơn vị, cá nhân ở nhiều quốc gia đã phấn đấu khơng mệt mỏi vì một mơi
trường xanh, sạch, đẹp. Đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức, nhiều
phong trào hành động thực tế được phát động, nhiều cơng trình khoa học được
công bố, nhiều bài báo, ấn phẩm được xuất bản nhằm phát đi thông điệp về môi
11
trường. Tất cả đều hướng đến mục đích cứu mơi trường, cũng là cứu con người
thoát khỏi thảm họa.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội với thiên chức viết về con người và
vì con người, vì thế, nó khơng thể đứng ngồi những vấn đề bức xúc, nóng bỏng
của đời sống, trong đó có vấn đề của tự nhiên, vấn đề mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
1.1.2. Sự quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
sáng tác văn học hiện đại.
Gắn bó với tự nhiên vốn là định mệnh của con người ngay từ thuở khai
thiên lập địa.Như một cách rất tự nhiên, ngay từ những tác phẩm văn học đầu
tiên, thiên nhiên đã hiện diện một cách phong phú, đa dạng, từ những Ô-đi-xê,
Ramyana, Bài ca chàng Đam Săn đến những bài ca dao,những truyện cổ tích
hay những vần thơ trung đại, hiện đại phương Đông và phương Tây... Và, một
cách bền bỉ như thế, thiên nhiên xuất hiện trong văn học mỗi thời, mỗi giai đoạn
lại có những biểu hiện khác nhau tùy tâm trạng, quan niệm đời sống và lí tưởng
thẩm mĩ của con người.
Trong văn học hiện đại, nhất là văn xuôi, thiên nhiên vẫn tiếp tục một
cách đa dạng, phong phú, và một phần kế thừa truyền thống, nghĩa là mô tả thiên
nhiên với tư cách là một bình diện quan trọng trong đời sống của con người. Đó
đây những bức tranh phong cảnh vẫn có vai trị thể hiện khơng gian sống, là nơi
gửi gắm tâm tình của nhà văn và nhân vật; mở ra một phương thức tồn tại, mưu
sinh hay nếm trải của những số phận được mô tả trong tác phẩm. Bên cạnh đó,
có thể thấy một ý thức khác trong sự miêu tả thiên nhiên trong văn chương hiện
đại, nhất là văn xi. Ở đó, nhà văn miêu tả tự nhiên không chỉ như một phương
tiện tự biểu hiện hay khám phá đời sống nhân vật một cách chung chung, mà
12
còn nhằm xem xét mối quan hệ phức tạp giữa con người với tự nhiên, đưa ra
những cảnh báo về sự quy tàn của hệ sinh thái bao quanh con người.
Đã có nghiên cứu cho rằng, thực ra Ơng già và biển cả (Hemingway) có
động cơ và nền tảng, tuyến cơ bản là sự đối lập giữa con người với tự nhiên.
Trên ý thức nhân loại trung tâm hư vô chủ nghĩa, Hemingway mô tả mối quan
hệ đối lập mà ở đó tự nhiên có thể trở thành mồi ngon của con người nhưng
ngược lại chính con người cũng có thể là mồi ngon của tự nhiên, ở đó cả hai tàn
sát lẫn nhau, khơng có người mạnh, khơng có kẻ yếu. Trong những biểu hiện
phong phú của toàn thiên truyện, ơng lão có vẻ như là người chiến thắng nhưng
đến cuối cùng, cái cứu cánh mà ông lão dành tất cả nỗ lực để phấn đấu chỉ còn
là bộ xương trắng, và ông già là biểu tượng của sự thất bại. Hệ thống các tác
phẩm văn học sinh thái còn được nhắc đến với Walden của Henry David
Thoreau, Tự khúc của Wiliam Wordsorth, Bên bờ biển, Xuân cô đơn của Carson,
Tàu trắng của Aitmatov, Bạn của trái đất của Boyle, Tự nhiên trong đô thị và
Sự mê hoặc của rừng sâu của Kato...
