Trƣờng THPT An
Nghĩa, huyện Cần Giờ,
TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại:
0906615589
NGUYỄN THỊ LINH
Email:
linhnguyenngoc1979
@yahoo.com
SỬ DỤNG PHƢƠNG TIỆN
TRỰC QUAN TRONG
VIỆC ĐỔI MỚI PHƢƠNG
PHÁP DẠY HỌC MƠN
NGỮ VĂN Ở TRƢỜNG
TRUNG
HỌC
PHỔ
THƠNG
TĨM TẮT
Sử dụng phƣơng tiện trực quan trong giảng dạy môn Ngữ văn để nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả dạy học nhằm góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Căn cứ
vào mục tiêu, nội dung bài học, vào đối tƣợng học sinh và điều kiện của giáo viên cùng
với việc sử dụng linh hoạt, sáng tạo và khoa học; các phƣơng tiện trực quan sẽ phát huy
tác dụng khi dạy đọc - hiểu văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn, tổng kết, ôn tập, kiểm tra,
đánh giá việc dạy học môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thơng.
Từ khóa: phƣơng tiện trực quan, đổi mới, phƣơng pháp, dạy học, trƣờng phổ
thông.
ABSTRACT
Using visual media in teaching literature is to improve the quality and efficiency
of teaching, which contributes to change education basicly and innovatively Based on
the objectives, lesson content, the students and teachers‟ condition combine with the use
of flexible, creative and scientific visual media that will promote the effects of teaching
reading -comprehension, Vietnamese, essay writing, review, revision, testing and
evaluation for teaching literature in High School.
Key words: visual media, change, method, teaching, high school.
1. Mở đầu
Giáo dục – đào tạo hiện nay đang chuyển dần từ giáo dục tinh hoa, cho số ít sang
giáo dục đại chúng, cho tất cả mọi ngƣời, từ chủ yếu cung cấp tri thức sang rèn luyện kỹ
năng sống và hình thành năng lực cơng dân. Mục tiêu giáo dục phổ thông nhằm giúp
621
học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục vận dụng vào
thực tế cuộc sống. Nghị quyết số 29 của ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI đã
tiếp tục khẳng định, giáo dục – đào tạo cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phƣơng pháp dạy
và học theo hƣớng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của ngƣời học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để ngƣời học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực; chuyển từ học chủ yếu trên
lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
dạy và học.
Cùng với việc thay đổi chƣơng trình và sách giáo khoa phổ thông, đổi mới
phƣơng pháp dạy học đƣợc xác định là nhiệm vụ quan trọng đƣợc các cơ sở giáo dục,
trƣờng học, cán bộ, giáo viên quan tâm thực hiện với nhiều hình thức nhƣ tăng cƣờng
sinh hoạt chuyên mơn, tổ chức các khóa tập huấn, chun đề, tăng cƣờng cơ sở vật chất,
thiết bị và đồ dùng dạy học. Sử dụng phƣơng tiện trực quan trong việc đổi mới phƣơng
pháp dạy học môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thơng là một trong những hoạt động
đó, nhằm giúp học sinh phát huy tính tự giác, tích cực chủ động, sáng tạo, bồi dƣỡng
phƣơng pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện các kĩ năng, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho các em.
Chất lƣợng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trƣờng trung học phổ thông hiện
nay chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, chƣa thu hút sự yêu thích của ngƣời học; kỹ
năng tiếp nhận và tạo lập văn bản Ngữ văn của học sinh còn nhiều hạn chế; mục tiêu
của việc cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng, bồi dƣỡng nhân cách qua dạy học bộ môn
chƣa đạt đƣợc yêu cầu đề ra. Ngoài những yếu tố khách quan (xu hƣớng chọn nghề,
năng lực cảm thụ văn chƣơng của học sinh…), thì nguyên nhân phần lớn là do giáo viên
dạy học chƣa có sức lơi cuốn học sinh, chƣa có những phƣơng pháp dạy học kích thích
sự say mê, sáng tạo, cảm thụ văn học của học sinh. Sử dụng các phƣơng pháp, biện
pháp, phƣơng tiện dạy học có hiệu quả, trong đó có phƣơng tiện trực quan, là một trong
những hoạt động nhằm khắc phục những hạn chế nói trên trong đổi mới dạy học mơn
Ngữ văn ở trƣờng phổ thông hiện nay.
