1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HẢI
VĂN XUÔI PHI HƢ CẤU VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
TRONG VĂN HỌC ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN, 2017
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HẢI
VĂN XUÔI PHI HƢ CẤU VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
TRONG VĂN HỌC ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60. 22. 01. 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẠNH
NGHỆ AN, 2017
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 13
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ............................................. 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 14
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 14
Chƣơng 1. PHI HƢ CẤU - MỘT XU HƢỚNGTHỂ HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN
TRANH CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ...................................... 15
1.1. Phi hƣ cấu trong sáng tạo văn học .................................................... 15
1.1.1. Giới thuyết khái niệm ........................................................................ 15
1.1.2. Mối quan hệ hƣ cấu và phi hƣ cấu trong sáng tạo văn học ............... 17
1.1.3. Phi hƣ cấu trong mối quan hệ với thể loại văn học ........................... 22
1.2. Cơ sở cho sự phát triển của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh
trong văn học Việt Nam đƣơng đại .......................................................... 25
1.2.1. Cơng cuộc đổi mới và tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” ................ 25
1.2.2. Độ lùi thời gian và nhu cầu nhận thức lại chiến tranh ...................... 28
1.2.3. Ảnh hƣởng của kinh tế thị trƣờng đến đời sống văn học .................. 31
1.3. Diện mạo của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh trong văn
học Việt Nam đƣơng đại ........................................................................... 34
1.3.1. Đội ngũ nhà văn................................................................................. 34
1.3.2. Hình thức thể loại .............................................................................. 37
1.3.3. Một số tác phẩm tiêu biểu ................................................................. 40
Chƣơng 2. TÍNH CHÂN THỰC - ƢU THẾ NỔI BẬT CỦA VĂN XUÔI PHI HƢ
CẤU VIẾT VỀ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 46
2.1. Cái nhìn trực tiếp, đa chiều về chiến tranh...................................... 46
2.1.1. Cái nhìn trực tiếp về chiến tranh ....................................................... 46
4
2.1.2. Chiến tranh qua cái nhìn của ngƣời lính ........................................... 50
2.1.3. Chiến tranh nhìn từ phía bên kia chiến tuyến.................................... 56
2.2. Tính chân thực của nhân vật, chi tiết và sự kiện ............................. 59
2.2.1. Sự đa dạng của kiểu nhân vật “con ngƣời thực” ............................... 59
2.2.2. Tính chân thực của chi tiết, sự kiện................................................... 63
2.3. Tính chân thực trong mạch ngầm cấu trúc văn bản....................... 68
2.3.1. Tính logic của chi tiết, sự kiện. ......................................................... 68
2.3.2. Tính logic trong thời gian trần thuật.................................................. 70
Chƣơng 3. SỰ LẤN LƢỚT CỦA NGÔN NGỮ THẾ TỤC VÀ GIỌNG TRẦN
THUẬT KHÁCH QUAN TRONG VĂN XUÔI PHI HƢ CẤU VIẾT VỀ CHIẾN
TRANH ......................................................................................................... 74
3.1. Sự lấn lƣớt của ngôn ngữ thế tục ...................................................... 74
3.1.1. Giới thuyết khái niệm ........................................................................ 74
3.1.2. Các kiểu ngôn ngữ phổ biến trong văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến
tranh ............................................................................................................. 75
3.1.3. Ngôn ngữ thế tục - một kiểu ngôn ngữ nổi bật trong văn xuôi phi hƣ
cấu viết về chiến tranh. ................................................................................ 79
3.2. Trần thuật khách quan - sắc thái chủ đạo trong giọng điệu trần
thuật của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh.................................. 85
3.2.1. Giọng điệu và vai trị của giọng điệu trong văn xi tự sự ............... 85
3.2.2. Các sắc thái giọng điệu trong văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh .. 86
3.2.3. Sự lấn lƣớt của giọng điệu khách quan trong văn xuôi phi hƣ cấu viết
về chiến tranh............................................................................................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong thời đại thơng tin và tồn cầu hóa, văn xi phi hƣ cấu
(Non-fiction) ngày càng giữ vai trò quan trọng, tác động nhiều mặt tới độc
giả, không chỉ trong lĩnh vực báo chí mà cả trong đời sống văn học. Giải
Nobel Văn học 2015 trao cho nhà văn Svetlana Alexievich (Belarus) nhằm
tôn vinh "những dòng văn phức điệu" viết về chiến tranh ở thời kỳ cuối của
Liên bang Xô viết là sự thừa nhận mang tính tồn cầu sức hấp dẫn và quyền
năng to lớn của văn xuôi phi hƣ cấu.
1.2. Ở Việt Nam, văn xuôi phi hƣ cấu đã xuất hiện từ thời trung đại,
và phát triển mạnh trong văn học đƣơng đại. Hàng loạt tác phẩm nhƣ: Điện
Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký Đặng Thùy Trâm,
Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, Quân khu Nam Đồng (Bình Ca), Biên bản chiến
tranh 1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh), Nhật ký Vũ Xn, Hồi ức lính (Vũ
Cơng Chiến)... đã ra đời, thu hút sự chú ý của đông đảo ngƣời đọc và giới
nghiên cứu, phê bình văn học.
1.3. Các Giải thƣởng văn học những năm gần đây trao cho các tác
phẩm văn xuôi phi hƣ cấu, nhƣ: Các bạn tôi ở trên ấy của Nguyên Ngọc
(Giải thƣởng văn xuôi, Hội Nhà văn Hà Nội, 2013), Biên bản chiến tranh
1-2-3-4,75 của Trần Mai Hạnh (Giải thƣởng văn xuôi duy nhất của Hội Nhà
văn Việt Nam 2014, Giải thƣởng Văn học ASEAN 2015) phải chăng là sự
thể hiện “quyền năng của tƣ liệu” trong sáng tạo văn chƣơng? Là xu hƣớng
của văn học thị trƣờng?... Đó là những vấn đề lý luận đã đƣợc gợi mở. Tuy
nhiên, cho đến nay, thành tựu nghiên cứu về văn xuôi phi hƣ cấu trong văn
học đƣơng đại Việt Nam chƣa có nhiều.
1.4. Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài Văn xuôi phi
hư cấu viết về chiến tranh trong văn học đương đại Việt Nam làm Luận
văn Thạc sĩ với mong muốn lý giải một số vấn đề lý luận đang đặt ra trong
đời sống văn học đƣơng đại Việt Nam.
2
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu văn xuôi phi hƣ cấu ở Việt Nam
Văn xuôi phi hƣ cấu ở Việt Nam xuất hiện từ thời trung đại, nhƣng
phải đến thập niên 40 của thế kỉ XX mới khẳng định đƣợc vị thế của mình
trong đời sống văn học với sự xuất hiện các tác phẩm thuộc thể ký, nhƣ du
ký, phóng sự, hồi ký. Kể từ năm 1986, khi đất nƣớc bƣớc vào công cuộc
đổi mới, văn học đã có sự đổi thay mạnh mẽ. Khơng khí thời đại, nhu cầu
của ngƣời đọc đã tạo điều kiện cho văn xuôi phi hƣ cấu phát triển. Kể từ
đây, văn học phi hƣ cấu đã thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu
phê bình văn học.
Trong những năm gần đây trên các diễn đàn văn học, khái niệm văn
học phi hƣ cấu (non-fiction) đƣợc nhiều ngƣời nói đến, nhằm khu biệt với
văn học hƣ cấu (fiction). Tuy nhiên, những nghiên cứu về văn học phi hƣ
cấu chƣa có nhiều. Các ý kiến chủ yếu đề cập đến một vài phƣơng diện của
văn học phi hƣ cấu. Trong số đó phải kể đến hai bài viết của Huỳnh Nhƣ
Phƣơng: Văn xuôi phi hư cấu: ranh giới và giao thoa thể loại (Trên cứ liệu
văn học miền Nam 1954-1975) và Sức hấp dẫn của văn xi phi hư cấu.
