Khoa Sƣ phạm Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Vinh
Điện: thoại: 0984. 460. 579
Email:
RÈN
LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƢ
PHẠM VỚI VẤN
ĐỀ NÂNG CAO
CHẤT
LƢỢNG
ĐÀO TẠO GIÁO
VIÊN NGỮ VĂN
ThS. ĐẶNG HỒNG
OANH
TĨM TẮT
Trình độ chun mơn của giáo viên là một trong những khâu then chốt quyết
định chất lƣợng giáo dục. Trong chƣơng trình đào tạo giáo viên Ngữ văn của các trƣờng
đại học sƣ phạm, bên cạnh việc trang bị các tri thức khoa học cơ bản (văn học, ngơn
ngữ), thì các tri thức liên quan đến nghề dạy học (tâm lý giáo dục, phƣơng pháp dạy
học) đóng vai trị hết sức quan trọng. Để biến các tri thức thành kỹ năng thì việc rèn
luyện nghiệp vụ sƣ phạm cho sinh viên cần phải đƣợc đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên,
việc cung cấp tri thức nghề và rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm cho sinh viên Ngữ văn bấy
lâu nay vẫn không tránh khỏi những bất cập. Bài viết này của chúng tơi sẽ tập trung
phân tích thực trạng này và bƣớc đầu mạnh dạn đề ra một số giải pháp.
Từ khóa: chất lƣợng giáo dục, kĩ năng, nghiệp vụ sƣ phạm, bất cập, giải pháp.
ABSTRACT
Pedagogical Vocation Training and Improving the Quality of Pholology Pedagogical
Teacher Traning
The professional qualification of teacher is one of the most important section
that might decide the quality of education. In teacher training programme of pedagogic
universities, beside the basic scientific knowledges (such as literature, language),
education sciences (educational psychology, teaching methods) also play a very
important role. The process by which knowledge is transformed into skills need to be
focused on the pedagogical training. However, there have been some restrictions on this
pedagogical training process for philology students. This article analyses this current
situation and offers some solutions to solve these restrictions.
818
Key words: Quality of education, skill, pedagogical training, restriction,
solution.
1.
Vấn đề đổi mới nền giáo dục Việt Nam hiện nay là một vấn đề cấp bách. Nhiều
hội thảo khoa học đã đƣợc tổ chức nhằm tìm kiếm một tiếng nói chung, đề xuất các giải
pháp để nâng cao chất lƣợng giáo dục. Dù có nhiều ý kiến trái chiều, nhƣng có thể thấy,
điều đáng quan tâm nhất hiện nay chính là yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam theo
hƣớng toàn diện, triệt để, trong đó, việc đào tạo giáo viên là mắt xích hết sức quan
trọng. Để hồn thiện quy trình đào tạo giáo viên, phải ln nhận thức đƣợc mối liên hệ
chặt chẽ đƣợc giữa khoa học cơ bản của ngành và khoa học giáo dục. Nghĩa là, trong
nhiều khâu (hoàn thiện những tri thức khoa học cơ bản và khoa học chuyên sâu của
ngành) thì rất cần chú trọng khâu học nghề (tức là rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm). Đây
đƣợc xem là một khâu then chốt quyết định năng lực của ngƣời giáo viên tƣơng lai.
2.
Mỗi nghề nghiệp đều đòi hỏi những kĩ năng nghề nghiệp cụ thể, địi hỏi tính
chun mơn nghiệp vụ cao. Nghề dạy học cũng khơng nằm ngồi thơng lệ ấy. Về phía
ngƣời dạy, năng lực phải đƣợc tích lũy từ sự kết hợp giữa kiến thức lý thuyết, chuyển
hóa thơng qua những kĩ năng nghiệp vụ sƣ phạm. Giáo dục hiện đại có sự thay đổi căn
bản về quan điểm dạy học: chuyển từ “lấy thầy làm trung tâm” sang “lấy trò làm trung
tâm”, “giáo dục hƣớng về ngƣời học”, trong đó, trị là chủ thể, thầy đóng vai trị là
ngƣời tổ chức q trình dạy học. Nhƣ vậy, vai trị của ngƣời thầy không hề bị “lép vế”.