Ở Việt Nam, tính từ 1986, việc thể hiện mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, những cảnh báo con người về thái độ ứng xử với thiên nhiên trong văn
học có thể chưa là một mối quan hoài thường trực nhưng cũng đã thu hút sự chú
ý của khơng ít nhà văn.Tác phẩm đầu tiên ghi một dấu ấn đậm, rõ việc miêu tả
mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên từ góc nhìn sinh thái có lẽ là Sống
mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu- một tác phẩm kể về tình yêu thương
và những nỗ lực tạo dựng một màu xanh cho đời sống, như một khắc khoải
chống lại nguy cơ biến mất của màu xanh trong q trình đơ thị hóa. Tiếp đó
phải kể tới những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nhìn thấy thiên
nhiên trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng gắn bó một cách
chặt chẽ với đời sống con người, thậm chí, nhiều lúc cịn quy định các trạng thái
tình cảm, tâm tính của con người. Thiên nhiên nào sẽ sinh ra con người ấy. Quan
13
sát các nhân vật và tình huống truyện của ơng, ta sẽ thấy rằng, phần lớn những
nhân vật được sống trong môi trường mà thiên nhiên đang bao bọc với những
nét đẹp vốn có của nó: một dịng sơng, một vịm trời với những bí mật chưa từng
được khám phá… con người sẽ trở nên nhu thuận, lành hiền và dễ chịu hơn;
ngược lại, môi trường đô thị, nơi mà sinh thái tự nhiên đang ngày càng bị đe
dọa, là nơi dễ khiến con người tha hóa, suy đồi. Đặc biệt trong một số tác phẩm,
nhà văn đã không giấu diếm ý đồ gửi thông điệp về cuộc đấu tranh giữa con
người với thiên nhiên, sự trả giá của con người cho những hành vi xâm hại tự
nhiên. Sói trả thù chẳng hạn. Truyện kể về một người thợ săn, sau khi giết chết
sói mẹ, đã đưa sói con về ni. Sói con lớn lên, lành hiền khơng khác một con
chó nhà: trung thành, tận tụy. Nhưng một ngày, người thợ săn đi vắng, đứa con
trai duy nhất của ông chơi tha thẩn trước sân và bị ngã, một dòng máu tứa ra.
Dòng máu đã đánh thức bản năng hoang dã của con sói tưởng đã được thuần hóa
đang ở gần đó. Ngay lập tức, nó lao vào xé xác cậu bé. Truyện thứ hai đáng chú
ý là Muối của rừng. Truyện xoay quanh những diễn biến cuộc săn của ông Diểu.
Trong hành trình sát hại thiên nhiên của mình, ơng đã gặp một gia đình khỉ. Ơng
đã bắn bị thương con khỉ mẹ, nhưng cái giá mà ông phải trả là tất cả những gì
ơng có trên mình: súng, quần áo… đều bị con khỉ bố cướp sạch trong một sự cố
hi hữu. Cuối cùng, tay trắng ra về, ông cứ “trần truồng mà đi, cô đơn mà đi”
dưới làn mưa như rây bụi và trong sắc màu của lồi hoa tử huyền. Mỗi tác phẩm
kể trên có một nội dung và mang những hàm ý khác nhau, nhưng đều là lời cảnh
báo con người về thái độ, hành động ứng xử tàn nhẫn với môi trường. Nỗi đau
xé lịng của người thợ săn hay tình trạng lố bịch của ông Diểu đều khiến những
kẻ thù của tự nhiên, nếu đọc được, đều phải suy ngẫm.
