BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
DƯƠNG THỊ HIỀN
ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TỒ ÁN
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGHỆ AN - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
DƯƠNG THỊ HIỀN
ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TỒ ÁN
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG
NGHỆ AN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Dương Thị Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ........................... 6
1.1. Khái niệm về nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án .. 6
1.2. Nội dung của nguyên tắc độc lập trong xét xử của Tòa án .................. 13
1.3. Cơ sở pháp luật Việt Nam về nguyên tắc độc lập của tòa án ............... 23
1.4. Nguyên tắc độc lập trong xét xử của tòa án trong mối quan hệ với các
nguyên tắc khác của pháp luật ..................................................................... 27
1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật ....................................................................................... 30
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP VÀ
CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN ..................................................... 34
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của TAND huyện Yên Thành ....... 34
2.2. Thực trạng bảo đảm nguyên tắc độc lập của tòa án trong hoạt động xét
xử của TAND huyện Yên Thành ................................................................. 36
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM NGUYÊN
TẮC ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN THÀNH TỈNH NGHỆ AN ..................................................... 57
3.1. Quan điểm mục tiêu và yêu cầu bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt
động xét xử của tòa án huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An ............................ 57
3.2. Phương hướng bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An ..................................... 63
3.3. Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân huyện Yên Thành. tỉnh Nghệ An ..................................... 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Hiến pháp 1980
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980
Hiến pháp 1992
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Hiến pháp 2013
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013
NQ/TW
Nghị quyết Trung ương
NXB
Nhà xuất bản
QTP
Quyền tư pháp
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình đổi mới, với mục tiêu xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020,
Đảng và nhà nước ta ngày càng nhận thức sâu sắc và đầy đủ về yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền.Thực tiễn quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay càng cho thấy rõ vai trò của các cơ
quan tư pháp.
Ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ chính trị đã ra nghị quyết 08- NQ/TW
về” Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Ngày 02
tháng 6 năm 2005 Bộ chính trị tiếp tục ban hành nghị quyết 49- NQ/ TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định vị thế và tầm quan trọng
của hệ thống tòa án [1], [2].
Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án. Việc xét xử của tòa
án phải dựa trên cơ sở pháp luật và phải bảo đảm tính khách quan, vô tư,
không bị chi phối bởi sự tác động nào khác của các cơ quan, tổ chức
Điều 103 Hiến pháp 2013 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng quy định rõ rõ “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm” [31) một lần nữa đề cao tính độc lập trong xét xử
của Tịa án có vai trị quan trọng đối với cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền nói chung và cải cách tư pháp nói riêng
Nguyên tắc” thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm
vụ xét xử, thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử. Đây là
nguyên tắc hiến định có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, tồn tại từ hiến
2
pháp năm 1946 cho đến nay. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân có quyền đưa ra
phán quyết đối với các vụ án chỉ dựa trên cơ sở pháp luật mà không phải phụ
thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng
nguyên tắc còn có nhiều bất cập, chưa thực sự đem lại hiệu quả trong cơng tác
của ngành tịa án.Hàng năm tỷ lệ án bị hủy, bị cải sửa nghiêm trọng vẫn còn
là vấn đề gây bức xúc cho dư luận.
Cá nhân tôi đang làm việc tại TAND huyện Yên Thành- tỉnh Nghệ An,
nhận thức rõ được tầm ảnh hưởng của nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét
xử tới công tác xét xử của Tịa án, vì thế tơi chọn đề tài: ”Đảm bảo nguyên tắc
độc lập trong hoạt động xét xử của TAND từ thực tiễn TAND huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sỹ, qua đó kiến nghị các giải
pháp để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc độc lập trong xét xử
của tịa án.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài viết, cơng trình, các khóa luận
tốt nghiệp nghiên cứu về đề tài này như:: “ Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong xây dựng nhà nước pháp quyền” của Giáo sư- TS Lê Cảm- tạp chí lập
pháp số 4 năm 2002, “Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối
với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” của Nguyễn Mạnh Cườngtạp chí nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002.Khóa luận tốt nghiệp:” Khi xét
xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Hàn Mạnh
Thắng- Đại học Luật Hà Nội, Luận văn” Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, của Trần
Thị Nhung San- trường đại học Luật Hà Nội, Luận văn “Nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng
Hình sự Việt Nam”, của Phan Bá Bảy.Luận án tiến sỹ luật học:” Những vấn
đề về độc lập xét xử trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta” của Lưu Tiến Dũng- Học viện khoa học xã hội- Viện khoa học xã hội Việt
3
Nam, Bài viết” Bảo đảm sự độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử”
của Tiến sỹ Nguyễn Văn Quân- tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề
tháng 1/2011…
Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những công trình nghiên cứu khoa học,
các đề tài và các bài viết cùng với sự nghiên cứu, tìm hiểu của mình tác giả