Thực tế giáo dục đã chứng minh hồn tồn ngƣợc lại. Phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh bao nhiêu thì càng phải tăng cƣờng vai trò chủ động, định hƣớng của ngƣời
dạy bấy nhiêu. Một trong những nhân tố quyết định chất lƣợng giáo dục vẫn là ngƣời
dạy. Vì thế, hoạt động rèn luyện nghiệp vụ trong các khoa, các trƣờng đại học sƣ phạm
thực sự là đòi hỏi bức thiết.
2.1. Rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm vốn là hoạt động rất đƣợc quan tâm tại các trƣờng đại
học sƣ phạm. Đây là một hoạt động vận dụng triệt để phƣơng pháp tích hợp: một mặt,
tích hợp nhiều mơn học nhƣ tâm lý học, giáo dục học (vốn là những phân môn cơ bản
mà sinh viên đƣợc tiếp cận từ những năm đầu tiên ngồi trên ghế nhà trƣờng), phƣơng
pháp dạy học, mặt khác, năng lực của sinh viên sƣ phạm đƣợc đánh giá thông qua
những kĩ năng cụ thể nhƣ soạn giáo án, tập giảng, tham gia các hội thi nghiệp vụ sƣ
phạm, kiến tập, thực tập... Nhƣ vậy, năng lực của ngƣời giáo viên tƣơng lai không chỉ
đƣợc đánh giá trong những kết quả học tập rèn luyện cụ thể, mà phải đƣợc đánh giá toàn
diện trong một quá trình tham gia những hoạt động nhóm, những giờ hoạt động thực
819
hành, khả năng nắm bắt và chuyển hóa kiến thức lý thuyết thành những kĩ năng xử lý
trong các trƣờng hợp cụ thể. Từ đó, có thể khẳng định, hoạt động rèn nghề cho sinh viên
là một trong những hoạt động trọng tâm và chun mơn hóa cao của các trƣờng đại học
sƣ phạm, các khoa sƣ phạm. Hằng năm, ở đó ln tổ chức các tháng rèn nghề trọng
điểm, trong đó có tháng rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm. Trong quãng thời gian này, sinh
viên sƣ phạm có cơ hội để tham gia nhiều chuỗi hoạt bổ ích nhƣ tập giảng, thi giảng, hội
thi nghiệp vụ sƣ phạm... Những hội thi nghiệp vụ sƣ phạm cấp khoa, cấp trƣờng, và
thậm chí là tồn quốc đã thu hút sự quan tâm của các cá nhân và tập thể, các cấp ngành
đào tạo, và cũng là sân chơi để sinh viên sƣ phạm thể hiện tri thức và kĩ năng của mình.
Tuy nhiên, phải thấy một thực tế rằng, những cuộc thi nhƣ vậy vẫn mang nặng tính chất
của một hoạt động phong trào bề nổi. Thành phần tham gia cũng chỉ là một vài nhóm cá
nhân nổi bật chứ khơng phải là tồn thể sinh viên sƣ phạm (nếu có cũng chỉ với tƣ cách
là những khán giả), và khi những "hào quang" trên sân khấu qua đi, trở về với sinh hoạt
và học tập, sinh viên lại phải đối mặt với một thực tế khơng lấy gì làm sáng sủa. Nhiều
vấn đề nan giải vẫn khơng dễ tìm câu trả lời. Những bất cập trong việc rèn nghề cho
sinh viên vẫn cịn đó. Chung qui, đó là những điều đã từng đƣợc nói nhiều, nhƣng chƣa
bao giờ mất tính thời sự.