2. Việc sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học
2.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động dạy học, trực quan đƣợc định dạng bằng
nhiều thuật ngữ nhƣ: phƣơng pháp, biện pháp, phƣơng tiện, thiết bị, đồ dùng,... tùy
thuộc vào quan điểm, mục đích của ngƣời nghiên cứu, sử dụng. Dù đƣợc gọi bằng thuật
ngữ nào thì bản chất của trực quan đƣợc xây dựng trên cơ sở con đƣờng nhận thức biện
622
chứng, dựa vào quy luật từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, từ tƣ duy trừu
tƣợng đến thực tiễn là quá trình của sự nhận thức chân lý khách quan.
Quá trình nhận thức chia thành 2 giai đoạn: trực quan sinh động (giai đoạn nhận
cảm tính) và tƣ duy trừu tƣợng (giai đoạn nhận thức lý tính). Giai đoạn nhận thức cảm
tính thơng qua các giác quan, con ngƣời nhận thức hình ảnh của các sự vật, hiện tƣợng
một cách trực tiếp từ thực tiễn, tạo nên sự sinh động trong quá trình nhận thức. Giai
đoạn nhận thức lý tính khơng nhận thức trực tiếp sự vật, hiện tƣợng mà là nhận thức
gián tiếp, tuy nhiên nhận thức này xa hơn sự vật nhƣng lại sâu sắc hơn vì nó nhận thức
đi sâu vào bản chất của sự vật.
Phƣơng tiện trực quan có tác dụng trong hoạt động nhận thức, đƣợc sử dụng phổ
biến trong các trƣờng học, nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, gắn lý thuyết
với thực hành, tăng hứng thú nhận thức, rèn luyện kỹ năng mềm, năng lực hoạt động
thực tiễn cho ngƣời học. Nếu biết khai thác hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ, đúng cƣờng độ
các phƣơng tiện trực quan làm phƣơng tiện nhận thức, sẽ phát huy tính tích cực nhận
thức cho ngƣời học, giúp họ vƣợt qua các chƣớng ngại giữa cái cụ thể và cái trừu tƣợng,
giữ kỹ năng thực hành và tri thức lý thuyết.
Quá trình dạy học là một q trình trao đổi thơng tin giữa ngƣời dạy và ngƣời
học trong một không gian, thời gian cụ thể, với sự hỗ trợ của các yếu tố ngôn ngữ – phi
ngôn ngữ, cụ thể – trừu tƣợng, vật chất – phi vật chất,… Phƣơng tiện trực quan trong
dạy học là một trong những cơng cụ có hiệu quả cao trong việc cung cấp tri thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành các năng lực tổng hợp của học sinh. Phƣơng tiện trực quan
nhằm biểu diễn, mô phỏng những đặc trƣng, thành tốp, bản chất, các mối quan hệ của
đối tƣợng nhận thức, làm cho quá trình nhận thức đƣợc dễ dàng, sâu sắc và sinh động
hơn.
2.2. Việc sử dụng phƣơng tiện trực quan vào dạy học nói chung và giảng dạy Ngữ văn
nói riêng đã trở thành vấn đề quen thuộc, đƣợc áp dụng bằng nhiều cách thức, nhiều
phƣơng tiện mà mục đích cuối cùng là nâng cao chất lƣợng dạy học. Mục đích ấy có đạt
đƣợc hay khơng cịn tùy vào việc lựa chọn, sử dụng phƣơng tiện trực quan của từng
giáo viên ở từng giờ học, nội dung dạy học và hoàn cảnh cụ thể.