luận văn đi sâu vào phân tích nguyên tắc “ thẩm phán và hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ( trên cơ sở số liệu thực tế xét xử tại Tòa
án nhân dân huyện Yên Thành- tỉnh Nghệ An) để thấy rằng việc áp dụng
nguyên tắc trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để việc áp
dụng nguyên tắc thống nhất và có hiệu quả hơn
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích làm sáng tỏ và hoàn
thiện thêm một số vấn đề lý luận chung về vị trí của TAND các cấp
trong bộ máy nhà nước, về khái niệm, nội dung nguyên tắc độc lập của
tòa án, về thực trạng thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật của thẩm phán và hội thẩm nhân dân tại TAND huyện Yên Thành,
qua đó thấy được những mặt hạn chế trong việc đảm bảo nguyên tắc
trong hoạt động xét xử để đưa ra những giải pháp, kiến nghị để nâng cao
hơn nữa tính độc lập của tịa án trong hoạt động xét xử.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài phải làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Phân tích các quy
định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện nguyên tắc độc lập của Tòa án
từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành ,tỉnh Nghệ An. Từ
đó đưa ra một số yêu cầu, giải pháp để hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn
áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: nguyên tắc độc lập trong hoạt
động xét xử của tòa án từ hoạt động của TAND huyện Yên Thành, tỉnh
Nghệ An.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động
xét xử và giải quyết các loại án của TAND huyện Yên Thành
Luận văn đề xuất giải pháp bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt
động xét xử của TAND huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước đối với việc bảo đảm tính độc lập trong xét xử của Tịa
án
6.2.Phương pháp nghiên cứu:Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác Lê Nin mà cụ thể là phép
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, về cải cách tư pháp trong
quá trình xây dựng và đổi mới đất nước. Đồng thời đề tài cũng sử dụng
phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu như phương pháp lôgic, phương
pháp luật học so sánh, phương pháp xác minh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích, hệ thống, lịch sử,, so sánh…
7. Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học có tính hệ
5
thống và toàn diện về nguyên tắc” Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập xét
xử và chỉ tuân theo pháp luật”.Luận văn có ý nghĩa lý luận về bảo đảm thực
hiện nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và
TAND huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong cải cách tư pháp hiện nay.Kết
quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về nguyên tắc Độc lập
xét xử của Tòa án, đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc trên
thực tế
Về mặt thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu của luận văn các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán, hội thẩm nhân
dân xác định đúng đắn về việc đảm bảo nguyên tắc đối với hoạt động xét xử
trên thực tế
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu
cho sinh viên và học viên cao học tại Khoa Luật- Đại học Vinh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được bố trí thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử
của tòa án ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng thực hiện nguyên tắc độc lập trong hoạt động
xét xử của tòa án huyện Yên Thành
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tiếp tục bảo đảm nguyên tắc độc
lập trong hoạt động xét xử của TAND huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tịa án
Để tìm hiểu ngun tắc này trước hết chúng ta phải tìm hiểu vị trí vai
trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bộ máy nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân cơng giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.Tại
điều 2 Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ:” quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước hay nói
cách khác quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua quốc
hội, hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước” (Điều 6
hiến pháp 2013). Quy định như vậy cho thấy nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng
nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp
thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
Quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân là
chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, có ý nghĩa chỉ đạo tổ
chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nói quyền lực nhà
7
nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung
chính trị của nhà nước.
Quyền lập pháp: là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung
của quốc gia. Những người được nhân dân trao cho quyền này là những người
do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội.Thuộc tính
cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân,
bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện qua các đạo luật mà
mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua.
Đồng thời là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà
nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các
quyền mà nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước khơng bị lạm quyền, lộng
quyền hay bị tha hóa.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia
do chính phủ đảm nhiệm.Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của
quyền này là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và
sau khi chính sách quốc gia đó được thơng qua là người tổ chức thực hiện và
quản lý nhà nước mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an
ninh an toàn phát triển xã hội.
Quyền tư pháp là quyền xét xử được nhân dân giao cho tòa án thực
hiện. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất
trong tổ chưc thực hiện quyền này.Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung
của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ
phía cơng dân và cơ quan nhà nước.Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa
vụ tơn trọng và bảo vệ tính pháp quyền và các phán quyết của tòa án
Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính
trị chung là xây dựng nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm
chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
8
công bằng dân chủ văn minh.