Trong hai bài viết của mình, Huỳnh Nhƣ Phƣơng khẳng định, trong văn học
Việt Nam có một hình thức văn học phi hƣ cấu tồn tại bên cạnh văn học hƣ
cấu, và chúng có đặc điểm, vị thế riêng. Ông viết: “Trong thời hiện đại,
đồng thời với sự phát triển của các thể loại, giữa văn xuôi hƣ cấu (Fiction)
và văn xi phi hƣ cấu (Non-fiction) có sự giao thoa và ranh giới chỉ là
tƣơng đối. Sự thâm nhập yếu tố phi hƣ cấu vào truyện ngắn hay tiểu thuyết
có thể xuất hiện trên những bình diện khác nhau” [71]. Từ cách nhìn ấy,
ơng đã dẫn giải và phân tích một số thành tựu nổi bật của văn xuôi phi hƣ
cấu ở miền Nam trƣớc 1975, nhƣ: Nhật ký của người chứng (Thái Lãng),
Vịng đai xanh (Ngơ Thế Vinh), Nẻo về của Ý (Nhất Hạnh), Đêm ngủ ở tỉnh
(Hoàng Ngọc Biên). Đặc điểm, ƣu thế của văn học phi hƣ cấu, theo ơng là
ở tính chân thực. Ông viết: “Trong văn bản phi hƣ cấu, ngƣời trần thuật
3
luôn là ngƣời chứng kiến câu chuyện đƣợc kể lại. Đó khơng phải là câu
chuyện đƣợc tƣởng tƣợng mà là những sự kiện, biến cố có thật, có thể đƣợc
kiểm chứng một cách khách quan. Những sự việc và con ngƣời ở đây đều
phải đƣợc xác định rõ ràng về địa chỉ. Sức hấp dẫn mà văn xuôi phi hƣ cấu
đem lại chính là sức hấp dẫn của sự thật. Vì vậy mà ngƣời viết văn phi hƣ
cấu thƣờng có tƣ chất của ngƣời nghiên cứu đi tìm sự thật” [72]. Và theo
ông: “Mở một văn bản phi hƣ cấu ra, độc giả có niềm tin rằng đây là cuộc
đời tự nó lên tiếng và ngƣời trần thuật khơng can thiệp làm méo mó bản
chất của sự kiện”. Mặc dù chƣa đi vào phân tích một cách đầy đủ, thấu đáo
những đặc điểm nổi bật của văn học phi hƣ cấu, song những ý kiến trên đây
của Huỳnh Nhƣ Phƣơng đã gợi mở một số vấn đề để nghĩ tiếp về hình thức
văn học này. Thuộc hình thức văn học phi hƣ cấu, theo Huỳnh Nhƣ
Phƣơng, là các thể ký, nhƣ: hồi ký, nhật ký, du ký, ký sự, phóng sự, tiểu
thuyết tƣ liệu. Ở đó, có sự nhập nhằng về ranh giới giữa văn học và báo chí,
mà rõ nhất là ký sự. Ông viết: “Những thể loại phi hƣ cấu đƣợc phổ biến
rộng rãi trên báo chí trƣớc khi in thành sách là ký sự, phóng sự, hồi ký, bút
ký, nhật ký, tạp bút… Nhiệm vụ của ký sự là trình bày và giải thích những
sự kiện mới và đặc biệt quan trọng nhƣng lúc đầu chƣa đƣợc cơng chúng
chú ý thích đáng. Ký sự ln ở vùng giáp ranh giữa báo chí và văn học, cho
phép văn học nhanh chóng hƣởng ứng những đề tài và vấn đề thời sự của
xã hội và con ngƣời” [72].
Cùng cách nhìn đó, Hồng Bình Phƣơng khi lý giải sự “lên ngôi” của
văn xuôi phi hƣ cấu những năm gần đây, cho rằng: “Ở Việt Nam, thể loại
phi hƣ cấu đã tồn tại ngay trong thời kỳ văn học trung đại, nổi tiếng có thể
kể đến Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Tang thương ngẫu lục của
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ… Đến
thời hiện đại, nhà văn Tơ Hồi xứng đáng đƣợc gọi là bậc thầy văn chƣơng
phi hƣ cấu. Dù Tơ Hồi viết hàng trăm đầu sách chủ yếu là hƣ cấu, thế
nhƣng nhắc đến Tơ Hồi, ngƣời ta nhớ các tác phẩm phi hƣ cấu của ông
4
chẳng kém các tác phẩm hƣ cấu, mà đỉnh cao nhất là cuốn hồi ký Cát bụi
chân ai” [70]. Cũng nhƣ Huỳnh Nhƣ Phƣơng, Hồng Bình Phƣơng cho
rằng, trong sáng tạo nghệ thuật, hƣ cấu hay phi hƣ cấu, đều địi hỏi nhà văn
phải có tài năng, sáng tạo, và khơng thể nói hƣ cấu hay phi hƣ cấu cái nào
quan trong. Ông viết: “Viết hƣ cấu hay phi hƣ cấu đều quan trọng, khơng
thể nói cái nào hơn cái nào. Và theo một cách nghĩ quen thuộc là làm tốt
bất cứ cái gì cũng khó, điều này đúng với việc viết phi hƣ cấu. Phi hƣ
cấu là chuyện thật, nhƣng nếu lấy chuyện thật ra mà kể thật thà nhƣ đếm
đƣơng nhiên sẽ thất bại. Trong tác phẩm phi hƣ cấu cũng cần đến một
giọng điệu để kể cho phù hợp với nội dung tƣơng tự nhƣ hƣ cấu. Tài
năng trong viết phi hƣ cấu của nhà văn cũng phải kể đến việc sắp xếp các
sự kiện có thật để phục vụ mục đích nghệ thuật nhƣ trong tác phẩm hƣ
cấu. Cần nhắc lại rằng, sắp xếp trình tự, kết cấu của sự thật khác với thay
đổi chi tiết của sự thật!” [70].
Không định danh là văn học phi hƣ cấu, song trong nhiều cơng trình
nghiên cứu, bài viết, giáo trình văn học... đều ít nhiều đề cập đến sự tồn tại
và vai trò của văn học phi hƣ cấu khi nói về thể ký trong văn học Việt Nam
hiện đại. Trong Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại của trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội, các tác giả viết: “Trong văn xuôi những năm 90 và vài
năm gần đây, thấy nổi lên hai mảng đáng chú ý: hồi ký - tự truyện và tiểu
thuyết lịch sử. Một loạt hồi ký của các nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động xã
hội đã đem lại cho ngƣời đọc những hiểu biết cụ thể, sinh động và xác thực
về xã hội, lịch sử, về đời sống văn học và gƣơng mặt mọt số nhà văn ở
những thời kì đã qua” [66, 183]. Từ góc nhìn thể loại, Hà Minh Đức khi
bàn về thể ký văn học, đã “dự báo” về sự bùng nổ của thể ký. Ông viết:
“Trong tƣơng lai sẽ có nhiều hồi ký, nhật ký xuất hiện khi ngƣời ta quan
tâm đến cuộc đời riêng của nhiều loại ngƣời vốn có đóng góp hoặc nổi danh
ở một lĩnh vực nào đó” [20, 32]. Là một nhà văn đã có nhiều tác phẩm phi
hƣ cấu thành cơng, Ngun Ngọc đánh giá cao giá trị của những tác phẩm
5
phi hƣ cấu, mà cụ thể là thể loại hồi ký. Trong bài Văn xuôi Việt Nam logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng,
ơng viết: “Từ sau chiến tranh đã có rất nhiều hồi ký, có thể gọi là “hồi ký
của các vị tƣớng”, kể lại chuyện chiến tranh của chính họ và đồng đội họ.