Ở các trƣờng trung học phổ thông hiện nay, các phƣơng tiện trực quan đƣợc các
giáo viên sử dụng thƣờng là máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, băng đĩa, trình bày bảng,
diễn xƣớng (phân vai, diễn kịch…). Mặc dù đã đạt đƣợc một số hiệu quả, nhƣng việc sử
dụng các phƣơng tiện trực quan trong hoạt động dạy học vẫn còn một số bất cập, hạn
chế. Những phƣơng tiện trực quan nêu trên chỉ mang lại hứng thú ban đầu, tức thời (ví
dụ: xem tranh ảnh, nghe băng đĩa) chứ chƣa phát hiệu quả cao việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh. Hơn nữa, do kỹ năng lựa chọn, sử dụng phƣơng tiện trực
623
quan của giáo viên nhiều lúc có tính áp đặt, hình thức, đối phó nên tác dụng tồn diện
chƣa đƣợc khai thác.
3. Sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ
thông
Khi sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học môn Ngữ văn ở trƣờng phổ
thông, cần phải chú một số vấn đề có tính ngun tắc. Các phƣơng tiện trực quan trong
dạy môn Ngữ Ngữ văn ở trƣờng là một lợi thế khi sử dụng phù hợp với mục tiêu dạy
học, nội dung tri thức, trình độ của học sinh, năng lực của giáo viên và điều kiện môi
trƣờng dạy học. Phƣơng tiện trực quan đƣợc sử dụng phải đảm bảo tính khoa học, tính
giáo dục, phù hợp mục tiêu cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng, giáo dục nhân cách
trong mỗi giờ dạy học môn Ngữ văn. Việc sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học
môn Ngữ văn phải đảm bảo đặc trƣng của môn học, phải đảm bảo tính kinh tế và khả
thi, khơng nhất thiết giờ dạy học nào cũng lựa chọn, thiết kế, sử dụng phƣơng tiện trực
quan. Nếu sử dụng phƣơng tiện trực quan không hợp lý sẽ làm cho bài học trở nên
gƣợng ép, mất thời gian, phân tán sự chú của học sinh và làm giảm chất lƣợng, hiệu quả
của giờ học.
Trên cơ sở lý luận về phƣơng pháp dạy học bộ môn và thực tiễn áp dụng trong
nhiều năm dạy học ở trƣờng phổ thông, chúng tôi xin đề xuất một số cách thức sử dụng
phƣơng tiện trực quan trong dạy học môn Ngữ văn nhƣ sau.
3.1. Sử dụng phương pháp trực quan trong dạy đọc hiểu môn Ngữ văn
Giờ đọc hiểu văn bản có thể giảng trên lớp hay thơng qua giáo án điện tử. Vì vậy,
có thể sử dụng các đoạn phim, tranh ảnh, chân dung,… liên quan đến tác giả, tác phẩm.
Dạy đọc hiểu “Đất nƣớc” của Nguyễn Khoa Điềm (Văn học lớp 12), giáo viên giúp học
sinh nhận thức, hiểu rõ hơn những giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm qua các
đoạn phim, ảnh về văn học dân gian, các danh lam, thắng cảnh đất nƣớc đƣợc nhắc đến
trong tác phẩm. Các hình ảnh trực quan đó khơng những giúp các em hiểu sâu sắc thêm
tác phẩm, mà còn tạo hứng thú học tập cho các em, làm cho giờ văn trở nên sinh động,
có tác dụng tốt trong việc cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng cảm thụ đồng thời giáo
dục tình yêu quê hƣơng đất nƣớc giúp các em hoàn thiện nhân cách. Điều quan trọng là
phải chủ động trong việc sử dụng (đề phịng những trục trặc do phƣơng tiện đƣa lại),
khơng biến giờ đọc hiểu thành giờ xem phim hoặc thuyết trình về tranh ảnh. Trong một
số trƣờng hợp, trực quan trong giờ đọc hiểu văn bản, có thể sử dụng các hình thức diễn
xƣơng của văn bản, cho học sinh làm hoạt cảnh, nhập vai để tái hiện lại văn bản, đọc
diễn cảm (ngâm thơ, đọc hịch, thể hiện ngôn ngữ kịch,...).