Quyền tư pháp được hiểu là quyền bảo vệ công lý, bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Các nước trên
thế giới đều gắn QTP với hoạt động tòa án, coi QTP thuộc về tòa án. Chính vì
vậy các nhà luật học thường coi cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là hệ
thống tịa án.Trong hoạt động của mình, tịa án nhân danh quyền lực tối cao
hoặc nhân danh nhà nước để thực thi pháp luật, bảo đảm công lý.
Khi bàn về quyền tư pháp, điều cốt yếu là cần làm rõ tính độc lập của
quyền này trong cơ chế quyền lực nhà nước. Độc lập của QTP trước hết phải
là sự độc lập của hệ thống các cơ quan tư pháp với tư cách là những chủ thể
của một nhánh quyền lực so với chủ thể của hai nhánh quyền lực còn lại là
quyền lập pháp và quyền hành pháp [49, tr. 21]
Nếu ở nhiều nước ”Tư pháp” là xét xử và cơ quan tư pháp là Tịa án thì
ở Việt Nam, “Tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, là sự trộn lẫn toàn bộ hoạt
động bảo vệ pháp luật mà hoạt động xét xử của Tịa án là trọng tâm. Ngồi ra
còn đề cập đến các hoạt động bổ trợ tư pháp như hoạt động luật sư, giám định
tư pháp, công chứng…[48, tr.26].
Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, QTP và hệ thống cơ quan tư pháp đang là vấn đề được quan tâm.Thực
tiễn hoạt động tư pháp ở nước ta cho thấy thực sự chưa có cơ chế khả thi để
QTP được bảo đảm thực hiện. Nhiệm vụ của công cuộc cải cách tư pháp
chính là làm cho tư pháp trở thành nhánh quyền lực độc lập với lập pháp và
hành pháp, xây dựng cơ chế dể hoạt động tư pháp thực sự độc lập [47].
Quyền tư pháp ở nước ta được hiểu rộng hơn nhiều, xuất phát từ đặc
điểm tổ chức bộ máy quyền lực. Ở Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân.Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân
dân.Ở Việt Nam khơng có sự phân chia quyền lực do đó QTP và cơ quan tư
9
pháp ở Việt Nam có nhiều điểm đặc thù so với các nước trên thế giới
Tịa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã khẳng định:” Tổ chức các cơ quan tư pháp, các chế
định bổ trợ tư pháp hợp lý khoa học và hiện đại về cơ cấu và điều kiện,
phương tiện làm việc; trong đó xác định tịa án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm”
Hiến pháp 2013 đánh dấu giai đoạn mới trong nhận thức về QTP ở Việt
Nam. Lần đầu tiên trong hiến pháp khẳng định rõ”Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” (Điều 102 Hiến pháp 2013). Điều đó thể hiện QTP là quyền xét xử.
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong
những chức năng rất quan trọng của nhà nước Việt Nam được giao cho Tòa
án nhân dân. Tòa án nhân dân có vai trị trong việc giữ gìn an ninh chính trị
trật tự xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội
nhập quốc tế. Tòa án xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân gia đình,
kinh doanh thương mại, các vụ án kinh tế…Tòa án thực hiện các công việc
khác theo pháp luật quy định như: xét miễn giảm các khoản tiền phạt, miễn
giảm hình phạt, ra quyết định thi hành án, xóa án tích… Chỉ có tịa án nhân
dân mới có quyền xét xử và tuyên một người có tội hay khơng có tội. Chủ thể
được nhà nước trao quyền nhân danh nhà nước để thực hiện việc xét xử, ra
các phán quyết đó là hội đồng xét xử, cụ thể là thẩm phán và hội thẩm nhân
dân.
Do tính chất quan trọng của hoạt động xét xử nên pháp luật quy định
việc xét xử phải đảm bảo những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc được hiểu
là “ những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm
việc”Đó thực chất là những quan điểm, tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo, bao trùm,
xuyên suốt bảo đảm cho quá trình tiếp cận, nhận thức hay giải quyết đúng đắn
10
các vấn đề cụ thể. Bởi thế nguyên tắc không thể thiếu trong nhận thức và các
hoạt động thực tiễn của con người.Việc tuân thủ nguyên tắc sẽ đảm bảo cho
các hoạt động đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Cơng tác xét xử của Tịa án
cũng cần tn thủ những nguyên tắc cơ bản: Có thể kể tên một số nguyên tắc
cơ bản như: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc việc xét xử
của tòa án có hội thẩm nhân dân tham gia, khi xét xử hội thẩm ngang quyền
với thẩm phán, nguyên tắc tôa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số,
nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tn theo pháp luật, ngun
tắc tịa án xét xử cơng khai trừ trường hợp do luật định…trong xét xử có vai
trò hết sức quan trọng .
Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án là trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập.
