Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Chiến tranh và bản năng sống của con người trong tiểu thuyết miền hoang của sương nguyệt minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.65 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ LỆ NGA

CHIẾN TRANH VÀ BẢN NĂNG SỐNG CỦA CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG
CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ LỆ NGA

CHIẾN TRANH VÀ BẢN NĂNG SỐNG CỦA CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG
CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHAN HUY DŨNG



NGHỆ AN - 2017


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát ................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 7
Chƣơng 1. MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH TRONG MẠCH
TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TỪ ĐỔI MỚI
ĐẾN NAY .......................................................................................................... 8

1.1. Khái lược những xu hướng tìm tịi của tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh từ sau Đổi mới ...................................................................................... 8
1.1.1. Xoáy sâu vào số phận con người .................................................... 8
1.1.2. Gia tăng tính triết luận .................................................................. 13
1.1.3. Áp dụng thước đo nhân bản để đánh giá con người và sự kiện.... 15
1.2. Đề cập vấn đề bản năng sống của con người - một nỗ lực thế tục hóa
đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau Đổi mới ......................................... 17
1.2.1. Một số giới thuyết ......................................................................... 17
1.2.2. Sự vượt qua những rào cản, cấm kỵ ............................................. 18
1.2.3. Những thành công và hạn chế....................................................... 21
1.3. Miền hoang - sự tiếp nối những thể nghiệm tích cực của tiểu thuyết
viết về đề tài chiến tranh sau Đổi mới......................................................... 24

1.3.1. Sương Nguyệt Minh, từ trải nghiệm đời lính tình nguyện đến
sáng tạo nghệ thuật........................................................................ 24


1.3.2. Miền hoang và sự mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực
chiến tranh .................................................................................... 27
1.3.3. Những nỗ lực “vượt gộp” ở đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết
Miền hoang ................................................................................... 30
Chương 2. QUAN HỆ HAI CHIỀU GIỮA CHIẾN TRANH VÀ BẢN NĂNG
SỐNG CỦA CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG............ 33

2.1. Sức hủy diệt sự sống của chiến tranh ................................................... 33
2.1.1. Bức tranh đau thương của nạn diệt chủng .................................... 33
2.2.2. Sự hoành hành của bản năng chém giết trong một chế độ
quái gở .......................................................................................... 37
2.2.3. Những tự vấn nhức nhối ............................................................... 39
2.2. Sự trỗi dậy của bản năng sinh tồn trong chiến tranh............................ 42
2.2.1. Bản năng tự vệ .............................................................................. 42
2.2.2. Bản năng tìm đường sống ............................................................. 44
2.2.3. Bản năng tình dục ......................................................................... 47
2.3. Con đường khẳng định chật vật của nhân tính..................................... 52
2.3.1. Khả năng điều chỉnh của văn hóa ................................................. 52
2.3.2. Sức mạnh của hồi ức ..................................................................... 54
2.3.3. Sự lên tiếng của tình thương và bản năng che chở ....................... 56
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH
VÀ BẢN NĂNG SỐNG CỦA CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT
MIỀN HOANG ................................................................................................. 60

3.1. Nỗ lực khám phá con người bằng điểm nhìn bên trong....................... 60
3.1.1. Hệ thống điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm............................ 60

3.1.2. Hiệu quả nghệ thuật - tư tưởng của việc trao quyền cho
nhân vật tự bộc lộ ......................................................................... 66
3.1.3. Nghệ thuật kết nối các mảnh tâm tư ............................................. 68


3.2. Nghệ thuật tạo tình huống .................................................................... 70
3.2.1. Độ căng của tình huống truyện ..................................................... 70
3.2.2. Những tình huống làm phát lộ phần “con” của nhân vật .............. 73
3.2.3. Những tình huống thách thức, soi tỏ nhân tính ............................ 76
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ .............................................................. 78
3.3.1. Cá biệt hóa và liên kết các bè ngơn ngữ ....................................... 78
3.3.2. Sự thể nghiệm ngôn ngữ “chép sử” .............................................. 82
3.3.3. Sự giao thoa giữa tính thơ mộc và tính văn chương của
ngôn ngữ ....................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài đến 30 năm, nhân dân ta
vẫn chưa hồn tồn được hưởng cuộc sống hịa bình. Cuộc chiến tranh biên
giới phía Tây Nam và tiếp đó là cuộc tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng
Polpot ở Campuchia đã làm hao tổn nặng nề nguyên khí đất nước. Đến nay,
các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam vẫn nhớ như in cuộc chiến dã man, đầy
máu, nước mắt những năm tháng ấy. Thế nhưng cuộc chiến đó vẫn chưa được
thể hiện một cách đúng tầm trong các sáng tác văn học. Đây hẳn là một điều
khiến bao nhà văn trăn trở và sự trăn trở đó đã thúc dục nhà văn Sương
Nguyệt Minh viết nên tác phẩm Miền hoang dày dặn cả về số trang lẫn hàm

lượng thông tin thẩm mỹ. Ra đời từ năm 2014 nhưng cho đến nay, tiểu thuyết
này vẫn chưa được nhận một sự quan tâm nghiên cứu tương xứng của các nhà
phê bình.
1.2. Có thể xem Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là cuốn tiểu
thuyết viết về đề tài chiến tranh bằng một góc nhìn mới lạ với cách viết cũng
mới lạ. Các trận đánh được nói tới rất ít nhưng sự khốc liệt của chiến tranh
khơng vì thế mà khơng được thể hiện một cách đầy ám ảnh. Đặc biệt, vấn đề
bản năng sống của con người với những biểu hiện cơ bản và phong phú của
nó trong những hồn cảnh thử thách ngặt nghèo rất được tác giả chú ý tìm
hiểu, khám phá. Có thể nói trong văn học viết về chiến tranh ở ta, hiếm có tác
phẩm nào đề cập vấn đề chiến tranh và bản năng sống của con người toàn
diện như tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Với chúng tôi, đây
thực sự là một đề tài nghiên cứu hấp dẫn và có ý nghĩa khoa học.
1.3. Hiện nay, tiểu thuyết Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức
của thời đại hội nhập và giao lưu tồn cầu. Hướng tìm tịi nghệ thuật của