Đôi khi những hồi ký này cung cấp nhiều tƣ liệu lịch sử đáng quý mà chính
sử đã bỏ qua” [59].
Đi sâu bàn về mối quan hệ giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu trong sáng tạo
văn học, Huỳnh Nhƣ Phƣơng, đã chỉ ra ranh giới tƣơng đối giữa hƣ cấu và
phi hƣ cấu. Theo ông, trong văn học hƣ cấu có chứa đựng yếu tố phi hƣ
cấu, và ngƣợc lại. Ông viết: “Trong thời hiện đại, đồng thời với sự phát
triển của các thể loại, giữa văn xuôi hƣ cấu (Fiction) và văn xuôi phi hƣ cấu
(Non-fiction) có sự giao thoa và ranh giới chỉ là tƣơng đối. Sự thâm nhập
yếu tố phi hƣ cấu vào truyện ngắn hay tiểu thuyết có thể xuất hiện trên
những bình diện khác nhau”. Và: “Sự thâm nhập của yếu tố phi hƣ cấu vào
văn bản tác phẩm văn xi, qua những ngịi bút tài năng, có thể đem lại
những tác dụng tích cực. Trƣớc hết nó tăng cƣờng tính chất thơng tin và giá
trị nhận thức của tác phẩm. Có thể nói yếu tố phi hƣ cấu góp phần “giải
hoặc”, mở mắt cho ngƣời đọc trƣớc sự thật bị phơi bày. Nó cũng tiên báo
cho những hệ lụy tất yếu của những hiện tƣợng xã hội đƣợc phân tích với
tinh thần phê phán” [72]. Trong một cố gắng, nhằm phân biệt sự khác nhau
tƣơng đối giữa nhân vật trong văn học phi hƣ cấu và nhân vật trong văn học
hƣ cấu, Nguyễn Thế Hƣng, Lƣơng Ích Cẩn trong bài Bàn thêm về mối quan
hệ giữa người kể và người ghi trong hồi ký, viết: “Nhân vật trong tiểu
thuyết là nhân vật đƣợc xây dựng bằng phƣơng pháp hƣ cấu, khái qt hóa,
điển hình hóa của nhà viết tiểu thuyết; chú ý làm sao cho nhân vật nói đúng
tiếng nói của họ, tiếng nói phù hợp với thời đại họ sống. Nhân vật trong hồi
ký là nhân vật có thật trong quá khứ, vừa là nhân vật có thật trong hiện tại.
Họ khơng hề làm mất tính chân thực của văn học khi dùng ngôn ngữ hiện
đại để thuật lại sự việc đã xảy ra trong dĩ vãng, bởi vì bản thân họ đã là một
6
sự thật tồn tại hiển nhiên rồi” [39, 37]. Phân biệt giữa hƣ cấu trong tiểu
thuyết và hƣ cấu trong ký, Vũ Đức Phúc cho rằng: “Hƣ cấu trong tiểu
thuyết là chọn lọc và khái quát sự thật về nhiều ngƣời để xây dựng một
nhân vật khơng có thật nhƣng tiêu biểu. Hƣ cấu trong hồi ký về một ngƣời
là chọn lọc và khái quát những sự thật về ngƣời đó. Hai lối hƣ cấu trong
văn học hiện thực đều có tính khoa học nhƣ nhau nhƣng cách làm khác
nhau vì đề tài ở hồi ký đƣợc quy định một cách nghiêm ngặt. Nhân vật
trong hồi ký không chỉ đại diện cho một tầng lớp xã hội mà còn là phải hình
ảnh rất chính xác về một ngƣời có thật. Thành thật không bịa đặt là điều
kiện đầu tiên ngƣời ta đòi hỏi ở tƣ cách viết ngƣời viết hồi ký” [68]. Hà
Minh Đức trong Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đã phân biệt sự khác nhau giữa cái tôi trong hồi ký với cái tôi
trong tiểu thuyết-tự truyện. Theo ông: “Ngƣời viết tiểu thuyết-tự truyện
nói về mình, cuộc sống của mình, nhƣng khơng giới hạn trong khn khổ
đó. Họ ln có xu hƣớng mở rộng để nói về cuộc đời chung. Dịng tự
truyện trực tiếp xoay quanh cái tôi luôn đƣợc mở rộng ra hết cảnh ngộ
này đến cảnh ngộ khác, của cuộc đời trực tiếp, gián tiếp có liên hệ đến cái
tôi” [20, 46].
Điểm lại một số ý kiến trên đây, có thể thấy dù chƣa nhiều và chƣa
thật sâu sắc, song nhìn chung các ý kiến đều thống nhất khi khẳng định sự
tồn tại của hình thức văn học phi hƣ cấu trong đời sống văn học. Ranh giới
giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu là hết sức mong manh. Trong thực tế sáng tạo, sự
thẩm nhập giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu đã bổ sung cho nhau, mang đến
những hiệu quả thẩm mỹ đặc sắc cho văn học. Cũng nhƣ văn học hƣ cấu,
văn học phi hƣ cấu cũng địi hỏi ở nhà văn tài năng, cá tính. Nói cách khác,
viết văn học phi hƣ cấu khơng hề đơn giản. Ngồi tài năng sáng tạo, nó địi
hỏi ở ngƣời cầm bút một đạo dức nghề nghiệp trong sáng, mà ở đây là sự
thành thực. Thành thực với ngƣời, với đời, và thành thực với mình. Theo
Huỳnh Nhƣ Phƣơng: “Trong văn học Việt Nam cũng nhƣ thế giới đã từng
7
xuất hiện khơng ít trƣờng hợp những tác phẩm phi hƣ cấu là đề tài tranh
luận của giới sáng tác và phê bình, khi nó viết về những con ngƣời và sự
kiện có thật nhƣng đƣa ra những nhận xét chủ quan và tùy tiện làm tổn
thƣơng không chỉ nhân vật mà cả niềm tin của độc giả” [71].
2.2. Những nghiên cứu về văn xuôi phi hƣ cấu về chiến tranh
trong văn học Việt Nam đƣơng đại
Văn xuôi phi hƣ cấu về chiến tranh đã trở lại trong văn học Việt Nam
đƣơng đại, đặc biệt là trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI. Tuy nhiên,
tình hình nghiên cứu lại chƣa có đƣợc một sự tƣơng thích. Hầu hết các
nghiên cứu mới dừng lại ở những bài báo nhỏ, lẻ bàn về một vài tác phẩm
đang thu hút sự chú ý của đông đảo ngƣời đọc, nhƣ Điện Biên Phủ - điểm
hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Quân khu Nam
Đồng (Bình Ca), Hồi ức lính (Vũ Cơng Chiến), Biên bản chiến tranh 1-2-34.75 (Trần Mai Hạnh).