3.2. Sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học tiếng Việt
624
Lâu nay, nhiều giáo viên cho rằng việc dạy học tiếng Việt khơng cần sử dụng đồ
dùng dạy học vì đây là môn lý thuyết. Trên thực tế, phƣơng tiện trực quan lại có vai trị
quan trọng đối với việc cung cấp, hệ thống những tri thức về hệ thống tiếng Việt, rèn
luyện những kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) cho học sinh, giáo dục
quan điểm thẩm mỹ trong hoạt động nói năng, giao tiếp..
Việc sử dụng phƣơng tiện trực trong dạy học tiếng Việt đƣợc thực hiện ở mức
độ, tính chất khác nhau, từ việc sử dụng bảng biểu, mơ hình trên bảng để trực quan hóa
cấu trúc, chức năng của các đơn vị tiếng Việt, đến việc sử dụng các phƣơng tiện ghi âm,
phim ảnh để chuẩn hóa phát âm, ngữ điệu và các yếu tố trong một hoạt động giao tiếp
của học sinh. Trong bài “Những yêu cầu sử dụng Tiếng việt” (Ngữ văn 10) học sinh rất
vất vả khi tiếp thu phần chữa lỗi về ngữ pháp, vì có cấu trúc phức tạp nên giáo viên cần
sử dụng các sơ đồ về cấu trúc câu, để sơ đồ hóa các quan hệ thứ bậc, tầng lớp của cấu
trúc câu, giúp học sinh nhận diện đƣợc các thành phần của câu, chức năng của mỗi
thành phần và mối quan hệ giữa các thành phần đó.
3.3. Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học tập làm văn
Tập làm văn là phân môn rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận (nghị luận xã hội
và nghị luận văn học) có thể sử dụng phƣơng tiện trực quan để giúp học sinh nhận thức
đƣợc các yêu cầu cấu trúc, bố cục về nội dung và hình thức, cũng nhƣ mối quan hệ giữa
các đoạn, các nội dung trong một văn bản nghị luận. Hiện nay nghị luận xã hội thƣờng
chú ý đến các vấn đề thời sự – xã hội, nên giáo viên có thể sử dụng các tài liệu, hình
ảnh, phim, các trang mạng,… có nội dung liên quan để tác động vào nhận thức, suy
nghĩ, tình cảm của học sinh, phát huy tính tích cực, sáng tạo và hứng thú bày tỏ quan
điểm, thái độ của bản thân trƣớc một vấn đề xã hội hay văn học. Dạy bài “Luyện tập
viết đoạn văn thuyết minh”, “Tóm tắt văn bản thuyết minh” (Ngữ văn 10), giáo viên có
thể sƣu tầm, chọn lựa, phân tích một số tài liệu, tranh ảnh, các đoạn video, clip liên quan
đến vấn đề, giúp các em có thêm nguồn tƣ liệu phục vụ cho việc tạo lập các văn bản
nghị luận.
3.4. Sử dụng bản đồ tư duy, ứng dụng công nghệ thông tin là một phƣơng tiện trực
quan đƣợc áp dụng có hiệu quả trong dạy học mơn Ngữ văn ở trƣờng phổ thơng hiện
nay.