Thứ nhất, chƣơng trình đào tạo vẫn mang nặng tính hàn lâm. Trong quãng thời
gian 4 năm ngồi trên ghế nhà trƣờng, sinh viên phải “tiêu hóa” một hệ thống kiến thức
khá lớn. Hệ thống tri thức đó gồm môn chung và môn riêng, môn cơ sở và môn chuyên
ngành, môn tự chọn, môn bắt buộc... Những môn chung hay môn cơ sở thƣờng đƣợc
phân bố ở thời gian đầu của khóa học, với lƣợng kiến thức khơng phải là nhỏ (có những
mơn, thậm chí kéo dài ở những học kì sau). Sang năm thứ 3, năm thứ 4, sinh viên sƣ
phạm càng phải đối diện với những môn học mang tính chất chun mơn hóa cao, u
cầu về tìm tịi và nghiên cứu tƣ liệu, giáo trình vì thế càng khắt khe. Dĩ nhiên, không thể
phủ nhận rằng, chất lƣợng của sinh viên sƣ phạm cũng phụ thuộc một phần ở những
kiến thức cơ bản mà họ đƣợc tiếp thu. Nhƣng, nếu kiến thức mang nặng tính hàn lâm có
phần lấn át những tri thức gắn với nghiệp vụ sƣ phạm thì hệ quả có khi ngƣợc lại với
mục đích đào tạo. Việc đào tạo theo hình thức tín chỉ cũng gây áp lực khơng nhỏ cho
sinh viên so với hình thức đào tạo theo niên chế nhƣ trƣớc đây. Vẫn biết rằng, chuyển
đổi sang hình thức đào tạo theo tín chỉ là đi theo xu thế giáo dục của thế giới, ngƣời học
sẽ chủ động sắp xếp thời gian, lựa chọn môn học, lựa chọn ngƣời dạy, chủ động điều
chỉnh (hoặc rút ngắn hoặc kéo dài) thời gian đào tạo của mình. Tuy nhiên, đối với
những sinh viên vẫn cịn bỡ ngỡ với hình thức này (mà số lƣợng khơng phải là ít), việc
nắm vững khung chƣơng trình đào tạo, đăng kí học hợp lý vẫn là một thách thức. Thực
tế cho thấy, phần đa sinh viên ln tất bật “chạy theo” chƣơng trình học để “trả nợ tín
chỉ”. Đó là chƣa nói đến sự khập khiễng giữa lý thuyết với thực hành. Cho nên, không
820
có gì khó hiểu khi phần lớn sinh viên sƣ phạm bộc lộ nhiều non yếu về kỹ năng nghề
nghiệp.
Thứ hai, thời gian dành cho việc rèn nghề của sinh viên chƣa thích đáng. Thời
gian dành cho hoạt động tập giảng không nhiều, đã vậy, thời gian thực hành lại đƣợc
phân bố vào cuối khóa học (tức là năm thứ 4). Nhƣ đã nói trên, ở các trƣờng đại học sƣ
phạm, mỗi năm đều có một tháng trọng điểm, chính là tháng rèn luyện nghiệp vụ sƣ
phạm. Ngoài những hoạt động mang tính chất bề nổi nhƣ thi nghiệp vụ sƣ phạm, thi
giảng, thi viết chữ đẹp hay đồ dùng dạy học, hoạt động tập giảng của sinh viên sƣ phạm
cũng đƣợc triển khai trong quãng thời gian này. Ngoài lịch giảng dạy và học tập bình
thƣờng, cả thầy và trò của các khoa sƣ phạm đều phải “tranh thủ” thời gian cho thực
hành. Chỉ trong khoảng thời gian ít ỏi, mỗi sinh viên chỉ đƣợc tập giảng một tiết để nhận
sự đánh giá của giáo viên, do vậy, việc hình thành những kĩ năng, tác phong, nghiệp vụ
sƣ phạm là điều xa vời. Để một tiết dạy thành công, ngoài việc nắm vững kiến thức bài
học, ngƣời dạy phải có kĩ năng sƣ phạm vững vàng, tác phong linh hoạt - những điều
cần một khoảng thời gian để luyện tập, bồi dƣỡng chứ khơng thể hình thành trong ngày
một ngày hai. Chính cách tổ chức bố trí thời gian tập giảng quá gấp gáp và ít ỏi cũng là
một nguyên nhân dẫn đến sự non yếu trong nghiệp vụ của sinh viên.
