Khoa Sƣ phạm Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Vinh
Điện thoại: 0912033753
Email:
THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
THI CỬ – ĐÁNH GIÁ
Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI
HỌC CÓ ĐÀO TẠO
SINH VIÊN SƢ PHẠM
NGỮ VĂN
PGS.TS. ĐINH TRÍ
DŨNG
TĨM TẮT
Bài báo chỉ ra thực trạng của việc thi cử – đánh giá ở các trƣờng đại học có đào
tạo sinh viên sƣ phạm ngữ văn hiện nay, trong bối cảnh các trƣờng đại học đã chuyển
sang đào tạo theo học chế tín chỉ; từ đó đề ra các giải pháp nhằm đổi mới thi cử và đánh
giá, thực chất là chuyển đổi từ quá trình giáo dục coi trọng trang bị kiến thức sang phát
triển phẩm chất, năng lực, khả năng sáng tạo của ngƣời học.
Từ khóa: thi cử, đánh giá, đào tạo tín chỉ, sƣ phạm, ngữ văn
ABSTRACT
Situation and Solution to the Assessment System at the Universities which have
Philology Faculty
Based on the fact that credit system has been applied at the universities in
Vietnam and based on the real situation of the assessment system, this article proposes a
comprehensive and innovative solution for evaluate students in philology faculty. The
core of this solution is the skill-centered assessment, rather than the knowledge-centered
assessment.
Từ khóa: examination, assessment, credit system, pedagogy, philology
1.
Đã thành một thói quen của giáo dục ở nƣớc ta là thi gì thì học nấy. Một nền
giáo dục nặng về ứng thí đã sinh ra đủ thứ từ dạy thêm, học thêm, luyện thi đến học tủ,
học lệch, học chỉ để lấy điểm, lấy bằng. Mục tiêu học để biết, để bồi dƣỡng năng lực, để
làm ngƣời có nhân cách tồn diện bị xem nhẹ ngay từ các trƣờng đại học. Một khảo sát
của thƣ viện trƣờng Đại học Vinh cho thấy sinh viên của trƣờng chỉ tập trung đến thƣ
viện vào các dịp ôn thi học phần và phần lớn chỉ đọc giáo trình hoặc các tài liệu phục vụ
trực tiếp cho việc thi. Trong khi đó, xung quanh trƣờng, các quán phôtô phục vụ cho
770
việc sao chép tài liệu, giáo trình, đáp án, hƣớng dẫn làm bài luôn nhộn nhịp sinh viên
qua lại.
Khắc phục tình trạng trên là một việc khó, khơng thể một sớm một chiều. Cũng
đã có những suy nghĩ nghiêm túc nhằm đổi mới công tác thi cử ở các trƣờng đại học
nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo nhƣ cố gắng tách khâu dạy học và khâu đánh giá, xây
dựng ngân hàng đề thi, tổ chức thi một số môn trắc nghiệm... Tuy nhiên, những thay đổi
lẻ tẻ mang lại hiệu quả khơng đáng bao nhiêu. Vì thế, đề án Đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo [1] coi việc đổi mới thi cử nhƣ khâu đột phá quả là đã chỉ ra
đúng khâu yếu cần thay đổi trƣớc tiên để đổi mới nền giáo dục nói chung, giáo dục đại
học nói riêng.
2.
Trƣớc hết hãy nhìn lại thực trạng của việc tổ chức thi trong các trƣờng đại học
hiện nay. Theo quy chế 43/ 2007/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo [2], các
trƣờng đã triển khai việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ.
Việc đánh giá đƣợc thực hiện kết hợp các con điểm kiểm tra chuyên cần, thái độ học
tập, điểm giữa học phần, điểm thi kết thúc học phần (theo quy định có trọng số khơng
dƣới 50%). Ở trƣờng Đại học Vinh, tỉ lệ quy định là chuyên cần (trọng số 10%), điểm
giữa học phần (trọng số 20%) và kết thúc học phần (trọng số 70 %). Cách đánh giá nhìn
bề ngồi có vẻ tồn diện nhƣng trên thực tế các điểm số vẫn chƣa thể hiện chính xác
trình độ sinh viên vì vẫn cịn nhiều bất cập:
- Điểm chuyên cần chỉ phù hợp với các lớp chun ngành, lớp xêmina, cịn các
lớp học mơn chung, học online thƣờng thiếu chính xác vì lớp q đơng, giáo viên khơng
thể quản lý xuể, do đó điểm chun cần chỉ cho một cách hình thức.