Bản đồ tƣ duy có tác dụng rất lớn trong trong dạy học môn Ngữ văn vì có khả
năng hàm chứa và truyền thị đƣợc những tri thức và kỹ năng mơn học. Với tính chất
trực quan bằng hình vẽ, đƣờng nét, màu sắc,... Bản đồ tƣ duy có tác động tốt đến nhận
thức trực quan của học sinh và kích thích hứng thú học tập của học sinh, khơng thấy
nhàm chán vì bài học dài dịng mà ln sơi nổi, hào hứng với bài học.Việc sử dụng bản
đồ tƣ duy cũng phù hợp với trình độ giáo viên và điều kiện của các trƣờng phổ thông
hiện nay.
625
Việc sử dụng bài giảng điện tử với những phần mềm chun dụng trong nhà
trƣờng phổ thơng, những hình ảnh, âm thanh sinh động làm cho ngƣời học dễ dàng tiếp
thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập. Qua bài giảng điện tử, giáo viên có
nhiều thời lƣợng để đặt các câu hỏi gợi mở, tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động nhiều hơn trong giờ học. Vấn đề quan trọng là phải biết sự dụng bản đồ
tƣ duy hay bài giảng điện tử một cách hợp lý, không biến một tác phẩm văn học với
những đặc riêng của nó thành một vật có thể đƣa ra trƣng diện, trình bày nhƣ một vật
thể vật chất nào đó.
3.5. Sử dụng phương tiện trực quan trong tổng kết, ôn tập, kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập
Phƣơng tiện trực quan cũng không những giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp,
nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học mà cịn có tác
dụng trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tƣ duy lơgíc cho học sinh, sử
dụng kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Phƣơng tiện trực quan (bảng biểu, sơ đồ, hình
vẽ, bản đồ tƣ duy,...) giúp học sinh tự lập dàn ý nhớ toàn bộ cốt lõi bài học mà không sa
vào chi tiết, học vẹt, nhƣ vừa học vừa chơi, thoải mái, khơng áp lực. u cầu hệ thống
hóa bài học cuối mỗi tiết bằng cách vẽ một sơ đồ hay một bản đồ tƣ duy có tác dụng rèn
luyện kỹ năng trình bày, đánh giá, tổng kết, thu nhận bài học theo cách hiểu của mình,
khơng phụ thuộc vào giáo viên và sách giáo khoa.
4. Kết luận
Sử dụng phƣơng tiện trực quan nhƣ là một phƣơng pháp trong dạy học môn Ngữ
văn là một hoạt động đã và đang đƣợc thực hiện trong nhiều năm qua. Dƣới ánh sáng
của quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế, việc sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học môn Ngữ văn ở
trƣờng phổ thông phải đƣợc nhận thức một cách toàn diện, cả về tác dụng, nội dung,
quy trình và phƣơng pháp sử dụng. Vì vậy, việc sử dụng phƣơng tiện trực quan trong
dạy học môn Ngữ văn là một hoạt động tích hợp giữa hoạt động nhận thức, hoạt động
giáo dục, một quá trình sƣ phạm thể hiện trình độ chun mơn, năng lực nghề nghiệp,
trách nhiệm đối với học sinh của ngƣời giáo viên. Đây cũng là vấn đề cơ bản mà trong
chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng của các trƣờng sƣ phạm, cần phải tăng cƣờng việc cung
cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng, giáo dục tinh thần thái độ để mỗi giáo viên có đủ trình
độ, năng lực, kỹ năng, tâm huyết sử dụng các phƣơng pháp dạy học đem lại hiệu quả
cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
626
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị
lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Đỗ Ngọc Thống (2011) “Một số vấn đề về đổi mới chƣơng trình và sách giáo khoa
giáo dục phổ thơng”, Tạp chí Khoa học giáo dục số 64, tháng 1.
3. Thái Duy Tuyên (2010), Phƣơng pháp dạy học: truyền thống và đổi mới, Nxb GD
Việt Nam, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tứ (2007) “Sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học Ngữ văn và việc đổi
mới phƣơng pháp dạy học ở trƣờng phổ thông”, T/c Giáo dục.
627