Nguyễn Ngọc Tư là cây bút có ý thức tun ngơn về mối quan hệ hoà hợp
con người- tự nhiên và đặt ra vấn đề bảo vệ thiên nhiên một cách rõ ràng, kiên
quyết.Tác giả đã phát hiện ra một chân lí thật giản dị mà nghiêm trọng:“Con
14
người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục, hủy hoại nó, cịn thiên nhiên trả
thù bằng cách: Nó biến mất”[61, 153]. Con người đến với thiên nhiên để tìm
một chỗ dựa tinh thần khi bản thân bị cộng đồng xa lánh, hắt hủi, và khi đó họ
trở thành người tình nguyện bảo vệ thiên nhiên. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc
Tư thường rất cô độc, mỗi nhân vật bị đẩy vào cơ đơn theo những cách khác
nhau của dịng đời đầy bất trắc. Khơng có ai chia sẻ hoặc từ chối chia sẻ với mọi
người, họ tìm đến thiên nhiên như một nơi để vơi bớt nỗi trống trải mênh mông
trên cõi đời này. Hạn hán đẩy các bạn lên thành phố, Củi (Sầu trên đỉnh Puvan)
đặt tên lũ dê bằng tên những người bạn và chia sẻ buồn vui với chúng, thậm chí
cả khi lũ dê chết cậu vẫn giữ cái đầu lâu dê bên mình. Ơng già trong Cái nhìn
khắc khoải chỉ có con Vịt Cộc chuyện trò, tâm sự, giãi bày để đươc an ủi. Mẹ
cha ích kỉ, tàn nhẫn chỉ lo kiếm tiền và xua đuổi ông nội- người bạn duy nhất
nên cậu bé (Núi lở) suốt ngày chỉ tha thẩn với con nhồng…
Đã quá đủ dữ kiện để cho con người nhận thức rằng, dù nhân loại phát
triển tới đâu, con người vẫn luôn chỉ là một bộ phận của tự nhiên, và sự chung
sống hài hoà giữa con người và tự nhiên là một giá trị vĩnh hằng. Từ các cấp độ
đã khảo sát ở trên, có thể khẳng định mối quan hệ con người- tự nhiên là một
trong những vấn đề được thể hiện sâu sắc nhất trong văn xuôi hiện đại. Nhiều
tác phẩm đã cho thấy trong quá trình sống lâu dài của mình, về cơ bản con người
ln tìm cách sống hồ hợp với tự nhiên, tìm tiếng nói chung đồng điệu với tự
nhiên, thậm chí coi tự nhiên như một bản thể thứ hai của mình. Mối quan hệ ấy
ln mang tính hai chiều, bền vững và sâu nặng. Ngày nay, trước nhu cầu nóng
bỏng của nhân loại về cải thiện môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hoà
vĩnh cửu giữa con người và thiên nhiên được phản ánh trong văn học càng thể
hiện rõ rệt ý nghĩa thực tiễn và tính thời sự của nó.
15
1.1.3. Sự quan tâm đến quan hệ con người với tự nhiên trong nghiên
cứu, phê bình văn học hiện đại.
Mối quan hệ giữa con người và môi trường, con người và tự nhiên đã
được đề cập đến trong văn chương từ thời cổ đại. Tuy nhiên mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong văn học vẫn chưa được giới nghiên cứu nước ta chú
ý nhiều mặc dù đây là một khuynh hướng phê bình được đánh giá là đang phát
triển rất năng động trên thế giới hiện nay. Mối quan hệ này được giới nghiên
cứu và phê bình gọi bằng thuật ngữ là “phê bình sinh thái” hoặc “văn học sinh
thái”.
Theo Cheryll Glotfelty, “phê bình sinh thái là phê bình bàn luận về quan
hệ giữa văn học và mơi trường tự nhiên”. Theo cách hiểu này, phê bình sinh thái
chú ý đến việc văn học miêu tả, thể hiện như thế nào về sự suy thối của mơi
trường sinh thái diễn ra do hiệu ứng nhà kính, do q trình hiện đại hóa, nghĩa là
xuất phát từ góc độ văn hóa sinh thái, văn học sinh thái để nghiên cứu văn học.