Trong số những hồi ký của Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ - điểm
hẹn lịch sử là một tác phẩm nổi bật. Tính nổi bật của nó khơng chỉ ở tầm
vóc tƣ tƣởng, mà cịn ở nghệ thuật đặc sắc. Đó là một hồi ký có sự kết hợp
hài hòa giữa lịch sử và văn chƣơng. Những tƣ liệu lịch sử đƣợc thể hiện
bằng một văn chƣơng nghệ thuật vừa tự sự vừa trữ tình. Nói về cuốn hồi
ký, dịch giả Lady Borton, ngƣời đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh viết: “Khi
đọc cuốn sách đó và dịch nó ra tiếng Anh, tôi hiểu cặn kẽ hơn về nguyên
nhân dẫn đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Nó cũng khiến tơi hiểu
đƣợc vì sao ngƣời Mỹ khơng bao giờ thành công trong cuộc chiến tại Việt
Nam” [31]. Từ những góc nhìn khác nhau, mỗi ngƣời đọc có những phát
hiện của riêng mình về sức hấp dẫn của tác phẩm. Nguyễn Văn Hạnh, trong
bài viết Võ Nguyên Giáp qua hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử đã
cho rằng: “Đây là những cơng trình mang tính tổng kết, đƣợc trình bày dƣới
dạng hồi ức của vị Tổng tƣ lệnh tối cao, ngƣời hoạch định chiến lƣợc và
trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn. Độ lùi thời gian, sự phong phú của
8
nguồn tƣ liệu, những trải nghiệm cá nhân sâu sắc, đã mang đến cho các tác
phẩm hồi ký Võ Nguyên Giáp nhiều giá trị đặc sắc” [31]. Sức hấp dẫn của
tác phẩm theo ơng, là ở chỗ: “Tính chân xác của chi tiết, sự kiện lịch sử
đƣợc thể hiện qua một lối viết tinh tế, trữ tình, mang đến cho tác phẩm một
sức hấp dẫn riêng, hiếm gặp ở thể loại hồi ký chiến tranh” [31]. Gần đây,
luận văn thạc sĩ của Nguyễn Đức Xuân đã nghiên cứu đặc điểm hồi ký Võ
Nguyên Giáp. Trong luận văn của mình tác giả đã tiếp cận hồi ký Võ
Nguyên Giáp trên hai phƣơng diện, nội dung và hình thức. Trong đó, Điện
Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử là một trọng tâm khảo sát. Tác giả luận văn đã
đi vào một số phƣơng diên đặc sắc trong nghệ thuật của hồi ký Võ Nguyên
Giáp, nhƣ: mối quan hệ giữa ngƣời kể và ngƣời ghi; nghệ thuật kể chuyện;
kết hợp giữa tự sự và trữ tình; ngơn ngữ... Tuy nhiên, do giới hạn của một
luận văn thạc sĩ, những vấn đề tác giả đặt ra chỉ mới có tính gợi mở.
Bên cạnh hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử của Võ Nguyên
Giáp, nhiều cuốn nhật ký chiến trƣờng, hồi ký, tự truyện, tiểu thuyết tƣ liệu
- lịch sử... ra đời gần đây đã thu hút sự chú ý của đông đảo ngƣời đọc và
giới nghiên cứu, phê bình văn học. Ngay sau khi ra đời hai cuốn Nhật ký
Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc đã trở thành
“hiện tƣợng” trong đời sống văn hóa. Trên báo Tuổi trẻ Online, 15/9/2005
Lê Minh Tiến có bài Nghĩ về hiện tượng Nguyễn Văn Thạc - Đặng Thùy
Trâm, trong đó tác giả viết: “Theo tơi hai cuốn nhật ký của anh Thạc và chị
Trâm có thể trở hành “sách gối đầu giƣờng” của nhiều ngƣời vì đã xuất
hiện trong lúc mà xã hội đang trong thời kì “khơ hạn” về giá trị sống, thời
kì mà những chuẩn mực những giá trị nhân văn cao đẹp nhƣ sự hi sinh, sự
cống hiến cho cái chung, lịng khoan dung... có vẻ nhƣ đang khủng hoảng
trầm trọng”. Tác giả đã đánh giá hiệu ứng xã hội của hai cuốn nhật ký toát
lên từ cái chân - thiện - mĩ. Từ góc độ nghiên cứu văn học, Huỳnh Nhƣ
Phƣơng xem nhật ký nhƣ một tác phẩm phi hƣ cấu. Từ đó thấy đƣợc vai
trị của nó trong đời sống văn học. Trong bài Trang giấy mở lòng ra trên
9
trang ông viết: “Đọc nhật ký
Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm và các tác giả khác vừa đƣợc công bố,
ta có thể thấy đƣợc ánh phản chiếu của bộ mặt xã hội và hiện thực đất nƣớc
trong chiến tranh. Dƣới ngòi bút của Nguyễn Văn Thạc, hiện lên rõ nét
cuộc sống và con ngƣời trên hậu phƣơng miền Bắc; còn trong sự miêu tả
của Đặng Thùy Trâm lại nổi bật tính kiên cƣờng và khốc liệt của cuộc
chiến đấu trên mảnh đất miền Trung Trung Bộ. Nhật kí Nguyễn Văn Thạc
thiên về tâm tình hơn là sự kiện, nhật ký Đặng Thùy Trâm thì ngƣợc lại.
Điều đáng quý hơn cả là những cuốn nhật ký đó đã biểu hiện trung thực
tâm hồn, khát vọng, lý tƣởng sống của một tuổi trẻ hiến dâng, chấp nhận
mọi hi sinh, đứng lên “đáp lời sông núi” trong một giai đoạn sôi bỏng của
lịch sử. Từ ý hƣớng cầm bút, đó chƣa phải là tác phẩm nghệ thuật, nhƣng
do sức thuyết phục của sự thật và sự thật tâm hồn- chúng đã góp phần
khẳng định nhật ký nhƣ một thể loại văn - xi - khơng - hƣ - cấu (non-fiction)
có khả năng làm phong phú và đa dạng đời sống văn học. Ngôn ngữ chân
thật, giản dị mà sâu đậm cũng là một yếu tố quan trọng để làm nên điều
đó”. Tuy nhiên, bên cạnh những đánh giá cho rằng Nhật ký Đặng Thùy
Trâm, Mãi mãi tuổi 20 là tác phẩm văn học đích thực, thì cũng có ý kiến
cho rằng đó chỉ là “cận văn học”, chỉ có chức năng giải trí, chức năng nhận
thức, chức năng giáo dục. Hồi Nam trong bài Cận văn học lên ngôi trên
trang Văn nghệ báo Truyền hình Vĩnh Long ngày 4/8/2008, đánh giá cao
những giá trị nhân văn ở hai cuốn nhật ký. Ông viết: “Đọc hai cuốn sách,
cái đƣợc lớn nhất với ngƣời đọc là “đƣợc biết”, “đƣợc hiểu” một cách trực
tiếp về thế giới tinh thần, những suy nghĩ, tình cảm, quan niệm sống, quan
niệm giá trị của những ngƣời (trí thức) trẻ tuổi Việt Nam dấn thân nơi chiến
trƣờng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Cái đƣợc tiếp theo là
“đƣợc xúc động”, “đƣợc cảm phục” trƣớc những con ngƣời là hiện thân của
chủ nghĩa lý tƣởng một thời. “Đƣợc khối cảm” trƣớc vẻ đẹp của nghệ
thuật ngơn từ ở hai cuốn sách này, nếu có, là cái đƣợc khiêm tốn nhất, vì
10
bản thân những ngƣời viết vốn chẳng mấy quan tâm đến chuyện “làm văn”.
Mà cái long lanh kỳ diệu của ngơn từ trong các tác phẩm nói chung, hình
nhƣ là cái chẳng mấy khi có đƣợc do sự vơ ý, nhỡ tay”. Nhƣ vậy có thể
thấy, dù cịn những ý kiến khác nhau về tính văn học của hai cuốn nhật ký,
nhƣng không ai thể phủ nhận sức hấp dẫn và vẻ đẹp tâm hồn, chất hiện thực
và vẻ đẹp ngơn từ của nó.
Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh ra đời khi chiến
tranh đã lùi xa 40 năm. Vết thƣơng chiến tranh đã phai mờ, mối quan hệ
Việt - Mỹ đã bình thƣờng hóa. Những cựu binh cả hai phía đang nỗ lực hàn
gắn vết thƣơng chiến tranh, thắt chặt đoàn kết, hƣớng về tƣơng lai. Là một
tiểu thuyết tƣ liệu - lịch sử, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã đƣa ra một
góc nhìn mới về chiến tranh. Với một nguồn tƣ liệu phong phú, đáng tin
cậy, ông đã tái hiện một cách chân thực, sinh động những ngày cuối cùng
của chiến tranh ở cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hịa.