- Điểm kiểm tra giữa kỳ với những lớp đông cũng thƣờng chỉ đƣợc chấm chiếu
lệ. Có giáo viên cải tiến bằng hình thức cho làm bài trắc nghiệm nhƣng cũng khơng hiệu
quả vì không thể đủ điều kiện để xáo trộn nhiều loại mã đề.
- Điểm thi kết thúc học phần hiện cũng bộc lộ nhiều bất cập, lúng túng từ khâu
ra đề, tổ chức thi, chấm thi.
Hãy bàn kỹ hơn đến việc tổ chức thi học phần hiện nay. Các trƣờng đại học hiện
nay đều có trung tâm đảm bảo chất lƣợng và khảo thí làm chức năng tổ chức, giám sát
kỳ thi. Về hình thức, sự ra đời các trung tâm này là cần thiết nhằm mục đích chia tách
khâu đánh giá và khâu dạy học. Tuy nhiên, bản thân việc ra đề, chấm thi thì vẫn chƣa có
gì thay đổi về thực chất.
Trƣớc hết, muốn có sự đổi mới việc dạy học, chuyển từ việc chú trọng bồi
dƣỡng tri thức sang bồi dƣỡng năng lực cho ngƣời học thì phải thay đổi tƣ duy về việc
771
biên soạn đề thi. Đề thi hiện nay ở các trƣờng đại học có đào tạo sƣ phạm thƣờng có hai
hình thức: thi theo ngân hàng đề và giáo viên tự ra đề sau khi kết thúc môn học. Ở
trƣờng Đại học Vinh, việc tổ chức thi học phần chủ yếu sử dụng ngân hàng đề thi
(khoảng 90 % môn học thi theo ngân hàng đề). Nhà trƣờng đã chi hàng tỉ đồng cho việc
biên soạn, nghiệm thu, điều chỉnh ngân hàng đề thi. Trải qua nhiều năm sử dụng ngân
hàng đề thi này, chúng tơi nhận thấy có những mặt ƣu điểm và hạn chế sau:
* Về ưu điểm:
- Dƣới góc độ quản lý, với việc sử dụng ngân hàng đề thi, bƣớc đầu đã tách hai
quá trình dạy học và đánh giá thành hai công đoạn khác nhau, vì vậy việc đánh giá trở
nên khách quan hơn. Hơn nữa, trung tâm đảm bảo chất lƣợng hoàn toàn chủ động trong
việc lựa chọn đề, không bị phụ thuộc vào giảng viên khi tổ chức các kỳ thi chính, thi lại.
- Dƣới góc độ dạy học, có thể thấy việc sử dụng ngân hàng đề thi có một số tác
dụng tích cực trong quản lý dạy học. Giảng viên sẽ có trách nhiệm hơn trong giảng dạy
(khó bỏ phần, khó “lƣu ý” trọng tâm, trọng điểm sau khi dạy), sinh viên cũng sẽ khơng
thể học tủ, học lệch (vì đề thi tổ hợp ngẫu nhiên).
- Dƣới góc độ kinh tế, có thể thấy nhà trƣờng tiết kiệm đƣợc một nguồn kinh phí
khơng nhỏ (thanh tốn đề một lần, sử dụng đƣợc nhiều lần).
* Về nhược điểm:
- Bộ đề thi này rất khó giữ bí mật, vì thế sau một vài năm sử dụng, nó gần nhƣ
đƣợc lƣu hành cơng khai trong sinh viên. Khi đã thành công khai, sinh viên lại có những
cách ứng phó mới nhƣ chia nhau soạn đề cƣơng sẵn, chỉ học vào những nội dung có câu
hỏi. Hơn nữa do tổ hợp ngẫu nhiên, đề có khi trùng lặp hoặc rơi vào những nội dung ít
quan trọng hoặc có những câu hỏi khơng hay.
- Đề thi phần lớn nghiêng về tái hiện kiến thức, chỉ cần thuộc bài là đạt điểm
cao. Qui định về cấu trúc đề thi cũng có vấn đề. Do đề tổ hợp 5,0 điểm + 3 điểm + 2
điểm đã gây nhiều lúng túng cho ngƣời ra đề. Chẳng hạn với câu 2,0 điểm, nhiều giảng
viên khoa Ngữ văn thƣờng ra những câu hỏi mà sinh viên chỉ cần nhớ máy móc, chẳng
hạn: Hãy kể tên các tập thơ của Nguyễn Du (kèm theo thời điểm sáng tác); Hãy kể tên 5
truyện ngắn của Nam Cao....