Trên cơ sở đó, văn học sinh thái góp tiếng nói vào việc giải quyết những hậu quả
sinh thái để tiến đến tạo sự cân bằng môi trường, đảm bảo tương lai cho sự phát
triển của nhân loại. Bắt đầu được đề xuất bởi tác giả người Mĩ William Rueckert
năm 1978, thuật ngữ “phê bình sinh thái” đã tồn tại một cách chính thống trong
dung mơi văn học của nhiều nước trên thế giới cho đến ngày nay. Năm 1992,
“Hội nghiên cứu văn học và môi trường” được thành lập ở đại học Nevada, nước
Mĩ. Tiếp đó, lí thuyết này được củng cố bởi sự ra đời của chuyên luận Phê bình
văn học sinh thái, tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần” của Kroeber
(1994), Đọc trái đất: khuynh hướng mới của nghiên cứu văn học và môi trường
(Kỉ yếu Hội thảo Đại học Colorado – 1998), sau đó, các trước tác phê bình sinh
thái mọc ra như nấm”. Năm 1996, tập bài viết về phê bình sinh thái với tên gọi
Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên
được xuất bản tại Mĩ, tiếp đó, các năm 1999, 2000… nhiều cơng trình nghiên
16
cứu, phê bình sinh thái nối nhau ra đời. Phê bình sinh thái ngày càng có tiếng
nói quyền uy trong phê bình văn học trên thế giới.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, giới nghiên cứu văn học rất ít quan tâm đến Phê
bình sinh thái, dù họ đã giới thiệu, ứng dụng với một số thành tựu nhất định với
các lí thuyết mới mẻ như Chủ nghĩa lịch sử mới, Chủ nghĩa duy vật văn hóa hay
lí thuyết tương đối nhạy cảm như Diễn ngơn quyền lực của Foucault…Điều này
có lẽ bị quy đinh, hoặc chi phối bởitừ chính sự mới mẻ một cách đặc thù của
khuynh hướng nghiên cứu này.
Cho đến nay, theo tìm hiểu của chúng tơi, ở nước ta mới chỉ có một số ít
bài giới thiệu lí thuyết phê bình sinh thái đăng trên tạp chí chun ngành và kỉ
yếu hội thảo khoa học văn học, một vài đề tài khoa học nghiên cứu văn học từ
góc nhìn phê bình sinh thái như Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển
và Phê bình sinh thái – một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới của Đỗ Văn
Hiểu, Karen Thornber với bài viết Những tương lai của phê bình sinh thái và
văn học do Hải Ngọc dịch, Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng mơi
trường của Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn
Phấn…
Mặc dù vậy, qua việc khảo sát số bài viết, cơng trình ít ỏi trên, chúng tơi
nhận thấy nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái ở Việt Nam đã có
những thành tựu bước đầu, nhất là đã có tác giả có ý thức theo đuổi lí thuyết này
như là sự định vị một phương hướng nghiên cứu khá bền bỉ, như trường hợp
Đặng Thái Hà. Tác giả này có những bài viết vận dụng một cách khá linh hoạt lí
thuyết sinh thái và trên cơ sở đó có những phân tích sâu sắc, những khám phá
thú vị về văn học sinh thái của Đoàn Giỏi, Nguyễn Huy Thiệp… Trong bài
“Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh
thái” đăng trên , tác giả hướng đến phát hiện và trình bày
những phản ứng cụ thể của diễn ngôn văn học đương đại trước thực trạng môi
17
trường và trước cả những tạo dựng đã có về môi trường. Bài viết, bằng việc thiết
tạo các luận điểm “chất vấn cặp đối lập nhị nguyên: nhân loại (human) – Tự
nhiên phi nhân (non-human Nature); “Những không gian sinh thái” đã phân tích,
lí giải một cách lí thú quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp về thiên nhiên và mối
quan hệ giữa thiên nhiên với con người trong thế vừa xung đột vừa dung thứ.