Chính vì vậy nguyên tắc độc lập xét xử được coi là tiền đề nền tảng của hoạt
động tư pháp trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử
được bình đẳng, dân chủ, khách quan. Hoạt động xét xử không phải là hoạt
động của một cá nhân mà là hoạt động của một tập thể, không chỉ là hoạt
động của "quan tịa” mà cịn có sự tham gia giám sát, tham gia xét xử của
nhân dân thông qua những người đại diện của họ, đó là Hội thẩm. Hội thẩm
tham gia vào hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp, đồng thời qua
đó thể hiện sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý Nhà nước nói
chung, hoạt động của Tịa án nói riêng.
Khái niệm “ xét xử “ theo pháp luật hiện hành vẫn chưa được hiểu một
cách thống nhất. Theo nghĩa rộng” xét xử” được hiểu là hoạt động của Tòa án
để nhằm mục đích giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính, hơn nhân gia đình… Khi nói đến xét xử là nói đến hoạt động của
hệ thống tòa án.Theo nghĩa hẹp” xét xử” được hiểu là hoạt động diễn ra tại
các phiên tòa, mà cụ thể là trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dânlà các thành viên của hội đồng xét xử.Tuy nhiên dù hiểu theo nghĩa rộng hay
11
nghĩa hẹp thì từ “ xét xử” trong nguyên tắc” Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng chưa được hiểu một cách
toàn diện, đầy đủ, bởi lẽ: nếu hiểu theo cách thứ nhất, nghĩa là “ xét xử” với
vai trò là hoạt động của cơ quan tịa án thì hoạt động xét xử kể từ thời điểm
thụ lý đươc chánh án phân cơng hồ sơ, vị trí pháp lý của thẩm phán mới phát
sinh, vị trí của hội thẩm lại phát sinh muộn hơn, là kể từ khi có quyết định
phân cơng tham gia phiên tịa của chánh án và khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử của thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án.
Theo cách hiểu thứ hai, hoạt động xét xử chỉ diễn ra tại phiên tịa, trong
khi đó trong khi đó, trước khi mở phiên tòa địa vị pháp lý của thẩm phán, hội
thẩm đã xuất hiện sớm hơn như quá trình điều tra thu thập chứng cứ trong các
vụ dân sự, quá trình nghiên cứu hồ sơ của hội thẩm nhân dân…
Vì vậy khái niệm “ xét xử” được đề cập trong nguyên tắc Độc lập xét
xử phải được hiểu “Xét xử của thẩm phán, hội thẩm nhân dân là hoạt động kể
từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án cho đến khi kết thúc vụ
án
Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp- hoạt động nhân danh
cơng lý và dựa vào cơng lý thì Tịa án phải xét xử như một người đứng giữa,
người trung lập không phụ thuộc vào bên nào. Chỉ xét xử độc lập và tn theo
pháp luật thì Tịa án mới giữ được vai trị là "cán cân cơng lý”, tồn tại đúng
bản chất là cơ quan công lý. Mặt khác nguyên tắc này cịn hình thành xuất
phát từ chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta. Việc xét xử có hội thẩm nhân dân
tham gia được quy định trong các bản hiến pháp và pháp luật thể hiện bản
chất của nhà nước ta là nhà nước "của dân, do dân, vì dân”, hội thẩm nhân
dân chính là người đại diện cho nhân dân tham gia xét xử, giám sát, hạn chế
được tiêu cực trong hoạt động tòa án, giúp cho việc xét xử của Tòa án được rõ
ràng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân
Nguyên tắc này khẳng định trong khi xét xử thẩm phán và hội thẩm
12
nhân dân không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các
nhận định và phán xét cuối cùng của mình để giải quyết vụ án. Mọi cá nhân,
tổ chức không được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là tự mình về việc giải quyết vụ án trên cơ sở
pháp luật mà không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào khác.
Từ những vấn đề nêu trên có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc như
sau:” Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của
nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng theo
đó chỉ có thẩm phán và hội thẩm nhân dân mới có quyền đưa ra phán quyết
trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan,
chính xác mà khơng chịu sự chị phối, tác động bởi cá nhân, tổ chức nào”
Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử
được pháp luật nhiều nước thừa nhận, thường được trực tiếp hoặc gián tiếp
ghi nhận rộng rãi trong Hiến pháp: Điều 97 Hiến pháp cộng hòa liên bang
Đức quy định”Các thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật “. Điều 76 Hiến
pháp Nhật Bản quy định” Tư pháp do Tòa án tối cao và các Tòa án cấp dưới
sử dụng. Khơng thể thiết lập tịa án đặc biệt và khơng có cơ quan nào của
ngành hành pháp được sử dụng QTP chung thẩm. Các Thẩm phán xét xử
theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật một cách triệt
để.”Điều 126 Hiến pháp nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:”Tịa
án nhân dân có quyền độc lập xét xử”.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận rất sớm. Sắc lệnh 13/SL
ngày 24 tháng 1 năm 1946 về tổ chức Tịa án và các ngạch thẩm phán có quy
định:’Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính, các vị thẩm
phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can
thiệp vào tư pháp. Mỗi thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm
của mình.Khơng quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào
13
công việc xử án”
Tiếp đến các bản hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980,
Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và luật tổ chức tòa án nhân dân đều ghi
nhận nguyên tắc này.