2.2. Chúng tôi muốn dừng lại bàn thêm về hoạt động tập giảng của sinh viên, bởi đây
chính là hoạt động trung tâm, quan trọng nhất của sinh viên trong quá trình rèn nghề.
Qua nhiều năm tham gia hƣớng dẫn, đánh giá việc tập giảng của sinh viên, chúng tôi
hiểu thêm về thực trạng chung mà sinh viên sƣ phạm gặp phải, đó chính là sự non yếu
về phƣơng pháp dạy học. Không thể không đặt ra những thắc mắc: tại sao sinh viên sƣ
phạm hiện nay lại yếu về khâu thực hành nhƣ thế trong khi các em đã đƣợc học hết
những học phần của ngữ và văn, lý luận văn học, và đặc biệt là bộ mơn phƣơng pháp?
Tại sao có những sinh viên học rất khá, nhƣng lại không thể thực hiện một bài dạy chỉn
chu, bài bản đúng nhƣ yêu cầu của chƣơng trình phổ thông? Trong tập giảng, sinh viên
thƣờng mắc một số lỗi khá phổ biến, chẳng hạn, khơng kiểm sốt đƣợc thời gian dạy
học (thƣờng rơi vào một trong hai khả năng: hoặc khơng làm chủ đƣợc bài dạy, nói lan
man, khơng có trọng tâm, cho nên giờ thì hết mà bài không chịu hết; hoặc là không biết
cách triển khai bài giảng nên dẫn đến tính trạng thừa thời gian, khơng cịn gì để nói);
khơng có sự chủ động trong hoạt động dạy học, giao tiếp với học sinh còn hạn chế khiến
bài dạy có rất nhiều thời gian chết và những “điểm mù”; trình bày bảng luộm thuộm;
chƣa biết cách kết hợp giữa nói và viết...
2.2.1. Những hạn chế nêu trên có thể do nhiều nguyên nhân. Bƣớc đầu, chúng tôi xin
nêu mấy nguyên nhân sau
Thứ nhất, sinh viên cịn bỡ ngỡ khi tiếp xúc với chƣơng trình phổ thông. Dù
đƣợc trang bị nhiều kiến thức nền tảng về ngữ văn, về lý luận và phƣơng pháp, nhƣng
821
khi tiếp xúc với nội dung chƣơng trình ngữ văn ở phổ thông, các em vẫn chƣa nắm
vững phân phối chƣơng trình, dù trên thực tế, đây chính là phạm vi kiến thức mà các em
phải tiếp xúc thƣờng xuyên, là yếu tố liên quan trực tiếp nhất đến nghề nghiệp của các
em trong tƣơng lai.
Thứ hai, chính vì cịn bỡ ngỡ khi làm việc với sách giáo khoa ngữ văn nên sinh
viên thƣờng phụ thuộc nhiều vào những tài liệu thiết kế bài giảng. Hiện nay, kiểu tài
liệu này đƣợc bày bán trên thị trƣờng rất nhiều. Một số cuốn sách thiết kế đƣợc các nhà
soạn sách uy tín biên soạn sẽ là tƣ liệu hết sức cần thiết để sinh viên tham khảo cách
soạn giáo án. Tuy nhiên, bên cạnh đó có khơng ít những tài liệu đƣợc viết ra nhằm mục
đích thu lợi nhuận, khơng đảm bảo chất lƣợng, thậm chí phản tác dụng nếu nhìn từ góc
độ phƣơng pháp. Khơng thể phủ nhận rằng, đối với những sinh viên sƣ phạm lần đầu
soạn giáo án để đứng lớp, những tài liệu tham khảo tốt sẽ giúp định hƣớng rất nhiều.
Nhƣng nếu quá phụ thuộc vào chúng, ngƣời dạy sẽ mất đi tính tích cực chủ động và sự
linh hoạt khéo léo khi xử lý bài dạy. Hệ quả của điều đó chính là sự lúng túng và phụ
thuộc nhiều vào giáo án khi dạy học.
Thứ ba, sinh viên thiếu sự đam mê với nghề, thiếu sự nhiệt huyết với công việc.