Ngồi ra, tác giả này cịn có bài viết rất cần được ghi nhận như “Vấn đề sinh
thái- đô thị trong văn xuôi Việt Nam thời đổi mới”… Vũ Minh Đức xem những
cái chết trong Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như quá trình
giải quyền lực của thiên nhiên đối với con người. Trần Thị Ánh Nguyệt khi tìm
hiểu thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (từ góc nhìn phê bình sinh
thái) đã chỉ ra ba nội dung quan trọng: sự hủy hoại của mơi trường sinh thái;
lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên; thiên nhiên cứu rỗi con người, từ đó đi đến kết
luận: “Văn học Việt Nam sau năm 1975 mải mê với hiện thực cõi nhân sinh với
những đề tài thời sự: phơi bày những mặt trái của hiện thực, phê phán xã hội,
tính dục… khiến cho tinh thần sinh thái văn học có nguy cơ xuống dốc. Dường
như “ít có bóng cây cỏ trên đường đi của lũ nhân vật” (Cây Hà Nội – Nguyễn
Tuân). Con người đã bỏ rơi thiên nhiên. Sự thiếu vắng tự nhiên khiến cho môi
trường văn học trở nên khô khan, ngột ngạt bởi những toan tính, lọc lừa, xảo trá
của đời sống cuống quýt, vội vã. Nghệ thuật phải thông qua miêu tả mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên để tạo nên sức hút, sức sống. Vậy nên, những truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã làm “xanh” một khoảng không gian văn học, từ
đó đề xuất cho chúng ta nhiều vấn đề trước Mẹ Trái Đất và giúp chúng ta nhận
ra khi loài người càng trưởng thành càng phải nhận ra mình đã phũ phàng với
nơi mà con người lớn lên, gắn bó và đặt hi vọng ở đó” theo
đã đề cập.
Mặc dù đã có một vài thành tựu như chúng tơi vừa nhắc, song, nhìn từ cả
hai phương diện, thời gian xuất hiện lẫn số lượng cơng trình, có thể thấy được sự
18
thiệt thịi của phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng nghiên cứu
độc lập với vị thế và giá trị nhất định (nếu nhìn vào bản đồ phát triển của phê
bình văn học trên thế giới). Nó cũng cho thấy sự chậm trễ của việc giới thiệu và
vận dụng lí thuyết này ở nước ta. Điều đó ít nhiều làm giảm đi sự phong phú của
những trải nghiệm văn học.
Với nhận thức ấy, cùng với mong muốn góp phần nào đó trong việc giới
hướng tiếp cận phê bình sinh thái ở Việt Nam, chúng tơi lựa chọn vận dụng lí
thuyết này trên một đối tượng nghiên cứu cụ thể là “Thiên nhiên trong Nhà Chử,
Đảo hoang và Chuyện nỏ thần của Tơ Hồi”. Trên tinh thần đó, luận văn sẽ xem
xét sự miêu tả, thể hiện thiên nhiên trong ba tác phẩm ở mối quan hệ với đời
sống con người ở nhiều góc độ nhu cầu sinh tồn, góc độ văn hóa, lịch sử...; trên
cả hai phương diện nội dung và hình thức thể hiện.