1.2. Nội dung của nguyên tắc độc lập trong xét xử của Tòa án
Về lý luận cũng như thực tiễn, sự độc lập của hoạt động xét xử gắn liền
với chủ nghĩa lập hiến chủ quyền nhân dân và nguyên tắc phân quyền trong
việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, mặc dù mức độ phân quyền ở
mỗi quốc gia là khác nhau, tuỳ thuộc vào quá trình phát triển của dân chủ, của
nhà nước và pháp luật đặc biệt là các điều kiện và mức độ phát triển của các
yếu tố thuộc hạ tầng cơ sở xã hội và kinh tế. Điều này thể hiện rõ ở các nước
phát triển hiện đại, nơi mà quyền tư pháp về hình thức cũng như về thực tế đã
có những thay đổi căn bản, nhiều nơi đã trở thành nhánh quyền lực nhà nước
cao nhất. Cùng với q trình dân chủ hố quyền tư pháp, mặc dù là nhánh
quyền lực ít nổi bật hơn so với quyền lập pháp và quyền hành pháp, với
những mức độ khác nhau, đã bắt đầu kiểm soát quyền lập pháp và quyền hành
pháp. Vị trí đó được thể hiện bởi hệ thống tổ chức và thẩm quyền của toà án;
bởi vai trị của các Tồ án trong cơ chế quyền lực nhà nước. Ở nhiều quốc gia
dân chủ (trong đó có Việt Nam), Tồ án có thẩm quyền kiểm sốt các nhánh
quyền lực khác và ra các phán quyết cuối cùng đối với các khiếu kiện về các
hoạt động của các cơ quan nhà nước (mặc dù ở Việt Nam toà hành chính mới
ra đời và thẩm quyền cịn hết sức khiêm tốn). Sự độc lập của hoạt động xét xử
là yếu tố có tính ngun tắc của Nhà nước pháp quyền, là điều kiện để đảm
bảo và củng cố trật tự pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân,
quyền con người.
Trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước thì Tồ án là cơ
quan được tổ chức và thành lập để thực hiện chức năng xét xử, thực hiện
14
quyền tư pháp, bảo vệ cơng lý. Vì thế, trong tư liệu pháp lý, thơng thường
người ta cịn nói đến sự độc lập của Toà án, sự độc lập của quyền Tư pháp.
Nói như thế cũng hồn tồn đúng, bởi vì chỉ có Tồ án mới có quyền xét xử
và hoạt động xét xử là hoạt động tư pháp, thực hiện quyền Tư pháp. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, trong trường hợp đó, xét xử cần được hiểu theo nghĩa
rộng của từ này, nghĩa là toàn bộ hoạt động xem xét, xử lý vụ việc từ khi có
khởi kiện (truy tố, điều tra) cho đến khi phán quyết và thi hành phán quyết đó.
Và mặc dù các hoạt động đơn lẻ của từng khâu, từng giai đoạn của toàn bộ
quá trình tố tụng có thể do nhiều cơ quan bộ phận thực hiện, nhưng theo pháp
luật, điều đó Tồ án (thẩm phán) chỉ đạo và chịu trách nhiệm. Mặt khác, nói
đến độc lập là độc lập của quyền tư pháp, đối với quyền hành pháp và quyền
lập pháp trong hoạt động của mình, hoạt động xét xử. Cịn về mặt tổ chức thì
dù là ở Mỹ, hay ở Đức, ở Pháp, hệ thống Toà án và Thẩm phán đều phải do
Quốc hội (lập pháp) hoặc do Tổng thống (hành pháp) thành lập và bổ nhiệm,
do đó, nói đến quyền tư pháp ở Mỹ, một giáo sư khoa Luật, trường Đại học
New Mexico (Mỹ) đã viết: “Nước Mỹ thừa hưởng 4 truyền thống luật của
nước Anh…Truyền thống thứ nhất: Sự độc lập của ngành tư pháp khơng chỉ
độc lập mà cịn phải chịu trách nhiệm…Hiến pháp quy định rất ngắn gọn như
sau về hệ thống Toà án: - Quyền xét xử của nước Mỹ tập trung vào một toà án
duy nhất đó là Quốc hội. Tồ án tối cao đó là Tồ án duy nhất mà có quyền
lực trong hệ thống tồ án nước Mỹ. Cơng việc đầu tiên của Quốc hội đầu tiên
là xây dựng Tồ án, sản phẩm đó là hai hệ thống Toà án….”