2
Sương Nguyệt Minh cũng có nhiều điểm chung nhưng với những đổi mới, tìm
tịi, sáng tạo của các nhà văn thế hệ trước hoặc cùng thế hệ. Do vậy, việc tìm
hiểu tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh cũng có ý nghĩa góp
thêm dữ liệu để nghiên cứu sâu hơn về diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam
trong những năm qua.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về sáng tác của Sương Nguyệt Minh nói chung
Nhà văn Nguyên Ngọc chia sẻ về cuốn sách của Sương Nguyệt Minh:
“Với đời sống văn học, chiến tranh luôn là một đề tài lớn, trong đó, đề tài về
cuộc chiến của người lính Việt Nam trên chiến trường Campuchia là cuộc
chiến vô cùng ác liệt, phức tạp, khắc nghiệt và gay gắt. Sự sáng tạo trong bút
pháp của Sương Nguyệt Minh đã góp phần giúp cho độc giả hiểu thêm về bản

chất cuộc chiến này” [41,5]
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận định Miền hoang là cuốn tiểu
thuyết công phu, tâm huyết; môtip “lạc rừng” tuy không mới nhưng với tư
cách là một người từng trực tiếp can dự vào cuộc chiến trên đất bạn
Campuchia như Sương Nguyệt Minh thì đấy có lẽ là sự lựa chọn khả dĩ nhất
để nhà văn trút vào đấy một phần đời của mình với tất cả những trải nghiệm,
suy tư, ám ảnh đầy ứ chật căng trong mình.
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu, vừa là đồng đội cũ, vừa là người biên tập cuốn
sách này, rất đồng cảm với những gì nhà văn Sương Nguyệt Minh hồi ức, tái
hiện, gửi gắm trong Miền hoang, một cuốn tiểu thuyết ám gợi, vừa có
Campuchia vừa khơng có Campuchia.
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ và nhà văn Đỗ Bích Thúy tâm đắc với việc
nhà văn Sương Nguyệt Minh biết tận dụng lợi thế của một tác giả truyện ngắn
để viết tiểu thuyết, đó là nghệ thuật chọn lựa, xử lí, phân bố và xâu chuỗi hệ
thống chi tiết. Khi đọc “Miền hoang” nhà văn Nguyễn Văn Thọ bày tỏ cảm


3
xúc: “Sự khốc liệt, dữ dội và ám ảnh về cuộc chiến mà tác phẩm đã lột tả đủ
để người đọc thấy rằng, mỗi trang viết của Sương Nguyệt Minh như được viết
bằng máu của đồng đội và của chính anh. Vốn là một nhà văn đầy kinh
nghiệm trong viết truyện ngắn, nên việc sử dụng chi tiết của Sương Nguyệt
Minh rất đắt, cùng sự xâu chuỗi chi tiết tài tình đã cuốn hút người đọc” [21]
. Nhà văn Đỗ Bích Thúy cho rằng mình bị cuốn sách của nhà văn Sương
Nguyệt Minh hấp dẫn ngay lần đọc bản thảo đầu tiên và cảm thấy mình là
người phụ nữ dũng cảm khi đọc tiểu thuyết này bởi tính chất tàn bạo, mạn rợ
ngoài sức tưởng tượng của bản thân về một cuộc chiến đó được tác giả phơi
trần. Nữ nhà văn này hoàn toàn tin tưởng rằng nhà văn Sương Nguyệt Minh
có thể làm chủ thể loại tiểu thuyết.
Trước đây đã có các luận văn nghiên cứu về Sương Ngọc Minh nhưng

chủ yếu xoay quanh các sáng tác truyện ngắn của ơng. Đó là các đề tài như
Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh của Trần Thị Phương
Loan tại Đại học Quốc Gia Hà Nội và Sự vận động trong truyện ngắn Sương
Nguyệt Minh của Trần Hồng Gấm tại Đại học Thái Nguyên. Và dề tài cách
tân nghệ thuật trong tiểu thuyết “ Miền hoang” cùa Sương Nguyệt Minh của
Nguyễn Thị Mai tại Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.
2.2. Về tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam sau Đổi mới
và vấn đề thể hiện bản năng sống của con người trong Miền hoang
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng từng nhận định: “Phải nói ngay rằng
chiến tranh là một “siêu đề tài” trong văn học hậu chiến Việt Nam. Vì sao như
thế? Là vì chúng ta cho đến nay vẫn chưa ra khỏi cuộc chiến theo nhiều
nghĩa. Dư âm và dư vị của chiến tranh vẫn còn hiện diện giữa đời sống của
chúng ta.” [63]
Khi bàn về sức sống của đề tài chiến tranh cách mạng trong đời sống
văn học, trong bài viết Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975 và những
thành tựu nghệ thuật bị bỏ lỡ, Nguyễn Phượng đã khẳng định: “Theo tôi bây


4
giờ cho đến nhiều chục năm về sau, chiến tranh vẫn là một đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều thế hệ vcon người Việt Nam cùng các bên tham gia vào
sự cố đặc biệt này” [59]
Thời gian gần đây, một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu một vài
phương diện của tiểu thuyết về chiến tranh: Quan niệm nghệ thuật về con
người trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 (2003) của Nguyễn Thị Ngọc
Diệp, Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu về chiến tranh sau
1975 (2004) của Bùi Thị Hường, Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh Việt Nam
2004-2008 (2009) của Nguyễn Thị Duyên…
Ngoài các nghiên cứu về một chặng đường phát triển của tiểu thuyết
chiến tranh, giới nghiên cứu còn đánh giá sự nghiệp sáng tác của tác giả.