Ngay khi vừa ra đời, tác phẩm đã nhận đƣợc sự quan tâm của đông đảo
công chúng. Trong bài viết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75-công bằng và
sự thật, Nguyễn Văn Thọ đã đánh giá tác phẩm trên ba phƣơng diện nghệ
thuật, nội dung, và sự chân thực. Theo ông, thành công của tác phẩm là đã
“vẽ ra chân dung khá chi tiết, khá đầy đủ quá trình sống và chiến đấu của
những tƣớng lĩnh điển hình qn đội Việt Nam Cộng hịa với bi kịch
thời đại mà họ tạo ra, can dự và thất bại. Bút pháp linh hoạt: Khơng một
chiều cũ mịn; Khả năng xây dựng nhân vật tốt về tâm lí, về hành động”
(80). Và: “Hệ thống đƣợc cả diễn tiến của cuộc chiến trong bốn tháng
cuối cùng của cuộc chiến một cách vừa chi tiết vừa khái quát để ngƣời
đọc hình dung đƣợc mọi diễn tiến, cảnh tình, cảnh huống, lớp lang một
cách có thứ tự”. Khơng chỉ dừng phƣơng diện nội dung và nghệ thuật,
tác giả còn đánh giá tính chân xác, giá trị lịch sử của tác phẩm, “khách
quan trong sử dụng tài liệu khi viện dẫn rất đầy đủ, tập hợp rất nhiều tài
liệu chi tiết, kể cả tài liệu mật lƣu trữ công bố sau cuộc chiến của Bộ tổng
11
hành dinh lẫn giải mã cơng trình mật từ nguồn hồi kí tƣớng lĩnh Việt Nam
Cộng hịa và cả bộ máy cơng cụ CIA” [80]. Có cùng quan điểm, song ở một
góc nhìn rộng hơn, đặt Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 trong quan hệ với
hình thức văn xi phi hƣ cấu, Thu Huyền đã lí giải sức hấp dẫn của tác
phẩm. Bài viết Sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-23-4.75” không phải đến từ sự cầu kì đẽo câu gọt chữ, nó đến từ những miêu
tả rất chân xác mà nhiều lúc độc giả gần nhƣ khơng cịn muốn phân định
yếu tố hƣ cấu hay phi hƣ cấu. Bút pháp đa dạng và linh hoạt của Trần Mai
Hạnh thể hiện xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, đây đó có những rẽ ngang
khơng hẳn để làm chậm lại nhịp cuộc chiến đƣợc khắc họa mà nhƣ một
cách mạn đàm, có lúc nhƣ một lối thể hiện kín đáo quan điểm chủ quan của
tác giả, có lúc nhằm trị chuyện với độc giả. Những trƣờng đoạn tuy khơng
lớn về dung lƣợng, đƣợc đan cài trong mạch chính đã làm giảm cái khô
khan, cái nặng nề của sự kiện” [38]. Đặt tác phẩm Biên bản chiến tranh 1-23-4.75 trong dòng văn học tƣ liệu, Thu Huyền cho rằng: “Sự khác biệt
của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 trong dòng văn học tƣ liệu có nhiều yếu
tố nhƣng có thể kể đến ba điểm chính: cách xâu chuỗi và làm chủ một
lƣợng tƣ liệu nguyên bản khổng lồ, lựa chọn điểm nhìn đa dạng từ trong
lịng cuộc chiến với sự dịch chuyển linh hoạt, xây dựng hệ thống nhân
vật thuộc hoàn toàn về “phe địch” nhƣng lại giữ đƣợc thái độ khách quan
và điềm tĩnh. Tất cả những điều đó giúp cho tiểu thuyết vừa mang tính
lịch sử chân xác, vừa mang tính văn chƣơng độc đáo. “Cách đi” của nhà
văn Trần Mai Hạnh trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 phải chăng
chính là tƣơng lai của nền tiểu thuyết tƣ liệu Việt Nam về đề tài chiến
tranh?”. Lý giải sức hấp dẫn của tác phẩm, Nguyên Thanh cho rằng: “Cuốn
này sở dĩ đƣợc chú ý vì đã tái hiện trung thực, sinh động sự sụp đổ của
chính quyền Sài Gịn trong bốn tháng cuối cùng của chiến tranh, từ tháng 1
đến tháng 4-1975. Nhƣng cái chính là cuốn sách đã góp phần lý giải tại sao
Mỹ lại thua ở Việt Nam, điều mà cho đến nay nhiều ngƣời Mỹ không hiểu
12
nổi, thậm chí cịn gọi đó là “hội chứng” của lịch sử nƣớc Mỹ hiện đại.
Trong bối cảnh ấy thì cuốn sách một phần làm thỏa mãn họ. Cho nên sự
xuất hiện của 20 tài liệu nguyên bản tuyệt mật của phía Việt Nam Cộng hịa
và Hoa Kỳ in trong phần phụ lục mang tính tham khảo lại đƣợc nhiều độc
giả Mỹ coi là nội dung chính của tiểu thuyết” (Báo Quân đội Nhân dân,
5/6/2017).
Văn xuôi phi hƣ cấu về chiến tranh khơng chỉ có tiểu thuyết tƣ liệu lịch sử, nhật ký, mà cịn có hồi ký, tự truyện, mà tiêu biểu là hai tác phẩm
Hồi ức lính của Vũ Cơng Chiến và Qn khu Nam Đồng - Bình Ca. Cả hai
tác phẩm đều là sản phẩm của ngƣời viết không chuyên. Ngay sau khi ra
đời, các tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất trong năm. Có nhiều cách
lý giải điều này, mà một trong số đó là đề cao tính chân thực của tác phẩm,
xem đó là vẻ đẹp của sự thật. Trong bài viết Chiến tranh khơng phải trờ
đùa, giới thiệu Hồi ức lính, Lƣu Khánh Thơ viết: “Trong quầng sáng của
chiến tranh, dƣờng nhƣ mọi giá trị thật giả đều phơi bầy một cách trần trụi
nhất. Dũng cảm và đớn hèn. Yêu thƣơng và thù hận. Tin tƣởng và thất
vọng. Dục vọng bản năng và lí trí. Tất cả trạng thái tâm lí rất thật của ngƣời
lính đã đƣợc phơi trải đến tận cùng, khơng né tránh. Khơng khí chiến trận
đã đƣợc miêu tả qua hàng loạt quan sát, ghi nhận của một ngƣời lính trung
thực đầy ấn tƣợng” [9, 6]. Có chung cách nhìn ấy, Bảo Ninh trong bài trả
lời trên báo Tuổi trẻ online (28/4/2016), cho rằng: “Không phải đời tôi,
không phải đơn vị tơi, vậy mà đây cũng chính cuộc đời tơi, là tổ ba ngƣời
của tôi, là tiểu đội, trung đội, đại đội tôi. Tác phẩm làm sống dậy trong tôi
từng ngày từng tháng, từng chặng đƣờng của thế hệ chúng tôi, của tuổi trẻ
“đất thánh” Hà thành năm xƣa lên đƣờng ra trận”. Phạm Ngọc Tiến đánh
giá cao thành công của tác phẩm, và cho rằng: “Nhà văn chúng tôi học
đƣợc ở cuốn sách này bài học về sự chân thành và sự thật” (Theo “Hồi ức
lính - chiến tranh khơng phải trị đùa” Anh Sa, VNExpress ngày 30/4/2016).
13
Điểm lại một số ý kiến đăng tải trên các báo, tạp chí gần đây về một
số tác phẩm văn xi phi hƣ cấu viết về chiến tranh, có thể thấy sức hút của
các tác phẩm này là rất lớn. Tuy nhiên, cách nhìn, sự đánh giá của giới
nghiên cứu phê bình về các “hiện tƣợng” văn học này cịn những khác biệt.