Do đề thi nhƣ trên, khi khảo sát điểm thi của sinh viên khoa Sƣ phạm Ngữ văn,
chúng tôi nhận thấy một thực tế: các sinh viên đƣợc điểm cao thƣờng là các sinh viên
chăm chỉ, cần cù, nhiều khi chỉ cần học lực khá. Ngƣợc lại, có những sinh viên giỏi,
thơng minh nhƣng do đề thi không hợp “gu” hoặc rơi vào những câu hỏi máy móc thì
thƣờng mất điểm. Hơn nữa khi sử dụng ngân hàng đề thi, phổ điểm phân hố thƣờng
khơng cao, sinh viên đi thi gần nhƣ rất ít bị điểm dƣới 5 (thang điểm 10).
772
Năm 2009, một đề tài nghiên cứu khoa học của khoa Sƣ phạm Ngữ văn Trƣờng
Đại học Vinh đã tiến hành khảo sát thăm dò thái độ của sinh viên các hệ đối với việc sử
dụng ngân hàng đề thi trong kiểm tra đánh giá [4]. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
Bảng 1: Kết quả thăm dò thái độ của sinh viên với việcsử dụng ngân hàng đề thi
Kết quả khảo sát
Hệ đào tạo
Tán thành
Không tán thành
Không trả lời
Hệ Cử nhân SP
chính quy
68,2 %
24,8%
7%
Hệ CN khoa học
chính quy
72,3%
19,5%
8,2%
Hệ CN khoa học
tại chức
84,5%
10,6%
4,9%
Nhƣ vậy, dễ thấy một kết quả: các hệ có điểm thi đầu vào cao, có nhiều sinh
viên khá giỏi có tỉ lệ thích thi theo ngân hàng đề thấp hơn các hệ khác. Sinh viên tại
chức có tỉ lệ cao nhất ủng hộ chủ trƣơng thi theo ngân hàng đề.
Để khắc phục những hạn chế của việc sử dụng ngân hàng đề thi, trƣờng Đại học
Vinh đã có nhiều chủ trƣơng thích hợp: loại dần các câu hỏi khơng chuẩn xác hoặc q
máy móc, bổ sung khoảng 20% các đề thi hàng năm, mềm dẻo hoá việc tổ hợp đề thi
nhƣ đề thi các mơn chun đề có thể chỉ gồm 2 câu hỏi, cá biệt một số mơn ngơn ngữ
thì khơng sử dụng ngân hàng đề ở các câu hỏi mang tính thực hành…
3.
Hiện nay, các trƣờng đại học đã chuyển đổi hoàn toàn sang đào tạo theo học chế
tín chỉ. Các trƣờng, trong đó có trƣờng Đại học Vinh cũng đã chuyển toàn bộ việc quản
lý ngân hàng đề, tổ chức thi về Trung tâm đảm bảo chất lƣợng của trƣờng. Bản chất của
việc đào tạo theo tín chỉ là để mềm dẻo hóa q trình đào tạo, chuyển từ đào tạo sang tự
đào tạo, chú trọng việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Để nâng cao chất lƣợng đào
tạo, trong đó có đào tạo giáo viên, cần thực hiện hàng loạt các giải pháp đồng bộ nhƣ
đổi mới phƣơng pháp dạy học, chú trọng việc thực hành, xêmina, biên soạn giáo trình
tài liệu phục vụ việc đào tạo tín chỉ. (Hiện nay, nhiều bộ giáo trình dành cho các ngành
đào tạo Ngữ văn đều chủ yếu viết trƣớc khi có hình thức đào tạo tín chỉ nên vẫn nặng về
việc cung cấp kiến thức, ít hoặc thiếu nội dung rèn luyện kỹ năng, hƣớng dẫn tự học, tự
773
nghiên cứu). Riêng để cho việc thi cử, đánh giá trở nên thực chất, tác động tích cực hơn
đến sinh viên, theo chúng tơi, cần thiết có những giải pháp sau:
Thứ nhất, cả lãnh đạo nhà trƣờng và bản thân mỗi cán bộ cần đổi mới tƣ duy về
việc ra đề thi và đánh giá sinh viên. Đề thi cần chú trọng đến việc bồi dƣỡng năng lực,
tƣ duy sáng tạo, tƣ duy phản biện của sinh viên. Đề thi phải bao qt chƣơng trình, có
cả ở những nội dung tự học hoặc vận dụng kiến thức. Nhà trƣờng cần đầu tƣ thích đáng
cho việc biên soạn ngân hàng đề thi để có đủ về số lƣợng và thực sự đảm bảo về chất
lƣợng. Cần tôn trọng đặc trƣng riêng của các bộ môn, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn, nơi
đang đào tạo những ngƣời thầy cô giáo không chỉ có kiến thức vững mà cịn có tâm hồn
phong phú, biết yêu mến và trân trọng cái đẹp, cái thiện.