Chẳng han: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai (2004) của Phạm
Thúy Hằng, Nhân vật người lính trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy (2008)
của Đinh Thanh Hương, Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết về chiến tranh sau
1975 (2009) của Phạm Phú Phong…
Một khía cạnh nữa của tiểu thuyết viết về chiến tranh hơm nay cũng
được tìm hiểu khá nhiều, đó là dục vọng và bản năng của con người. Miêu tả
dục vọng và bản năng không phải để phê phán con người mà là để tố cáo chiến
tranh với sức tàn phá, hủy diệt ghê gớm của nó khơng cho con người được
sống như chính họ mong muốn và khát khao. Về vấn đề này Đỗ Hải Ninh cũng
đã khẳng định: “tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam đương đại đã từng bước dịch
chuyển, cất lên những tiếng nói đa chiều của con người về vấn đề lớn của nhân
loại và của lịch sử dân tộc. Những dịch chuyển hướng tới chủ nghĩa nhân văn
và sự đa dạng trong bút pháp nghệ thuật khiến cho tiểu thuyết viết về chiến
tranh vang vọng xa hơn và hòa nhập dòng chảy của văn học thế giới ” [51]
Nguyễn Thị Xuân Dung khi Bàn về vấn đề dục vọng trong tiểu thuyết
Việt Nam về chiến tranh từ 1986-1996, đã nhận xét: “Trong tiểu thuyết chiến
tranh từ 1986-1996 ta thấy hầu như tác phẩm nào cũng đề cập đến truyện bản


5
năng, tình yêu- dục vọng của con người và thể hiện nó một cách tự nhiên,
chân thật. Điều đó càng phản ánh một cách rõ hơn bộ mặt trần trụi của chiến
tranh và số phận khốc liệt của con người trong hiện thực tàn bạo ấy, qua đó
hợp lí hóa đời sống bản năng của con người, đề cao nó trong một tinh thần
nhân văn cao đẹp; lên án, phê phán chiến tranh là một thế lực phi nhân tính đã
tước đoạt cướp mất của con người quyền được sống với những nhu cầu bình
thường và thiết yếu của họ” [8]
Với Sương Nguyệt Minh, đây là lẩn đẩu tiên ông thử sức ở lĩnh vực
tiểu thuyết và ông đã sáng tạo nên Miền hoang qua những trải nghiệm thực tế
khi là người lính tại chiến trường Campuchia. Những kí ức về nó đã làm sống

dậy cuộc chiến vì nước bạn Campuchia và sản sinh ra Miền hoang - tác phẩm
về đề tài chiến tranh và bản năng sống của con người.
Như vậy, nhìn tổng quan, tuy đã được đề cập đến một số khía cạnh,
trong đó có những khía cạnh rất cơ bản, Chiến tranh và bản năng sống của
con người trong tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh vẫn còn là
một vấn đề đầy thử thách, cần được tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chiến tranh và bản năng sống của
con người qua tiểu thuyết Miền hoang - tiểu thuyết mới nhất của Sương
Nguyệt Minh, xuất bản năm 2014. Tác phẩm đoạt giải Sách hay 2015.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn khảo sát toàn diện cuốn tiểu thuyết Miền hoang dày 631 trang
của Sương Nguyệt Minh, do nhà xuất bản Trẻ ấn hành và một số truyện ngắn
của ơng. Ngồi ra, để có thêm tư liệu đối sánh, luận văn còn khảo sát các tác
phẩm nổi tiếng khác viết về đề tài chiến tranh của các tác giả như Bảo Ninh
(với Nỗi buồn chiến tranh), Chu Lai (với Ăn mày dĩ vãng), Trần Văn Tuấn
(với Rừng thiêng nước trong), Đình Kính (với Sóng chìm)...


6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu cách tiếp cận, thể hiện đề tài chiến tranh từ góc nhìn nhân bản
của tác giả Sương Nguyệt Minh, cũng là của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Tìm hiểu dịng chảy của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh từ
Đổi mới đến nay.
4.2.2. Phân tích góc nhìn nhân bản của tác giả Sương Nguyệt Minh qua
tiểu thuyết Miền hoang khi khám phá, soi tỏ vấn đề bản năng sống của con

người được bộc lộ trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh. Đồng thời
khái quát điều cốt lõi và dấu ấn sáng tạo trong cách nhìn từ than phận con
người của Sương Nguyệt Minh.
4.2.3. Phân tích, đánh giá những cách tân nghệ thuật của Sương Nguyệt
Minh ở tiểu thuyết Miền hoang nhằm thể hiện vấn đề chiến tranh và bản năng
sống của con người qua các phương diện như kết cấu, lựa chọn điểm nhìn,
xây dựng nhân vật và tổ chức ngôn ngữ, giọng điệu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, chúng tôi đặc biệt chú ý sử
dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp tiểu sử
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện vấn đề chiến tranh và
bản năng sống của con người được thể hiện trong tiểu thuyết Miền hoang của
Sương Nguyệt Minh.


7
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Miền hoang của Sương Nguyệt Minh trong mạch tiểu thuyết
viết về đề tài chiến tranh từ Đổi mới đến nay.
Chương 2: Quan hệ hai chiều giữa chiến tranh và bản năng sống của
con người trong tiểu thuyết Miền hoang
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện vấn đề chiến tranh và bản năng sống

của con người trong tiểu thuyết Miền hoang


8
Chƣơng 1
MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH
TRONG MẠCH TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
1.1. Khái lƣợc những xu hƣớng tìm tịi của tiểu thuyết về đề tài
chiến tranh từ sau Đổi mới
Nhà lý luận, phê bình Bùi Việt Thắng đánh giá: “Nhìn tổng thể bức
tranh văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX thì văn học về đề tài chiến tranh
vẫn là cái cịn lại đáng để nói với hậu thế và bạn bè quốc tế. Nếu có niềm tự
hào nào về văn học dân tộc thời hiện đại thì đó là văn học về đề tài chiến
tranh, nơi đã vun đắp và gìn giữ lý tưởng sống cao cả của con người Việt
Nam. Tiểu thuyết, vẫn nằm trong quỹ đạo phản ánh hiện thực nhưng có đổi
mới so với truyền thống. Đó là sự phản ánh từ hiện thực “cần có” sang hiện
thực “đang có”, từ hiện thực lư ng cực sang hiện thực đa cực. Văn chương
nước nhà bước đầu hoà vào dịng chảy văn chương thế giới”.
1.1.1. Xốy sâu vào số phận con người
Trên phương diện đề tài, tiểu thuyết có thể nói là đã tiếp cận và khai
thác sâu hơn về hiện thực hằng ngày, đời sống cá nhân mà ở đó các nhà văn
đã dám nhìn thẳng, dám nhìn thật vào cuộc sống thời bình với những mảnh
v , những bi kịch của cuộc sống nhiều đổi thay. Từ đó mổ xẻ và phơi bày một
cách rõ nét qua cái nhìn đầy khách quan và đa chiều.
Tiểu thuyết thời Đổi mới thể hiện một lối tư duy đa chiều về con người,
về số phận cá nhân. Con người trong trạng thái động, tính cách phong phú,
được miêu tả trên nhiều phương diện, nhiều cung bậc.Trong quan niệm mới
về thể loại, những số phận, những tâm lý cá nhân được đi sâu khai thác triệt
để cả đến những mảng tâm tư. Lối viết mới đề cao yếu tố cảm nhận, sáng tạo