Cho đến nay, tất cả mới dừng lại ở những bài viết đơn lẻ viết dƣới dạng
cảm nhận cá nhân, chƣa có một cơng trình nghiên cứu hệ thống, tồn diện
về văn xi phi hƣ cấu viết về chiến tranh trong những thập niên gần đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Trên cơ sở khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, chỉ ra đƣợc
những đặc điểm nổi bật của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh trong
văn học đƣơng đại Việt Nam. Từ đó, rút ra đƣợc những vấn đề có ý nghĩa
lý luận.
3.2.Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Thứ nhất, chỉ ra đƣợc diện mạo của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến
tranh trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
Thứ hai, khảo sát, phân tích những ƣu thế nổi bật của văn xuôi phi hƣ
cấu viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam đƣơng đại.
Thứ ba, chỉ ra đƣợc những đặc điểm nổi bật về ngôn từ, giọng điệu
của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh văn học Việt Nam đƣơng đại.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là ƣu thế và những đặc điểm nổi
bật của văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam
đƣơng đại.
4.2. Phạm vi khảo sát của đề tài là một số tác phẩm tiểu biểu của văn
xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh ra đời trong hai thập niên đầu của thế kỷ
XXI, nhƣ Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử của Võ Nguyên Giáp, Nhật ký
Đặng Thùy Trâm, Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, Quân khu Nam Đồng của
Bình Ca, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh, Hồi ức lính
của Vũ Cơng Chiến. Ngồi ra, để có cái nhìn so sánh, chúng tôi khảo sát
14
thêm một số tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh trong văn học đƣơng đại
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Về hƣớng tiếp cận, chúng tôi sử dụng kết hợp các hƣớng nghiên
cứu, nhƣ: thi pháp học, tự sự học, và xã hội học...
5.2. Về phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp
sau:
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp nhằm rút ra đƣợc những vấn đề
có ý nghĩa lý luận về sáng tạo và tiếp nhận văn xuôi phi hƣ cấu viết về
chiến tranh trong văn học đƣơng đại Việt Nam.
- Phƣơng pháp so sánh nhằm chỉ ra những tƣơng đồng, khác biệt
trong cấu trúc nghệ thuật giữa các tác phẩm văn xuôi phi hƣ cấu viết về
chiến tranh trong văn học đƣơng đại Việt Nam.
- Phƣơng pháp cấu trúc hệ thống nhằm xem xét các vấn đề trong tính
chỉnh thể, hệ thống, với nhiều tƣơng quan trong và ngoài tác phẩm.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Phi hƣ cấu - một xu hƣớng thể hiện đề tài chiến tranh của
văn xi Việt Nam đƣơng đại.
Chương 2: Tính chân thực - ƣu thế nổi bật của văn xuôi phi hƣ cấu
viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam đƣơng đại.
Chương 3: Sự lấn lƣớt của ngôn ngữ thế tục và giọng điệu trần thuật
khách quan trong văn xuôi phi hƣ cấu viết về chiến tranh
15
Chƣơng 1
PHI HƢ CẤU - MỘT XU HƢỚNG THỂ HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN
TRANH CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Phi hƣ cấu trong sáng tạo văn học
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
Phi hƣ cấu (non-fiction) là khái niệm xuất hiện trong tƣơng quan với
khái niệm hƣ cấu (fiction). Nếu quan niệm hƣ cấu là câu chuyện bịa, “là lời
nói dối mà qua đó chúng ta bộc lộ sự thật” (Albert Camus) thì phi hƣ cấu là
câu chuyện thật, đƣợc ngƣời chứng kiến kể lại một cách trung thực khách
quan. Theo Wikipedia: “Phi hƣ cấu hay là phi viễn tƣởng, phi giả tƣởng
(tiếng Anh là non-fiction) là những nội dung (content) có thật, thể hiện các
sự kiện, sự vật...trong thực tế. Ngƣời tạo ra nội dung phi hƣ cấu cần đảm
bảo độ chính xác của sự kiện con ngƣời hay thơng tin mình định trình bày”
Nhƣ vậy,văn bản phi hƣ cấu có thể là một câu chuyện kể, một văn bản miêu
tả lại sự việc đã xảy ra, hoặc là một sản phẩm giao tiếp khác mà tác giả của
nó tin rằng sự khẳng định và miêu tả là có thật. Những sự khẳng định và
miêu tả này có thể chính xác hoặc khơng, có thể mơ tả đúng hoặc sai về đối
tƣợng. Tuy nhiên, ngƣời ta cho rằng tác giả của những văn bản ấy tin rằng
chúng đúng sự thật tại thời điểm mà họ soạn thảo, hoặc ít nhất đã khiến
ngƣời tiếp nhận văn bản tin rằng chúng đúng về phƣơng diện lịch sử hoặc
theo kinh nghiệm”. Theo đó, các văn bản phi hƣ cấu bao gồm những văn
bản thông tin (informative text) và văn bản văn học (literary text), nhƣ: hồi
ký, nhật ký, du ký, ký sự, phóng sự, tùy bút, tiểu thuyết tƣ liệu lịch sử, tự
truyện... Trong sáng tạo văn học, phi hƣ cấu tồn tại bên cạnh hƣ cấu, bổ
sung cho hƣ cấu, nhƣ một con đƣờng, một cách thức sáng tạo của ngƣời
nghệ sĩ. Lịch sử văn học nhân loại cho thấy, có sự tồn tại phát triển của
hình thức văn học này, mặc dầu đã có những hồi nghi về tính văn chƣơng
đích thực của nó, xem đó chỉ là những tác phẩm phi hƣ cấu có tính văn
16
chƣơng (literary non-fiction). Chẳng hạn, nhƣ Sử ký (Tƣ Mã Thiên),
Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ
và Nguyễn Án)... trong văn học cổ, trung đại; Tự truyện (M. Gandhi), Điện
Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp), Cát bụi chân ai của Tơ
Hồi... trong văn học hiện đại. Và gần đây là những tác phẩm, nhƣ: Nhật ký
Đặng Thùy Trâm, Quân khu Nam Đồng (Bình Ca), Hồi ức lính (Vũ Cơng
Chiến), Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh)... những phóng
sự, tiểu thuyết - tƣ liệu lịch sử của Svetlana Alexievich (giải Nobel văn học,
2015), nhƣ: Chiến tranh khơng có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu
từ Chernobyl... là những tác phẩm nhƣ thế.
Từ cách hiểu đó, có thể thấy phi hƣ cấu không đối lập, hay loại bỏ hƣ
cấu, mà là mức độ, cách thức hƣ cấu, là một chỉ dấu sáng tạo của nhà văn.
Nói phi hƣ cấu là nói tới câu chuyện thật, con ngƣời thật đƣợc kể lại bởi
ngƣời chứng kiến, ngƣời trong cuộc. Đó khơng phải là câu chuyện tƣởng
tƣợng, chỉ có trong tƣởng tƣợng, mà là câu chuyện đƣợc viết dựa trên một
thực tế có thực, chân xác, có thể đƣợc kiểm chứng. Điều chính yếu làm nên
giá trị, phẩm chất và ƣu thế của văn học phi hƣ cấu là tính chính xác, sự
trung thực, khách quan. Sự kiện đã xảy ra khi nào? Ở đâu? Ai đã tham gia
vào sự kiện đó? Trong tất cả những trƣờng hợp này, ngƣời đọc đòi hỏi câu
trả lời cặn kẽ và rõ nghĩa, dù đó là con số, ngày tháng, lời khẳng định hay
phủ định. Sức hấp dẫn của văn học phi hƣ cấu là sự thực. Một văn bản phi
hƣ cấu giống nhƣ những mảnh tranh ghép, đƣợc xây dựng từ những bức
chân dung nhân vật, những bức tranh miêu tả cảnh quan đời ngƣời và sân
khấu chính trị - xã hội, những suy niệm và trầm tƣ thế sự… Mở một văn
bản văn học phi hƣ cấu, độc giả có niềm tin rằng đây là cuộc đời tự nó lên
tiếng và ngƣời trần thuật không can thiệp làm thay đổi bản chất của sự kiện.