Tại phần 1 Điều thứ ba Hiến pháp nước Mỹ ghi nhận: Quyền Tư pháp
của Hợp chủng quốc do Toà án tối cao và các toà án cấp dưới thực hiện, và
các toà án này đều do Quốc hội tổ chức và thành lập.
Điều 92 Đạo luật cơ bản của Cộng hoà Liên Bang Đức quy đinh: Quyền
tư pháp được tạo cho các Thẩm quyền; quyền đó được thực hiện bởi Tồ án
15
Hiến pháp Liên bang. Các toà án Liên bang được quy định tại Đạo luật cơ bản
này, và các toà án theo lãnh thổ.
Đề cập đến sự độc lập của hoạt động xét xử, Điều 97 Hiến pháp Cộng
hoà Liên bang Đức quy định: “Các thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật”.
Điều 130 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi bổ
sung năm 2001) cũng quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật”.
Rõ ràng là dù ở đâu thì Tồ án cũng là một bộ phận trong cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước. Về tổ chức, toà án và thẩm phán đều do Quốc hội và
(hoặc) Tổng thống tổ chức và thành lập (thành lập Tồ án và bổ nhiệm Thẩm
phán). Do đó, không thể đặt vấn đề về sự độc lập của Tồ án mà khơng xem
xét nó trong mối liên hệ tổng thể nhưng có sự tách bạch về tổ chức và hoạt
động của mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước
Khái niệm độc lập xét xử theo quy định của Hiến pháp Việt Nam có thể
hiểu là việc xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của tịa án, khơng phụ thuộc
vào bất kỳ ai ngồi những người có thẩm quyền xét xử.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện
quyền tư pháp.
Độc lập xét xử được xuất hiện từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
thành quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của Montesquies” Khơng có gì là tự
do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành
pháp”. Độc lập xét xử là một thuộc tính khơng thể thiếu trong hoạt động xét xử
của bất kỳ quốc gia nào.
Lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu thì sự độc lập được biểu
hiện trên hai khía cạnh: độc lập với các yếu tố khách quan và độc lập với các
yếu tố chủ quan.
Thứ nhất: độc lập với các yếu tố khách quan:
- Độc lập với các chủ thể khác của tòa án: sở dĩ phải nghiên cứu về vấn
16
đề thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập với các chủ thể khác của tịa án vì
giữa họ có mối quan hệ có thể tác động, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét
xử.
Có thể thấy rằng trong quá trình giải quyết các vụ án, giữa thẩm phán,
hội thẩm nhân dân sẽ xuất hiện các mối quan hệ như: Mối quan hệ giữa thẩm
phán, hội thẩm nhân dân với chánh án tòa án cùng cấp, quan hệ giữa thẩmm
phán với các đồng nghiệp trong cùng đơn vị, quan hệ giữa thẩm phán với
chánh án tòa án cấp trên, quan hệ giữa hội thẩm với chánh án nhân dân cùng
cấp. Những mối quan hệ này không chỉ đơn thuần là quan hệ về tổ chức hành
chính, càng khơng chỉ là quan hệ tố tụng.Trong quan hệ hành chính có quan
hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có quan hệ hành chính nhất định, khơng
có sự tách bạch rõ ràng. Tiêu chí để có thể bổ nhiệm thẩm phán là người phải
có phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ theo pháp luật quy định, được cơ
quan đang công tác đánh giá thơng qua việc bỏ phiếu tín nhiệm. Chánh án
cùng cấp là người đứng đầu vừa là người sử dụng cán bộ và là người quản lý
cán bộ, chánh án có tiếng nói nhất định trong việc đánh giá, định hướng, lựa
chọn trong việc cử cán bộ đi học các lớp đào tạo nghiệp vụ, qua đó quyết định
việc cho cán bộ tham gia kỳ thi tuyển chọn thẩm phán. Chánh án TAND tối
cao là chủ tịch hội đồng tuyển chọn giám sát thẩm phán quốc gia, chánh án
TAND tối cao trình quốc hội đề nghị miễn nhiệm, cách chức thẩm phán
TAND tối cao, chánh án TAND tối cao trình chủ tịch nước đề nghị miễn
nhiệm, cách chức thẩm phán các tòa án khác.
Đối với hội thẩm nhân dân, mặt trận tổ quốc lựa chọn hội thẩm nhân
dân trên cơ sở về trình độ hiểu biết pháp luật, tiêu chuẩn về đạo đức để đưa ra
danh sách bầu hội thẩm nhân dân tại kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp.
Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân. Hội
thẩm nhân dân sau khi được bầu qua các kỳ đại hội sẽ tham gia xét xử cùng
với tòa án Hội thẩm nhân dân là người đại diện cho quyền lợi, ý chí của nhân
17
dân. Khi tham gia xét xử sẽ xuất hiện mối quan hệ với chánh án cùng cấp và
chánh án cấp trên, tuân thủ các quy định của pháp luật, tham gia các đợt tập
huấn nghiệp vụ xét xử do Tòa án tổ chức.
Như vậy, có thể nói thẩm phán và hội thẩm chịu sự quản lý của chánh
án cùng cấp và chánh án cấp trên.
Trong hoạt động "họp bàn án” trước mỗi phiên xét xử cũng thể hiện việc
chánh án tác động đến tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân
dân.Cụ thể hơn, mặc dù luật quy định” chỉ có thẩm phán và hội thẩm nhân dân
mới có quyền nghị án”, tuy nhiên rất nhiều vụ án trong lúc nghị án các thẩm
phán còn tranh thủ ý kiến của chánh án, nghị án theo hướng chỉ đạo của chánh
án. Hơn nữa việc tòa án cấp trên có quyền "hủy án” của tịa án cấp dưới, tỷ lệ
án hủy trong một nhiệm kỳ dẫn đến khó khăn trong cơng tác tái bổ nhiệm cũng
ảnh hưởng tới tính độc lập của tịa án, từ đó nảy sinh vấn đề” thỉnh thị án’ của
tòa cấp dưới với tòa cấp trên.Do đó địi hỏi thẩm phán và hội thẩm nhân dân
trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án cần phải có chính kiến rõ ràng trong
việc đánh giá chứng cứ, nhận định tội phạm, tranh chấp từ đó đưa ra quyết định
của bản án đảm bảo tính đúng đắn chính xác cao. Mặc dù pháp luật quy định về
vấn đề hủy bản án để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm các vụ án bị hủy nhưng
không có nghĩa là trong nhận định hủy bản án đó tòa án phúc thẩm đưa ra các
điều luật cấp sơ thẩm cần phải áp dụng khi xét xử lại, điều đó đảm bảo tính
cơng bằng, khách quan. Khi án bị hủy để xét xử lại tòa án cấp sơ thẩm cũng
phải xem xét lại các lý do tòa án cấp trên hủy án, từ đó xem xét tồn diện, đầy
đủ các chứng cứ để xét xử lại cho chính xác, nếu tòa án cấp trên hủy án thiếu
căn cứ, hủy sai thì tịa cấp dưới cũng cần có chính kiến bảo vệ quan điểm của
hội đồng xét xử. Độc lập với chánh án, tịa án cấp trên cũng khơng có nghĩa là
không lắng nghe, tiếp thu ý kiến. chỉ chăm chăm bảo thủ, đưa ra quyết định dựa
trên ý kiến chủ quan của mình. Việc tranh thủ ý kiến của chánh án, thẩm phán,
tòa án cấp trên để áp dụng thống nhất pháp luật, hạn chế sai sót do lỗi chủ quan
18
của thẩm phán, hội thẩm là việc làm hết sức cần thiết, bản thân nó có ý nghĩa
tích cực. Điều quan trọng là không được lạm dụng mối quan hệ dẫn đến việc
thụ động trong giải quyết án, không đảm bảo khách quan, độc lập
-Vấn đề thứ hai trong vấn đề độc lập với các yếu tố khách quan chính là
sự độc lập của Tịa án chính là sự độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng:
Đặc trưng cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước; Đảng ra nghị quyết, chỉ thị, đề ra chủ
trương đường lối, chính sách. Đào tạo và giới thiệu những cá nhân ưu tú đứng
vào đội ngũ của đảng, giới thiệu các đảng viên vào các cơ quan nhà nước,
giám sát hoạt động của các đảng viên và các tổ chức Đảng trong cơ quan đó.
TAND cũng là một cơ quan trong bộ máy nhà nước nên cũng đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 cũng nhấn mạnh đến sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan tư pháp: "… Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai
trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với
hoạt động tư pháp”
Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, tòa án chịu sự lãnh đạo của Đảng
thơng qua cấp ủy địa phương. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức Đảng với
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ
thể, cũng không cho phép ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Ngoài ra
giữa tổ chức Đảng và thẩm phán cịn có mối quan hệ ngồi đảng viên với tổ
chức cơ sở đảng thơng qua thủ tục bổ nhiệm thẩm phán. Nghĩa là muốn được
bổ nhiệm thẩm phán ngoài các quy định của ngành dọc thì phải được sự chấp
thuận của cấp ủy địa phương nơi cán bộ được bổ nhiệm làm thẩm phán. Từ đó
có thể thấy Đảng chỉ đạo TAND xét xử các vụ án đúng người đúng tội, đúng
pháp luật. Đối với các vụ án có tính ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an trên địa
bàn, cấp ủy lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo tòa án xét xử đảm bảo tính nghiêm
minh, trừng trị kẻ phạm tội.