Đôi khi, áp lực của lần đầu tiên đứng lớp (áp lực về việc đảm bảo thời gian, áp lực về
chuẩn kiến thức, áp lực trong việc giao tiếp với học sinh) khiến sinh viên sƣ phạm tự gị
mình vào những khn mẫu cứng nhắc. Chúng tơi nhận thấy hầu hết các em chỉ làm
trịn vai của mình thơi chứ chƣa thực sự nhập cuộc với sự hứng khởi và say mê. Hiện
nay, rất nhiều sinh viên có ý thức sử dụng các phƣơng tiện dạy học trực quan (nhƣ sách,
tranh, ảnh, bảng phụ) để minh họa cho tiết dạy của mình, đồng thời áp dụng những
phƣơng pháp dạy học tích cực (chia nhóm thảo luận, làm phiếu học tập...). Tuy nhiên,
chỉ một số ít sinh viên biết cách sử dụng những dụng cụ dạy học một các hiệu quả, phát
huy tối đa vai trò của nó, cịn lại chỉ mang tính chất hình thức, đối phó.
Thứ tƣ, khả năng sử dụng ngơn ngữ nói cịn nhiều hạn chế. Ngơn ngữ đóng một
vai trị quan trọng trong hoạt động giảng dạy. Nhƣng đây lại là một trong những điểm
yếu rất phổ biến của sinh viên sƣ phạm. Ngơn ngữ trong dạy học có nét đặt trƣng so với
những nghề khác, đó là ngơn ngữ diễn giảng kết hợp với ngôn ngữ đối thoại trực tiếp
với ngƣời học. Ngồi sự hoạt ngơn, khả năng lập luận, sự biểu cảm, ngƣời dạy còn phải
biết linh hoạt ứng biến trƣớc các tình huống giao tiếp với học sinh. Đây là kĩ năng mềm
mà bất kì sinh viên nào cũng phải trau dồi, bồi dƣỡng. Hoạt động rèn luyện nghiệp vụ
sƣ phạm cũng hƣớng đến kĩ năng này. Trong những nội dung của cuộc thi nghiệp vụ sƣ
phạm hằng năm, không bao giờ thiếu phần thi diễn thuyết, hùng biện. Nhƣng ở phần thi
này, thƣờng diễn giả đã học thuộc lòng bài viết về một chủ đề cho trƣớc, nên tác dụng
rèn luyện khơng cao. Vì thế, ngay cả những diễn giả từng đạt điểm cao khi thi hùng
822
biện, lúc đứng lớp, vẫn bộc lộ nhiều nhƣợc điểm: nói khơng linh hoạt, thiếu sự chủ động
trong xử lý các tính huống sƣ phạm.
2.2.2. Những nhƣợc điểm kể trên đã đƣợc chứng minh qua các kì thực tập sƣ phạm.
Vốn kiến thức chƣa vững, cộng với kĩ năng sƣ phạm còn khá mỏng, sinh viên khi đi
thực tập đã gặp khơng ít khó khăn và bỡ ngỡ. Những khó khăn ấy không hẳn là những
vấp váp đầu tiên trong cơng việc, nhƣng phải nói rằng, qng thời gian gần hai tháng ở
trƣờng phổ thông trung học là những thời gian trải nghiệm chân thật nhất, một tiết dạy
trƣớc học sinh phổ thông dƣới sự đánh giá của những ngƣời giáo viên vốn đã dày dặn
kinh nghiệm trong nghề hoàn toàn khác xa một tiết tập giảng trên giảng đƣờng đại học.
Lúc đó, những kĩ năng, tri thức đã đƣợc tiếp thu, đƣợc bồi đắp ở trƣờng đại học, đặc
biệt là những kiến thức về nghiệp vụ sƣ phạm trở nên quý giá và có ý nghĩa thiết thực.
3.