Hình thức văn học này đặc biệt phát triển trong thời hiện đại với nhiều tên
gọi khác nhau, nhƣ: văn học - báo chí; văn học - tƣ liệu... Đó là những văn
bản phi hƣ cấu có tính văn chƣơng (literary non-fiction), đƣợc sử dụng
17
trong quan hệ đối lập với khái niệm văn bản thơng tin (informational text) một hình thức văn bản phi hƣ cấu thuần túy. Trong văn học phi hƣ cấu,
những yếu tố có tính sáng tạo và văn chƣơng thƣờng chìm khuất, khơng
làm mờ đi thơng tin của văn bản. Sự đơn giản, sáng rõ, trực tiếp, trung thực,
khách quan là những phẩm chất nghệ thuật của văn học phi hƣ cấu.
1.1.2. Mối quan hệ hƣ cấu và phi hƣ cấu trong sáng tạo văn học
Từ rất sớm, hƣ cấu, tƣởng tƣợng đƣợc xem là thuộc tính của văn
chƣơng. Nói tới sáng tạo là nói đến tƣởng tƣợng, hƣ cấu. Khơng có hƣ cấu,
tƣởng tƣợng khơng có văn chƣơng nghệ thuật. Nhận thức này đã đƣợc
Aristot nói đến trong Nghệ thuật thi ca và ngày càng đƣợc khẳng định trong
quá trình phát triển của văn học nhân loại. Theo Lại Nguyên Ân trong 150
thuật ngữ văn học: “Hƣ cấu nghệ thuật là một hành động đặc thù của hoạt
động nghệ thuật, trợ giúp cho việc dựng nên những dạng thức tồn tại có thể
có. Các đặc tính năng sản của hƣ cấu dựa trên sự tƣởng tƣợng, là cái đảm
bảo cho việc tổ hợp, khái quát, tổng hợp trong qúa trình hoạt động nghệ
thuật. Nhờ hƣ cấu trong nghệ thuật ngƣời ta thực hiện đƣợc việc chiếm lĩnh
thế giới ở phối cảnh hàm nghĩa của nó, tái tạo lại đƣợc các hình thức hiện
thực, đem lại cho chất liệu một sự tổ chức về thẩm mĩ” [3, 165]. Nhờ hƣ
cấu, ngƣời nhệ sĩ chiếm lĩnh đời sống và tái hiện hiện thực đời sống theo
cách của riêng mình. Nguồn cội của văn học nghệ thuật là hiện thực đời
sống. Song, tác phẩm văn học không bao giờ là bản sao hiện thực đời sống,
mà là kết quả của sự nghiền ngẫm, sáng tạo hiện thực - một hiện thực mang
đậm dấu ấn tƣ tƣởng, tình cảm, tài năng ngƣời nghệ sĩ. Một tác phẩm đạt
đến hƣ cấu nghệ thuật mới thực sự là văn học. Theo đó, khơng thể có một
tác phẩm văn học nào lại không hƣ cấu. Bởi lẽ, “hƣ cấu là hoạt động cơ bản
của tƣ duy nghệ thuật” [3,166], là một phƣơng diện thể hiện phẩm chất,
năng lực, phong cách cá nhân của ngƣời nghệ sĩ. Hƣ cấu đƣợc xem nhƣ một
quyền năng của nhà văn trong sáng tạo.
18
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khơng thể có một tác phẩm văn học
nào, mà ở đó một thế giới nghệ thuật đƣợc tạo nên chỉ bằng hƣ cấu và
tƣởng tƣợng. Nghĩa là mọi mối liên hệ của nó với thế giới bên ngoài đã
hoàn toàn bị loại bỏ. Bởi vậy, sự chia tách văn học hƣ cấu và văn học
phi hƣ cấu chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối. Ranh giới giữa chúng khó phân
biệt một cách rạch rịi. Có những văn bản văn học có thể xếp vào loại
văn bản hƣ cấu hoặc văn bản phi cấu đều hợp lý. Chẳng hạn, những văn
bản tự biểu hiện, thƣ từ, tạp chí và những văn bản có yếu tố tƣởng
tƣợng, hƣ cấu. Mặc dù chúng có thể thuộc về loại này hay loại kia,
nhƣng vẫn có sự pha trộn đặc điểm của cả hai loại văn bản ấy. Mặt
khác, một số văn bản hƣ cấu có thể bao hàm những yếu tố phi hƣ cấu.
Trong khi đó, một số văn bản phi hƣ cấu lại chứa đựng những yếu tố
tiền giả định, sự suy diễn hoặc điều tƣởng tƣợng, hƣ cấu không thể xác
minh, kiểm chứng. Việc bao gồm những điều còn bỏ ngỏ, chƣa đƣợc
kiểm tra về độ xác thực có thể khiến ngƣời đọc hiểu sai bản chất của
văn bản phi hƣ cấu. Ở đó, sự sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ dựa trên những
sự kiện, chi tiết có thực, hiện hữu, chân xác trong hiện thực đời sống.
Cũng nhƣ hƣ cấu, phi hƣ cấu ln địi hỏi sự nỗ lực sáng tạo của nhà
văn, nhằm hƣớng tới việc tái hiện hiến thực đời sống nhƣ vốn có ở
ngoài đời. Hơi thở đời sống phả vào từng chi tiết, hình ảnh, nhân vật,
ngơn từ của tác phẩm. Theo đó, giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu khơng loại
nhau, mà có mối liên hệ với nhau trong sáng tạo nghệ thuật. Cơ sở của
sự gặp gỡ, thống nhất này là hiện thực đời sống. Hƣ cấu, phi hƣ cấu, chỉ
là quan niệm, cách thức của nhà văn thể hiện mối liên hệ giữa văn học
với hiện thực đời sống.
Nếu hƣ cấu là mô phỏng hay giả định sự kiện, gắn liền với trí tƣởng
tƣợng, thì phi hƣ cấu lại có xu hƣớng bám sát hiện thực, đề cao tính chân
thực của chi tiết, sự kiện và tổ chức sắp xếp một cách sáng tạo theo logic
hiện thực đời sống. Hƣ cấu là phƣơng thức xây dựng hình tƣợng điển hình
19
qua việc sáng tạo những giá trị mới, những yếu tố mới, nhƣ sự kiện, cảnh
vật, nhân vật trong một tác phẩm theo sự tƣởng tƣợng của tác giả, mà nơi
khởi nguồn là hiện thực đời sống. Dĩ nhiên bên cạnh ngun tắc điển hình
hóa của chủ nghĩa hiện thực, văn học cịn có thể tái hiện đời sống theo
nhiều nguyên tắc khác, phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, dù theo nguyên tắc
nào, trực tiếp hay gián tiếp đều phải gắn với hiện thực đời sống. Khơng có
hiện thực đời sống, khơng có hƣ cấu nghệ thuật. Hƣ cấu phải dựa trên hiện
thực và tái tạo hiện thực thành một thế giới khác; là nghĩ ra những điều
khơng có để viết, là hình tƣợng đƣợc tạo dựng trên nên hiện thực đời sống.