1.2. Tơ Hồi, nhà văn dành nhiều trang viết về thiên nhiên
1.2.1. Tô Hồi - tiểu sử và sự nghiệp sáng tác
Tơ Hồi tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 (tức
ngày 16.8 Canh Thân) tại làng Nghĩa Đơ, Từ Liêm, phủ Hồi Đức (nay thuộc
phường Nghĩa Đơ, Hà Nội). Quê quán của ông ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh
Oai, tỉnh Hà Tây. Ngồi bút danh Tơ Hồi ơng cịn có các bút danh khác: Mắt
Biển, Mai Trang, Duy Phương, Hồng Hoa. Xuất thân trong một gia đình làm
nghề dệt lụa, học hết bậc tiểu học, sau đó Tơ Hồi vừa tự học, vừa làm đủ các
nghề để kiếm sống. Tuổi thanh niên, Tơ Hồi phải trải qua nhiều nghề khác
nhau như: dạy học tư, bán hàng, làm kế tốn cho hiệu bn,… Những năm
tháng tuổi thơ trơi qua trong vất vả khó nhọc, sau này ơng tâm sự: “Trước khi
vào nghề văn ở Hà Nội, tôi đã đứng bán hàng cho hãng buôn, làm phu, kế tốn,
dạy học. Nếu khơng làm nghề văn chắc tơi đã làm những nghề tương tự đã làm
19
để kiếm sống” [1, 77]. Được đồng nghiệp đánh giá “là nhà văn giàu chất chuyên
nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Viêc viết lách đối với ông là một
thứ lao động hàng ngày” [31,182] nhưng Tơ Hồi khơng chỉ có viết, ơng cịn
tích cực tham gia cơng tác chính trị, xã hội. Năm 1938, ơng chịu ảnh hưởng của
Mặt trận Bình dân và tham gia hạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và
Thanh niên dân chủ Hà Nội. Ông bắt đầu in những tác phẩm đầu tiên vào cuối
những năm 30 của thế kỷ XX.
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay,
Tơ Hồi đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm
mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu
luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước
nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhìn
chung, Tơ Hồi là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm
tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào ông
cũng đạt được những thành công đặc sắc. Đặc biệt là ở những tác phẩm viết về
loài vật và miền núi Tây Bắc. Tơ Hồi ln có những cố gắng tìm tịi, khám phá
trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sức
hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh
thần của người đọc nhiều thế hệ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh có một
nhận xét chính xác: “Có thể nói, Tơ Hồi là nhà văn của người thường, của
chuyện thường, của đời thường” [42,288].
Những sáng tác đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu
thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tơ
Hồi đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này
bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê
người (1941), O chuột (1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944). Từ các tác
20
phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ
thuật của ông. Tác phẩm của Tơ Hồi trước cách mạng có thể phân thành hai
loại chính là: truyện về lồi vật và truyện về nơng thơn trong cảnh đói
nghèo.Qua những truyện về lồi vật tiêu biểu như : O chuột, Gã chuột bạch,
Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực..., người đọc nhận thấy,
nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống, bày tỏ
mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc sống tốt
đẹp mang tính khơng tưởng. Giáo sư Phong Lê từng nhận xét rằng: “ Thế giới
loài vật, đó quả là nội dung đặc sắc và độc đáo trong thế giới truyện Tơ Hồi. Có
lẽ trước và sau ơng ít ai có sức viết và tài viết như thế” [31, 23].
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tơ Hồi tạo cho người đọc dấu
ấn lâu bền. Với vợ chồng Đôi ri đá “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ
lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc nhà quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm,
sống hạnh phúc, “bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”, chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày
trứng nở, chờ những đứa con lớn lên từng ngày... Thế rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ
đón xn về vơ tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng
nổ vang động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc sống của đôi vợ
chồng chim ri đá rồi sẽ như thế nào trong cảnh tan tác đó đã khiến cho người
đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Cịn Mụ ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp” đến
mức những đứa con của mình gặp nạn, hay bị chết vẫn vơ tình, thản nhiên. Kể
cả khi bị đá, bị đuổi đánh, “bị bỏ tù” thì “chúng vẫn khơng hiểu chi”. Hơn thế
nữa khi “chồng mụ” bị làm thịt, mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rõ “khi
có hạt ngơ đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xơ đến mà khởi sự
ăn”. Cùng với hình ảnh của những lồi vật trên là của chú chó Đực ham vui, “la
cà” với “hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến. Đực “buồn thỉu, buồn thiu, đi
lừ khừ quên cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó trở nên “lạnh lùng
với cuộc đời và lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ sống cái cuộc đời tàn cục
21