19
Ngoài việc độc lập với chánh án, độc lập với cấp ủy Đảng, hội thẩm,
thẩm phán còn phải độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Độc lập với
các tài liệu có trong hồ sơ vụ án khơng có nghĩa là thốt ly khỏi các thơng tin
đó mà nhiệm vụ của hội đồng xét xử là phải nghiên cứu và đánh giá các thơng
tin đó xem đúng hay sai. Phải đề cao việc tranh tụng tại tịa để đưa ra nhận
định đúng đắn chính xác
Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân còn phải độc lập với cơ quan
báo chí, người tham gia tố tụng, với dư luận: Một vụ án khi đưa ra xét xử và
khi đưa ra phán quyết cuối cùng chịu rất nhiều luồng thơng tin từ dư luận, báo
chí, người tham gia tố tụng.Đặc biệt là các vụ án hình sự điển hình, các vụ
tranh chấp dân sự các bên đối lập nhau về quyền lợi. Điều này tạo ra áp lực
đối với thẩm phán và hội đồng xét xử nói riêng và với tịa án nói chung. Do
đó địi hỏi tính độc lập khi xét xử, bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp
của người cầm cân nảy mực
Thứ hai: Độc lập với các yếu tố chủ quan.
Đó chính là độc lập giữa các thành viên trong hội đồng xét xử.Hội đồng
xét xử gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Thành phần cụ thể tùy vào tính
chất của từng vụ án và tùy vào từng cấp xét xử.Với mỗi vụ án, thẩm phán, hội
thẩm nhân dân cùng nhau làm việc để cùng cho ra sản phẩm chính là các bản
án hoặc quyết định trên cơ sở biểu quyết theo đa số. Điều này được ghi nhận
trong Hiến pháp” việc xét xử của tịa án có hội thẩm nhân dân tham gia” "Khi
xét xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán”có nghĩa là mỗi thành viên trong
hội đồng xét xử có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra
kết luận vụ án. Việc đánh giá, kết luận thực hiện một cách độc lập.Thẩm phán
không chỉ đạo hội thẩm, hội thẩm cũng không được ỷ lại
Tại phịng nghị án, mỗi thành viên có quyền độc lập suy nghĩ, đánh giá sự
việc trên cơ sở các điều luật quy định về tội danh, hình phạt, nội dung vụ án
dân sự…mà không phụ thuộc vào ý kiến của thành viên khác trong hội đồng.
20
Thẩm phán và hội thẩm nhân dân có quyền đưa ra chính kiến của mình về
việc giải quyết vụ án, sau đó trên cơ sở ý kiến đa số sẽ quyết định hướng giải
quyết vụ án. Ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu tại hồ sơ vụ án.Quy định này
góp phần khuyến khích sự độc lập của các thành viên trong hội đồng xét xử.
Trước khi mở phiên tòa, tòa án tạo điều kiện để hội thẩm tham gia nghiên cứu
trước hồ sơ, từ đó có chính kiến cá nhân về vụ án. Khi cần thiết tòa án, thẩm
phán còn phải cung cấp, hướng dẫn các quy định của pháp luật liên quan đến
vụ án để hội thẩm nghiên cứu.Thẩm phán không được đưa ra định hướng
trước về quan điểm giải quyết vụ án, tại phiên tòa thẩm phán không được hạn
chế quyền tham gia xét hỏi của hội thẩm. Những quy định đó nhằm hạn chế
việc thẩm phán lạm quyền, ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán trong
quá trình xét xử.
Tuy nhiên quá trình xét xử muốn độc lập thì phải tuân theo pháp luật.
Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là
khi xét xử tịa án khơng có cấp trên, cấp trên của tịa án chính là pháp luật”
Cấp trên của quan tòa là pháp luật” (Các Mác). Thẩm phán, hội thẩm độc lập
xét xử khơng có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân thủ theo các
quy định của pháp luật, bảo đảm tính thượng tơn pháp luật. Thẩm phán, hội
thẩm nhân dân được nhân danh nhà nước để giải quyết các loại vụ án, các
tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật.
Thẩm phán, hội thẩm là những người có đủ điều kiện luật tổ chức tịa
án nhân dân. Theo đó, Thẩm phán là công dân nước Việt Nam, trung thành
với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm
và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử nhân
luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm cơng tác thực
tiễn pháp luật, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao" (Điều
67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân). Về tiêu chuẩn của hội thẩm, điều 85 luật