Thứ hai, hình thức ra đề phải đa dạng hơn, trao quyền chủ động nhiều hơn cho
ngƣời dạy. Cần kết hợp nhiều hình thức thi : thi tự luận, thi trắc nghiệm và thi vấn đáp;
kết hợp đề “đóng” (khơng đƣợc sử dụng tài liệu) và đề “mở” (đƣợc sử dụng tài liệu).
Việc tăng cƣờng ra đề “mở” đối với môn Ngữ văn (đi liền với trách nhiệm cao của
ngƣời ra đề) sẽ tạo ra hứng thú, khuyến khích khả năng tổng hợp, sự sáng tạo của ngƣời
học. Hình thức thi trắc nghiệm cũng có thể sử dụng đối với một số mơn học nhƣ Đại
cƣơng văn hóa Việt Nam, Tiếng Việt thực hành...
Thứ ba, việc đánh giá quá trình cần đi vào thực chất, tránh hình thức. Giảng viên
có thể chủ động, linh hoạt trong đánh giá, có thể cho điểm sinh viên ngay khi họ có sự
hợp tác tốt, tích cực phát biểu trên lớp, trình bày ý kiến trong xêmina. Có thể tăng
cƣờng hình thức làm bài tập lớn, tiểu luận thay thế thi học phần (hiện nay hình thức này
đã có nhƣng thƣờng hạn chế về số lƣợng và phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ nên
giảng viên thƣờng ngại thực hiện). Việc làm khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, tham gia
đề tài nghiên cứu khoa học là những hình thức tốt để rèn luyện tƣ duy cho sinh viên
Ngữ văn do đó cần khuyến khích và tăng cƣờng số lƣợng sinh viên làm khóa luận, làm
đề tài khoa học.
Thứ tƣ, đối với sinh viên sƣ phạm nói chung, sƣ phạm Ngữ văn nói riêng, khả
năng nói, khả năng diễn đạt và giao tiếp là vơ cùng quan trọng, do đó cần chú trọng và
rèn luyện kỹ năng này cho họ. Vì thế cần tăng cƣờng các giờ tập giảng, rèn luyện
nghiệp vụ, tăng thời lƣợng của việc đi kiến tập, thực tập ở phổ thơng. Cần thiết có việc
sơ tuyển (ngoại hình, khả năng nói) đối với sinh viên các trƣờng sƣ phạm. Cần xây
dựng các phịng luyện nói tiếng Việt (nhƣ các phịng luyện ngoại ngữ) ở các trƣờng đại
học có đào tạo sƣ phạm.
Nhƣ vậy, để nâng cao chất lƣợng đào tạo sƣ phạm nói chung, đào tạo sƣ phạm
Ngữ văn nói riêng cần có những giải pháp đổi mới đồng bộ, quyết liệt, trong đó đổi mới
thi cử và đánh giá sẽ là khâu đột phá. Đổi mới tƣ duy về việc ra đề thi và tổ chức đánh
giá, hƣớng mạnh vào đánh giá năng lực, tƣ duy sáng tạo của sinh viên sẽ là điều cần làm
774
đầu tiên đối với mỗi giảng viên đại học. Tuy nhiên, điều này cần đi liền với nhiều giải
pháp khác nhƣ đổi mới phƣơng pháp dạy học, đổi mới việc biên soạn giáo trình, tài liệu,
thực hiện việc sinh viên đánh giá chất lƣợng dạy học của giảng viên...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đề án Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, .
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2007) Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ, Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Châu (chủ biên) (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Đinh Trí Dũng (2009), “Sử dụng ngân hàng đề thi ở khoa Ngữ văn Trƣờng Đại học
Vinh”, Tạp chí Giáo dục, số 209, tr. 62-63.
775