9
cá nhân tạo dựng những tính cách đa dạng theo chiều sâu. Một thế hệ nhân vật
mới trong tiểu thuyết đương đại tính cách đa dạng hơn trước, bản thể tâm linh
và tính dục được miêu tả đầy đặn khơng cịn rụt rè hoặc khơ cứng. Con người
được nhìn nhận trong mối quan hệ với môi trường nhỏ xung quanh và hồn
cảnh riêng của nó, cái được nhà văn nhấn mạnh là tính cách, số phận cá nhân.
Tác phẩm Ăn mày dĩ vãng là một tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
nhưng nó phơ bày hết mọi mặt của cuộc sống từ cuộc chiến đẫm máu đến tình
yêu đầy lãng mạn thời chiến khốc liệt rồi đến ngay cả những nghịch lí, mặt
trái của cuộc sống sau chiến tranh. Tất cả số phận của mỗi con người đều
được đi sâu miêu tả, thể hiện. Sau khi chiến tranh kết thúc, thời cuộc thay đổi,
con người cũng thay đổi. Mỗi người lính về từ mặt trận dù nguyên ven hay
mất di một phần của cơ thể thì họ cũng là những nhân chứng sống xác thực
cho một cuộc chiến mang tính lịch sử. Với Chu Lai tiểu thuyết viết về đề tài
chiến tranh là những mảnh ghép của cuộc chiến đầy đau thương nhưng cũng
đầy cao đẹp. Những con người trong cuộc chiến bước ra ngồi đời thực khơng
tránh khỏi những ng ngàng, thiếu sự thích nghi và do đó gặp nhiều bi kịch.
Trong cuộc chiến đấu, họ không màng đến tính mạng của mình, tất cả chỉ vì
độc lập của dân tộc. Ấy vậy mà họ lại có thể trở thành những kẻ đục nước thả
câu trong thời bình.
Có thể coi Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu là bước đột phá của tiểu
thuyết Đổi mới. Nó có ý nghĩa như là một sự mở đầu mới. Tiểu thuyết của Lê
Lựu thấm đượm nhiệt hứng nhận thức lại thực tại về sau trở thành một
khuynh hướng quan trọng của văn học đương đại, được viết theo tinh thần của
“cái bi kịch”. Giang Minh Sài là một nhân vật bi kịch, bi kịch của sự ngộ
nhận, đánh mất bản ngã. Bi kịch của kẻ nô lệ sống theo sự dẫn dắt của người
khác. Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn
Lê Lựu. Tác phẩm ôm chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30 năm



10
oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng tồn bộ đất nước,
lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của anh nông dân
Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dịng họ.
Nhưng cũng chính niềm tự hào đó đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vơ
hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung
quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì
để tránh cái án kỷ luật làm ơ nhục danh tiếng gia đình.... Là một người lính
với vẻ ngồi thơ mộc, khơ khan nhưng thục chất bên trong con người Sài lại
là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm
xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm cịn có nhiều tầng nhiều lớp với
nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả. Thời xa vắng là câu chuyện về
bi kịch của Giang Minh Sài. Động cơ đi chiến đấu của Sài không chỉ là khát
vọng lập chiến công, giành độc lập, tự do cho đất nước (như người anh hùng
trước 1975) mà còn là chạy trốn bi kịch của mình, chạy trốn người vợ mà anh
không thể đội trời chung (đây gần như là ngun nhân chính). Rõ ràng, cách
nhìn nhận, đánh giá nhân vật của Lê Lựu đã khác. Ở nhân vật Giang Minh
Sài, trong cái chung đã có cái riêng. Tuy nhiên, cái riêng luôn bị lấn át, luôn
bị cái chung vô hình đè bẹp. Do đó, cả cuộc đời Sài sống trong bi kịch: ln
sống hộ người khác. Nhìn thẳng vào những sai lầm, ấu trĩ, những định kiến
hẹp hòi đã trói buộc con người, Thời xa vắng là một tiếng nói mạnh mẽ, bộc
trực và đáng quý về khát vọng hạnh phúc cá nhân.
Nỗi buồn chiến tranh viết về cuộc đời một chiến binh với những hồi
khứ đứt đoạn hay liên tục, là ánh hồi quang chiếu xuống những đoạn đời. Là
khúc thương ca, tâm ca, tình ca thơ mộng, tuyệt diệu và tuyệt vọng, hãi hùng
và bi thảm; quyến luyện thực tại và ảo giác, cuộc sống và cõi chết, quá khứ và
vị lai. Trong những tiểu thuyết viết về cuộc chiến 20 năm, phát xuất từ những
nhân chứng phía Nam hay phía Bắc, đây là tác phẩm xâu sa, đớn đau, tàn