Trong hƣ cấu vẫn có cái thực của nó trong nhận thức và khối cảm, để làm
nên một phán đoán một nhận thức cho độc giả. Hƣ cấu tìm cách vƣợt ra
khỏi ý thức giả định, bằng thứ ngôn ngữ nghệ thuật đặc trƣng của mỗi thể
loại. Trên nền hiện thực đời sống, ngƣời nghệ sĩ xây dựng nhân vật không
theo một sơ đồ giản lƣợc định sẵn, mà thể hiện tâm lý trong mối tổng hòa
đa dạng có chiều sâu, với cả những góc khuất thầm kín, có sự phát triển
tính cách khá sinh động, tinh tế. Cùng với việc khắc họa sâu sắc tâm lý các
nhân vật có hay khơng có trong hiện thực, các tác giả đƣa thêm vào nhiều
sự kiện sống động giàu ý nghĩa, tạo dựng nên hiện thực, một thế giới gần
giống với hiện thực, nhƣng không phải hiện thực. Hƣ cấu, vì vậy đƣợc xem
nhƣ một thứ quyền năng của ngƣời nghệ sĩ. Ở đó ngƣời nghệ sĩ có thể kể
một câu chuyện trái với hiện thực lịch sử, có quyền tạo ra nhân vật thể hiện
quan điểm, tƣ tƣởng của mình. Nhân vật đó có thể khác với cách nghĩ truyền
thống. Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp với những trang viết về Hoàng đế
Quang Trung, vua Gia Long gây nhiều tranh luận, đã cho thấy một sự “đột
phá” chuyển từ tƣ duy sử thi sang tƣ duy tiểu thuyết khi viết về các nhân
vật lịch sử. Hình ảnh Quang Trung và Gia Long trong tác phẩm Nguyễn
Huy Thiệp đã khơng hồn tồn giống với những gì sẵn có trong hình dung
của ngƣời đọc. Đó là sản phẩm của sự hƣ cấu theo một cách nhìn, một quan
niệm dân chủ. Sáng tạo là hƣ cấu, song không phải mọi sự hƣ cấu đều là
20
sáng tạo. Có những hƣ cấu chỉ mang tính ngụy tạo, khơng mang tính văn
chƣơng. Chỉ có những hƣ cấu nhằm tái tạo một thế giới hiện thực, chứa
đựng một thông điệp tƣ tƣởng thẩm mỹ mới đƣợc xem là sáng tạo nghệ
thuật. Mức độ hƣ cấu, vì vậy khơng phải là ít hay nhiều, mà theo cách thức
nào. Tài năng nghệ thuật của nhà văn không phải là hƣ cấu cái gì, mà là hƣ
cấu nhƣ thế nào. Ở đó, hƣ và thực ln hịa trộn, đan xen. Sự thâm nhập,
đan xen giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu, vì vậy là một đặc điểm của sáng tạo văn
học. Theo Huỳnh Nhƣ Phƣơng [70], mối quan hệ giữa hƣ cấu và phi hƣ cấu
trong sáng tạo văn học biểu hiện trên một số phƣơng diện, nhƣ:
Thứ nhất, về thủ pháp nghệ thuật. Trong sáng tạo truyện ngắn và tiểu
thuyết, nhà văn có thể đƣa vào những yếu tố phi hƣ cấu, bằng cách “cắt
dán” thơng tin từ báo chí, biên bản vụ án… Nhƣ vậy, nhân vật và câu
chuyện là hƣ cấu, nhƣng đặt trên bối cảnh của những sự kiện có thực: một
vụ án, một cuộc đảo chính qn sự, một biến cố chính trị…
Thứ hai, về hình thức cấu trúc. Cấu trúc truyện ngắn và tiểu thuyết có
thể sử dụng những hình thức phỏng vấn, nhật ký, thƣ tín, sổ tay ghi chép…
của nhân vật hay ngƣời kể chuyện. Có tác phẩm là một chuỗi những lá thƣ
trao đổi giữa các nhân vật. Cũng có tác phẩm gồm các chƣơng đƣợc kết nối
bằng những trang nhật ký mà nhân vật tự kể chuyện mình.
Thứ ba, bình diện thể loại sự kết nối, đan xen giữa hƣ cấu và phi
hƣ cấu có thể dẫn đến sự ra đời của những thể loại có tính chất lai ghép,
nhƣ: tiểu thuyết tƣ liệu, tiểu thuyết chân dung, tiểu thuyết phóng sự, tiểu
thuyết du ký, tiểu thuyết triết học, phóng sự, ký sự, hồi ký… Để tạo đƣợc
một thế giới nghệ thuật, đòi hỏi hƣ cấu phải dựa trên nền hiện thực, dựa
vào cơ sở của hiện thực. Đó là cơ sở cho sự ra đời của văn học phi hƣ
cấu, đem đến cho ngƣời đọc một góc nhìn mới. Theo đó, phi hƣ cấu
khơng phải là khơng hƣ cấu, khơng phải có gì nói nấy, mà nói những
điều nhân vật trần thuật đã chứng kiến, trải nghiệm, hoặc đã nghiên cứu
kĩ qua tƣ liệu. Cách nói của phi hƣ cấu là qua sự kiện, các nhân vật có
21
thật để dựng lại hiện thực. Nhân vật kể chuyện là ngƣời tồn tri, cịn tác
giả chỉ là ngƣời ghi chép, tác giả của văn học phi hƣ cấu không có quyền
tồn năng nhƣ văn học hƣ cấu. Tác giả phải tôn trọng sự thật, không
đƣợc tạo ra một lịch sử khác với lịch sử truyền thống. Nhƣng nhà văn có
quyền lựa chọn những chi tiết, những sự thật mà sử biên niên không kể, và
tái hiện chúng theo một cách thức riêng. Ở đó, ranh giới hƣ cấu và phi hƣ
cấu ln có xu hƣớng bị nhịe mờ.
Nhƣ vậy, có thể thấy, hƣ cấu và phi hƣ cấu có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Cái này dựa vào cái kia để phát triển. Hƣ cấu lấy hiện thực làm chất liệu
để tái tao, còn phi hƣ cấu dựa vào hƣ cấu để chon cách tiếp cận, tái tạo hiện
thực đời sống một cách phù hợp nhất. Hƣ cấu hay phi hƣ cấu, vì vậy đều địi
tƣ tƣởng tình cảm, vốn sống, sự trải nghiệm, đặc biệt là năng lực sáng
tạo của nhà văn. Lý giải việc Hội Nhà văn Hà Nội trao giải nhất văn xuôi
(2013) cho bút ký Các bạn tôi ở trên ấy của Nguyên Ngọc, nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên trả lời phỏng vấn trên bài Giải thưởng Hội Nhà văn
Hà Nội: sự lên ngôi của thể loại phi hư cấu trên www: bao moi.com ngày
5/10/2013 cho rằng: “Hội vinh danh bút ký của Nguyên Ngọc để công
nhận giá trị văn học phi hƣ cấu, một tác phẩm văn học thực sự”. Cũng
cách nhìn ấy, trả lời phỏng vấn nhân sự kiện Svetlana Alexievich đƣợc
trao giải Noben văn học (2015) cho những tiểu thuyết tƣ liệu, phóng sự
chiên tranh, Nguyên Ngọc - ngƣời đã chuyển ngữ tác phẩm Chiến tranh
khơng có một khn mặt phụ nữ của Svetlana Alexievich ra tiếng Việt
(Nxb Hà Nội, 2016), trong bài Tại sao chỉ hư cấu mới làm nên văn
chương, trên trang www: new. Zing.vn ngày 11/10/2016, cho rằng, “bằng
việc trao giải Noben văn học năm 2015 cho Svetlana Alexievich, viện
Hàn lâm Thụy Điển đã làm một cuộc cách mạng. Họ đánh đổ một thành
kiến tồn tại hàng nhiều trăm năm rằng chỉ có văn học hƣ cấu mới có giá
trị”. Điều này cho thấy đã có một cách nhìn khác về văn học phi hƣ cấu.
Hƣ cấu hay phi hƣ cấu chỉ là cách thức tiếp cận, tái hiện đời sống. Nói