Trƣớc những thực trạng nhƣ vậy, thiết nghĩ cần phải đề ra những giải pháp cụ
thể và có tính thực tiễn để nâng cao kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên. Vấn đề quan
trọng nhất, theo chúng tơi chính là tổ chức lại hoạt động rèn nghề sao cho hiệu quả đối
với mỗi sinh viên chứ khơng chỉ có ích đối với một nhóm nổi bật. Hãy biến những cuộc
thi nghiệp vụ sƣ phạm thành những diễn đàn rèn nghề, nơi mỗi sinh viên đều đƣợc thể
hiện quan điểm của mình, đều đƣợc tham gia thử sức. Chẳng hạn, việc tổ chức cuộc thi
viết bảng hoặc soạn giáo án trong khắp sinh viên khoa sƣ phạm sẽ là một phong trào có
ý nghĩa khích lệ tinh thần tham gia tích cực chủ động của các em.
Đối với hoạt động tập giảng và thực tập, kiến tập, cần phải “tích hợp” nhiều giải
pháp cụ thể, đa chiều, từ nhiều cấp hữu quan, nhắm tới một số giải pháp sau:
- Cần phải tạo ra một môi trƣờng “thuần sƣ phạm” trong đào tạo. Một mặt, nâng
cao tiêu chí, vai trị, nhiệm vụ của một khoa sƣ phạm, mặt khác, phải tăng cƣờng những
học phần phƣơng pháp hay những học phần mang đậm “tính chất sƣ phạm” trong đào
tạo để sinh viên có điều kiện đƣợc bồi dƣỡng những tri thức ngành cần thiết. Phải đảm
bảo sự cân xứng giữa khoa học cơ bản ngành và khoa học giáo dục.
- Thiết lập mối liên kết giữa chƣơng trình phổ thơng và chƣơng trình đại học.
Chẳng hạn ở mỗi học phần nhƣ Văn học Việt Nam, Văn học nƣớc ngồi, Ngơn ngữ hay
Lý luận văn học, giảng viên nên có thói quen liên hệ thực tế nội dung của phân mơn
mình với những nội dung đƣợc biên soạn trong sách giáo khoa ở chƣơng trình phổ
thơng. Nhƣ thế, một mặt, sinh viên sẽ đƣợc tiếp xúc với chƣơng trình phổ thơng sớm
hơn, nhiều hơn mặt khác những tri thức về ngữ, về văn sẽ là nền tảng vững chắc cho
việc tiếp cận, phân tích những tác phẩm trong sách giáo khoa sau này.
823
- Phân bố thời gian đồng đều cho hoạt động tập giảng của sinh viên. Nên cho
sinh viên sƣ phạm tiếp xúc với công việc đứng lớp từ năm thứ hai, thứ ba ở đại học chứ
không nên để đến năm thứ tƣ mới tổ chức hoạt động tập giảng cho sinh viên.
- Cần phải tổ chức những chuyến thực tế của giảng viên khoa sƣ phạm tới các
trƣờng trung học phổ thông nơi sinh viên đang thực tập nghề để dự giờ, đánh giá, từ đó
có cái nhìn tồn diện về khả năng thích ứng của các em ở môi trƣờng trung học cũng
nhƣ những cái đƣợc – chƣa đƣợc trong việc dạy học.
Rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm cho sinh viên là "câu chuyện trƣờng thiên".
Những ý kiến của chúng tôi trong bài viết nhỏ này cũng chỉ mới là một góc nhìn, mặt
khác, dừng lại nhiều hơn ở việc nêu lên thực trạng. Một vài đề xuất bƣớc đầu mới chỉ có
tính chất gợi mở. Hiệu lực của nó phụ thuộc rất nhiều ở cách thực thi của các đối tƣợng
liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Dũng, (2013), “Những bất cập trong việc dạy nghề cho sinh viên sƣ
phạm”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Về dạy học Ngữ văn ở trƣờng phổ thông
Việt Nam, Nxb. Đại học Sƣ phạm, tr.981-986.
2. Phan Trọng Luận, (2013), “Về đào tạo nghiệp vụ sƣ phạm ở các trƣờng Sƣ phạm”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Về dạy học Ngữ văn ở trƣờng phổ thông Việt Nam,
Nxb. Đại học Sƣ phạm, tr.1053-1058.
3. Bùi Minh Tuấn, “Nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên, vai trò của trƣờng sƣ phạm
rất lớn”, www.baomoi.com
824