11
khốc, bi quan và cũng lạc quan hơn cả. Truyện viết về đời Kiên, người bộ đội
thuộc cánh quân trinh sát, trong mười năm chiến tranh và mười năm hòa bình.
Kiên xuất thân từ một gia đình trí thức tiểu tư sản miền Bắc. Cha là họa sĩ,
một họa sĩ phạm "tội đồ", bị chối bỏ, người ta phê phán tranh ông thể hiện
những chân dung ma quỷ. Người họa sĩ đó, lạc lồi giữa xã hội người, đành
hội nhập vào xã hội không người, xã hội yêu ma "siêu thực" của những nhân
vật bi thảm trong tranh, đắm chìm trong thế giới ảo giác và sau cùng, đã tiêu
hủy toàn bộ sáng tác trước khi từ giã cõi đời, để được cùng những đứa con
tinh thần của mình bước sang cõi khác.
Từ tiểu thuyết của Dương Hướng, những Nguyễn Vạn, những Nghĩa…
đã bước lên màn ảnh với đủ cơ cực, đắng cay của số phận người lính bước ra
cuộc chiến. Họ cơ độc trên chính mảnh đất, với chính những con người họ đã
từng đổ máu để bảo vệ. Vì những hủ tục, những lề thói đã tồn tại cả trăm năm
ấy, Nguyễn Vạn không dám sống thật với mình. Ý thức mãnh liệt nhất trong
anh là… “giữ gìn hình ảnh”. Anh khơng thể vượt qua dư luận để… yêu, để
được sống như một người bình thường với mưu cầu bình thường nhất về hạnh
phúc. Nguyễn Vạn sống trong sự kìm nén bất hạnh. Anh khơng dám đến với
chị Nhân dù bản năng thôi thúc. Chị Nhân cũng không thể đến với Nguyễn
Vạn, chị không thể đến với bất kỳ ai, lý do chỉ vì… chị là vợ liệt sỹ. Chồng
hy sinh khi chị Nhân còn quá trẻ. Chị ở vậy thờ chồng, nuôi con. Chỉ một lần
nghĩ về Nguyễn Vạn, chị Nhân đã day dứt không thôi, chị sẽ sống ra sao nếu
xóm làng biết chuyện? Đã có thời như thế, những lề thói cổ hủ nghiệt ngã giết
chết những mưu cầu hạnh phúc giản đơn nhất của con người. Song song với
cuộc đời của Nguyễn Vạn là tình yêu bất hạnh của Nghĩa và Hạnh. Cuộc
chiến đã cướp đi những người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng của làng quê.
Chỉ để lại sau lũy tre những người đàn bà mịn mỏi vì chờ đợi. Chỉ để lại trên
bến nước mỗi chiều những người phụ nữ, già có, trẻ có, ngồi bên nhau lặng



12
thinh… Cuộc chiến đã cướp Nghĩa ra khỏi tay Hạnh. Cuộc chiến để lại những
cuộc tình duyên cay đắng cho những thiếu nữ xinh đẹp như Cúc, như Thắm…
Một đứa con thụ thai vội vã. Một lễ cưới vá víu với người đàn ông bị tâm
thần. Hay, một anh chàng thợ ảnh hèn hạ, sở khanh, bỗng trở nên đắt giá ở
làng quê… Những số phận ấy đã góp thêm sự thê lương, buồn thảm cho bức
tranh ở Bến không chồng thời hậu chiến.
Khám phá đời sống muôn màu, muôn vẻ trong cái hàng ngày, trong
quan hệ thế sự - đời tư, tiểu thuyết thời kì Đổi mới đã tạo nên sức thuyết phục
với độc giả. Những biến cố, sự kiện khơng cịn là trung tâm chú ý mà chỉ là
đường viền cho số phận nhân vật. Những câu chuyện hàng ngày, những cảnh
ngộ bình thường, những quan hệ nhân sinh phức tạp, rối rắm, những khát
khao tự nhiên và bản năng nhất của con người… đều được soi chiếu trên trang
viết. Từ đó, nhà văn tìm đến, chắt chiu từng vẻ đẹp tâm hồn con người, hướng
con người tới cái đẹp, cái thiện. Viết về cái hàng ngày, về con người như nó
đã và đang tồn tại, tiểu thuyết đã trở thành những mảng hiện thực sinh động,
giàu sức sống dù là viết về việc đan xen giữa chiến tranh và thời bình. Hướng
về các vấn đề thế sự - đời tư, tiểu thuyết thể hiện sự phong phú, đa dạng trong
các phạm trù thẩm mĩ (cái cao cả/ thấp hèn, cái hài/ cái bi, cái xấu/ cái đẹp,
cái thiện/ cái ác...) sự đa dạng trong mơ típ, chủ đề (mơ típ chủ đề thiện/ ác,
chủ đề sám hối, tự thú, mơ típ cơ đơn.
Đáp ứng u cầu nhìn thẳng vào sự thật của vấn đề, nhiều nhà văn đã
nhìn lại hiện thực đã qua và phơi bày nhiều mặt trái còn bị khuất lấp, lên án
những con người lỗi thời nhưng ln lấy hình thức để che đậy và cản trở sự
phát triển của cái mới. Chiến tranh là đề tài khơng mới nhưng cũng được nhìn
nhận lại một cách thỏa đáng. Bởi lẽ nó có sự tác động vơ cùng lớn đối với tính
cách và số phận con người. Những bi kịch những nỗi buồn triền miên với bao
nỗi éo le, bi kịch lại hiện diện (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh). Hay sự



13
khủng hoảng của xã hội khi mà những giá trị thay đổi, lối sống được đem ra
để mổ xẻ. Những bức tranh hiện thực được phơi bày với gam màu tối sáng
trộn lẫn nhau với bao điều xót xa và những bức bối, nhức nhối mà tác giả gửi
gắm vào tác phẩm. Tất cả những điều đó như muốn thức tỉnh người đọc nói
riêng và con người nói chung để có thể vượt qua một giai đoạn khó khăn đầy
biến động và phức tạp.
Tiếp tục hướng tiếp cận cuộc sống, xã hội trên bình diện thế sự, đời tư
đã được mở ra ở nhiều nhà văn khi đã thể hiện thành cơng mọi góc khuất,
khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan xen, chồng chéo
nhau để tạo nên một cuộc sống đời thường nhưng đầy phức tạp và biến động.
1.1.2. Gia tăng tính triết luận
Văn học viết về đề tài chiến tranh từ sau Đổi mới đặc biệt là tiểu thuyết
thì những vấn đề về triết lí cuộc đời, quy luật cuộc sống được gia tăng mới
mức độ và tần suất ngày càng nhiều. Điều đó địi hỏi sự suy ngẫm và trải
nghiệm của chính nhà văn và độc giả. Bởi thế đề tài chiến tranh chưa bao giờ
là cũ, nó vẫn là đề tài chiến tranh nhưng với cách nhìn nhận và đánh giá dưới
góc nhìn khác.
Trước thực tại cịn ngổn ngang bề bộn, trước hiện thực cuộc sống còn
nhiều phức tạp, đa đoan, khi con người ý thức sâu sắc về bản thân và nhà văn
ý thức về cá tính sáng tạo thì chiêm nghiệm, triết lý là nhu cầu khơng thể
thiếu của tiểu thuyết giai đoạn này. Cảm hứng triết luận chính là chiều sâu của
văn học. “Cảm hứng triết luận là cái nhìn mang tính triết lý, thể hiện bằng
nhiệt tình tranh biện, bàn luận của nhà văn về những vấn đề nhân sinh, xã hội
nhằm hướng tới các quy luật phổ quát” [64].
Cảm hứng triết luận trở nên đậm đặc trong tiểu thuyết sau 1975 bởi sự
vận động của lịch sử, văn học; bởi nhu cầu đổi mới và khơng khí dân chủ của
văn học. Sau 1975, nhiều tác phẩm được viết theo kiểu luận đề với các nhân



14
vật tư tưởng, để truyền tải một thông điệp nào đó. Có thể là những trăn trở của
nhà văn về cuộc đời. Đó là mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân và xã hội, mối quan hệ trong chính bản thân con người: mâu thuẫn
giữa lý tưởng và hiện tại, giữa danh và thực,… hay triết luận về nghệ thuật
như mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, lý tưởng và nghệ thuật, nhà văn
và cuộc sống… Nhà văn dùng ngơn ngữ, hình tượng để gửi gắm triết luận của
mình. Những triết luận ấy làm nên chiều sâu của tác phẩm văn học, làm nên
chất văn chương nghệ thuật của văn học đích thực, làm cho người đọc tự soi
ngắm mình trong các nhân vật văn học.
Nhà văn chính luận, triết luận bằng hình tượng nhân vật. Trong văn
xuôi thời kỳ hậu chiến, nhân vật thường là những con người suy tư, hay triết
lý. Nhân vật của Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu,
Ma Văn Kháng,... đều là những con người nặng ưu tư, thích khái quát triết
lý, biện luận. Kiểu nhân vật trí thức, nghệ sĩ xuất hiện khá nhiều trong văn
xi 1975-1985.
Tính chính luận đã trở thành một nét phong cách nghệ thuật của nhà
văn Nguyễn Khải. “Nguyễn Khải khơng có ý định làm người đọc đắm chìm
trong cảm xúc, mê muội đi về tình cảm mà chú ý đánh thức trí tuệ của họ”
[50, 89]. Với cách viết hiện thực tỉnh táo, tác phẩm Nguyễn Khải hấp dẫn
người đọc bởi sức thuyết phục của lý lẽ. Tác phẩm của Nguyễn Khải phản
ánh những cuộc xung đột gay gắt, nảy lửa giữa tôn giáo và đội lốt tôn giáo,
giữa các kiểu tư duy khác nhau của các thế hệ, giữa các cá nhân trong quan hệ
gia đình, giữa con người và xã hội... Nếu trước 1975, chất chính luận ấy gắn
liền với những vấn đề chính trị thời sự, với lối hơ hào có phần khẩu hiệu, phải
có “Tầm nhìn xa”, “Hãy đi xa hơn nữa”… thì sau 1975, chất chính luận ấy
đã chuyển thành cảm hứng triết luận gắn với các vấn đề thế sự, nhuần nhuyễn
hơn, đằm thắm và sâu sắc hơn. Gặp gỡ cuối năm là triết luận về “mối tương



15
quan giữa sức mạnh của tất yếu và sự lựa chọn” [50, 333], hành động thừa
nhận của nhân vật thủ cựu - bà Hoàng là sự khẳng định, bênh vực mạnh mẽ
cuộc đời mới; Thời gian của người là triết luận “về thời gian, con người và
lịch sử” [52, 354], về cách sống... Trong tiểu thuyết Nguyễn Khải xuất hiện
kiểu người kể chuyện “triết gia”, dẫu ở vai nào cũng là những người thích nói
lý, thích đối thoại. Giọng kể của kiểu người kể chuyện này có khuynh hướng
tranh biện là tự tranh biện hoặc tổ chức tranh biện, đúc kết vấn đề theo quan
điểm cá nhân.
Như vậy khuynh hướng triết luận, giọng điệu triết lý cũng trở thành
một đặc điểm nổi bật, một giọng chủ với nhiều sắc thái, cung bậc trong tiểu
thuyết của các nhà văn sau này.
1.1.3. Áp dụng thước đo nhân bản để đánh giá con người và sự kiện
Điều nổi bật trước tiên trong các tác phẩm theo khuynh hướng mới là sự
đổi thay đáng kể về cách nhìn thế giới và con người Hiện thực có nhiều thay
đổi đa dạng và cũng phức tạp hơn, con mắt nhìn của nhà văn cũng khơng giữ
ngun nếp cũ, thay bằng lối cảm nhận biện chứng mới về sự đổi thay của
những trật tự, sự đảo lộn các thang bảng giá trị đời sống, cả sự khủng hoảng
niềm tin và tình trạng bất an của con người trước những thay đổi lớn của thời
đại... Một nhân vật trong tác phẩm của một tác giả trẻ đã thổ lộ: “Vài trăm năm
sau, khi con cháu chúng ta nhìn lại cái thời đại này ch ng biết chúng nó s
cười hay khóc hay cả hai” (Phan An - Qu n quanh trong tổ). Các tác giả với tư
cách chủ thể sáng tạo, thấu triệt một cách nhìn thế giới đầy tính khám phá, thế
giới khơng phải nhất thể về bản chất và hiện tượng, luôn phát triển theo chiều
thuận, mà thế giới chứa nhiều nghịch lý, nhiều mâu thuẫn, xung đột, trong đó
con người khơng là một hiện hữu “lập trình s n”. Con người đương đại nhận
thức thế giới cũng không phải bằng cách sao chụp đơn giản và đồng nhất. Mỗi
người có thể chiêm nghiệm thế giới ở nhiều cấp độ khác nhau, có thể bị chi



16
phối cùng lúc bởi nhiều hệ quy chiếu khác nhau. Với từng hệ quy chiếu con
người có một bản thể riêng Hay nói một cách khác con người đương đại “đa
nhân cách” vì bản thể chỉ xác định trong từng hoàn cảnh liên quan.
n chứa một quan niệm triết - mỹ như vậy, chúng ta có thể tìm ra nhiều
dẫn chứng về các m u nhân vật tương quan ở các tiểu thuyết của Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Quang Thân, Trần Thuỳ Mai, Y Ban, Võ Thị
Xuân Hà, Sương Nguyệt Minh... Cuộc sống luôn chứa đựng những mầm
mống của sự phân hoá, các tác giả khơng loại trừ những nhân vật tội lỗi, tha
hố, những “cái ác”, bên cạnh, những nhân vật chính diện tích cực thời kỳ này
cũng khơng phải vắng bóng nhưng ít thành công như thời kỳ trước, đa phần
thành công là những nhân vật tuy sống trong một bối cảnh khắc nghiệt, cam
go, những số phận có thể là nạn nhân nhưng không đánh mất bản ngã. Một
nhân vật trong tiểu thuyết Trăng vỡ (Đức Ban) đã thốt lên: Bom đạn thằng M
nó khủng khiếp nó làm cho con người thương tật đui qu , thấy r ràng Đằng
này người ta làm cho anh bị thương nhưng không thấy người ta đâu... Những
vết thương tinh thần không thấy rõ đối phương, con người trăn trở vật vã để
vượt qua, trước hết để vượt qua mình. Con người khơng thuần nhất, đầy tâm
trạng trong cuộc vận động mưu sinh để sống chứ khơng chỉ tồn tại, hồn cảnh
sống khắc nghiệt, cạm bẫy rình rập, đời sống của họ - một đồ thị hình sin cách
quãng, vấp ngã, chao đảo, phân ly, nhưng ánh sáng thiên lương vẫn không hề
bị dập tắt, dẫu “trầy trật” trên mỗi bước đi, luôn “tự vấn” hướng về chân lý và
điều thiện Về phía ngược sáng, xuất hiện các nhân vật phản diện trong quá
khứ, những kẻ ở thế giới đối lập, được thể hiện trong một cảm quan đầy tính
nhân văn: là kẻ địch, kẻ xấu nhưng xấu trong cái bản thể “người” chứ khơng
hồn tồn thuộc thế giới “vơ nhân tính”, với cộng đồng khơng đứt hẳn có thể
hồn lương trong một hồn cảnh sống mới.



17
Chỉ có cái nhìn nhân bản mới giúp chúng ta thấu hiểu và đánh giá một
cách khách quan về nhân vật và sự kiện trong tác phẩm, bởi lẽ ở mỗi con
người đều có mặt tốt và mặt xấu, những điều xảy ra xung quanh ta chưa chắc
đã trùng khớp với những gì ta thấy. Bởi vậy cuộc sống mn màu, mn vẻ
và chỉ có cái nhìn tỉnh táo mang tính nhân văn sâu sắc mới có thể cảm thơng
và chia sẻ được điều đó. Chú ý đến đời tư, đào sâu vào thế giới tâm hồn con
người với những vấn đề đạo đức nhân cách, tiểu thuyết thời kì đổi mới đã thể
hiện thiên chức của văn học: hướng con người tới chân, thiện, mĩ. Cảm hứng
đạo đức đôi khi cịn bộc lộ khá rõ, việc miêu tả tính cách, nội tâm nhân vật,
con người chưa được khai thác ở những chiều sâu thể hiện con người đạo đức
là một sáng tạo nghệ thuật đáng ghi nhận trong văn học.
Khuynh hướng thế sự - đời tư xuất hiện chủ yếu trong văn học từ đầu
thập kỉ tám mươi, khi các vấn đề của đời sống hàng ngày và vấn đề đạo đức,
nhân cách con người trở thành đối tượng khám phá chính của văn học. Nhu
cầu nhận thức mới xuất hiện, mọi vấn đề trong quá khứ, những bất cập của
hiện tại... đều được nhìn nhận bằng cảm hứng nghiên cứu, phân tích. Con
người được soi ngắm bằng thước đo nhân bản trong q trình vươn tới và
hồn thiện nhân cách.
1.2. Đề cập vấn đề bản năng sống của con ngƣời - một nỗ lực thế
tục hóa đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau Đổi mới
1.2.1. Một số giới thuyết
Thông thường người ta vẫn cho rằng bản năng là mặt xấu, thuần “động
vật”, phần “con” trong con người vì thế nó ít được đề cập tới, thậm chí khi
đưa vào sáng tác văn học còn bị phê phán.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: bản năng con người là khả năng vốn có
do bẩm sinh, chứ khơng phải do kinh nghiệm, luyện tập. Như vậy bản năng là
yếu tố thuộc mặt tự nhiên của con người. Nó tồn tại bên trong con người nên



18
văn học phủ nhận nó là trái với tự nhiên. Đã một thời gian dài, văn học Việt
Nam dồn hết bút lực tô đậm vẻ thánh thiện cho con người mà quên đi rằng
trong mỗi người luôn tồn tại hai mặt song song: vô thức thuộc về bản năng và
ý thức thuộc về xã hội.
Nếu trước đây đời sống bản năng chưa được nhìn nhận, xem xét và
phản ánh thấu đáo thì cuối thể kỷ XX cùng với sự khẳng định chỗ đứng của
Phân tâm học, Thuyết trực giác, và phong trào triết học Hiện sinh ở phương
Tây thì vấn đề bản năng, vơ thức của con người được nhìn nhận như một chủ
đề nghiêm túc. Người ta cho rằng đời sống bản năng, vơ thức của con người
là có thật, khơng những thế mà cịn chi phối mạnh mẽ đến nhiều hành động,
suy nghĩ, khát vọng, ước mơ của con người. Bởi vậy, văn học đương đại đã
bắt đầu chú ý và đi vào khai thác đời sống bản năng, vơ thức, qua đó mà
khám phá đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của con người.
Theo Phân tâm học, từ tuổi thiếu niên đến tuổi trưởng thành, dục năng
được thể hiện qua tính dục khác giới. Khi hai cơ thể khác giới có sự tiếp xúc
về mặt thân xác, có thể tạo ra những khối cảm nhất định. Đó chính là cái bản
năng tính dục của con người
Như vậy con người bản năng trở thành thứ ngôn ngữ, một chìa khố
giúp nhiều tác giả đi sâu vào ngõ ngách, vào khu rừng bí hiểm nhất của con
người - thế giới tâm linh và vô thức. Một thế giới vô cùng quan trọng trong
đời sống con người. Đôi khi chúng ta ngại nói đến nó vì nó mà con người
khơng thánh thiện, vì nó mà mất vẻ uy nghi, đường hồng. Nhưng khơng có
nó chưa phải là một con người thực sự.
1.2.2. Sự vượt qua những rào cản, cấm kỵ
Trước năm 1975, hiện thực chiến tranh mang đến cho văn học một diện
mạo riêng, với vai trò và sứ mạng riêng. Trong dòng chảy của văn học cách
mạng, con người qn đi chính mình để tìm đến những cái lớn lao, cao đẹp.



19
Những khát khao thầm kín bị đè nén bởi lẽ giây phút giành giật giữa sự sống
và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc thì họ phải vứt bỏ tất cả để đến với
một cái gì thật cách mạng. Ngay cả tình u đơi lứa cũng gắn liền với tình u
nước thiêng liêng. Thời chiến người ta ngại nói về mình. Họ muốn hóa thân
vào những điều lớn lao, vĩ đại, muốn làm tất cả, thậm chí là hiến dân mình
cho đất nước. Tình u có thể bắt nguồn từ niềm tin, lí tưởng, từ lẽ sống, có
khi chỉ là tin tưởng nhau, ngư ng mộ nhau. Như vậy tình u thời chiến phải
gắn liền với lí tưởng. Con người bản năng hầu như vắng bóng. Họ chưa bao
giờ sống cho mình, nghĩ cho mình mà là cho cái chung của đất nước. Và như
vậy sống là cho đã trở thành một nguyên tắc sống của thời chiến. Lẽ dĩ nhiên
văn học giai đoạn lúc bấy giờ cũng tránh và khơng bao giờ nói đến như cầu cá
nhân hay bản năng sinh tồn trong chiến tranh.
Minh chứng cho điều đó là tác phẩm Hịn Đất của Anh Đức. Chuyện
xảy ra vào đầu năm 1961 tại Hòn Đất. Đội du kích xã ở nơi đây đã rút lui vào
hang Hịn trong một trận chống càn quyết liệt. Đội có tất cả 17 người với vũ
khí thơ sơ. Mặc dù đối phương đông gắp nhiều lần, được trang bị đầy đủ, vũ
khí hiện đại và dùng nhiều giải pháp, như: bỏ thuốc độc vào nước suối, chặn
mọi đường tiếp tế, dùng thuốc nổ phá hang, hun khói vào hang... nhưng đội
du kích kiên trì chống trả nhiều lần và kiên cường sống chết ở nơi đó. Trong
cuộc chiến đấu gay go, chênh lệch này, trong đội du kích nổi bật có Hai Thép
- người chỉ huy - sáng suốt, giàu nghị lực. Ngạn, một chiến sĩ dũng cảm,
thông minh. Ba Rèn, người nông dân chất phác, trung kiên. Quyên, cô du kích
trẻ đẹp người, đẹp nết. Vượt trội hơn cả là chị Sứ, một nữ du kích có nhiều
đức tính cao quý, như: đằm thắm, bất khuất, ngoan ngoãn... Cuối cùng, chi Sứ
hy sinh vì sự sống của đồng đội và vì lý tưởng mà chị nguyện suốt đời đeo
đuổi. Là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học chống Mỹ, ở vùng giải
phóng miền Nam, tác phẩm Hịn Đất đã phản ảnh kịp thời hiện thực cách



20
mạng miền Nam trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt. Tác giả vừa nêu được
những phẩm chất tiêu biểu của người chiến sĩ giải phóng miền Nam, vừa mơ
tả được tính cách của con người Nam Bộ: nghĩa khí, bộc trực, nhân ái... Ngoài
ra, tác giả cũng rất chú trọng mô tả chiều sâu nội tâm của nhân vật: tâm trạng
bi kịch của bà Cà Sợi, sự thức tỉnh của hạ sĩ Cơ, nỗi quặn đau cùng lòng tự
hào của má Sáu, sự hoang mang của thiếu tá Sằng sau khi đã trổ hết mưu
kế… Đặc biệt, tác giả đã dành nhiều cơng sức, tình cảm để đi sâu, làm rõ vẻ
đẹp tâm hồn của chị Sứ: thương mẹ, yêu chồng con, ln lo lắng đến đồng
chí, đồng bào ngay cả khi cận kề cái chết.
Con người bản năng phải ẩn nấp sau một cuộc chiến tranh vĩ đại, những
khao khát bản năng khơng có lí do để tồn tại trong giai đoạn văn học trước
1975 thì đến sau 1975 mọi cảm xúc, mọi ẩn ức như được giải tỏa và tuôn trào
một cách tự nhiên. Đặc biệt từ sau 1986, yếu tố tự nhiên và bản thể con người
được các nhà văn tìm tịi, đào sâu và khắc họa rõ nét như một nhu cầu tất yếu
của quy luật cuộc sống, quy luật văn học. Bởi lẽ đôi lúc con người phải đè
nén, cố giấu mình nhưng đến một lúc nào đó thì bản năng con người trỗi dậy
có thể vứt bỏ tất cả để hành động theo bản năng. Con người xã hội, con người
được nhà văn tập trung phản ánh thì bên cạnh đó tình u và tình dục lại trở
thành đề tài khơng thể khơng nhắc đến khi nói về bàn năng con người. Như
vậy những rào cản, những điều cấm kị trong giai đoạn văn học trước đã được
phá v hay nói đúng hơn là sự vượt qua một cách nhanh chóng tạo một tiền
đề mới trong sáng tạo văn học. Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai hay Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh là những quyển tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
nhưng cũng mang đến một làn gió mới khi khám phá những con người trong
chiến tranh với những bản năng sống với những khát khao vô cùng đời
thường. Những con người được khai thác đến tận cùng những nỗi đau, những
mất mát và cả những tha hóa.



×