Khoa Xã hội, Trƣờng
Đại học Quảng Bình
Điện thoại: 0906456193
Email:
TÍCH HỢP TRONG
DẠY PHẦN VĂN
HỌC HIỆN ĐẠI ĐỂ
RÈN KỸ NĂNG
ĐỌC, NÓI CHO
SINH VIÊN NGÀNH
NGỮ VĂN
TS. NGUYỄN THỊ NGA
TÓM TẮT
Dạy học theo định hƣớng tích hợp là một quan điểm của giáo dục hiện đại. Hiểu
và thực hiện đúng định hƣớng dạy học tích hợp sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng giáo
dục. Vận dụng lý thuyết tích hợp, chúng tơi xin đƣợc chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân
trong việc lựa chọn phƣơng pháp, tìm cách thức tổ chức trong giảng dạy phần Văn học
hiện đại để lồng ghép, tăng cƣờng rèn thêm các kỹ năng đọc, nói cho sinh viên ngành
Ngữ văn.
Từ khóa: Tích hợp, văn học hiện đại, rèn, kỹ năng đọc và nói
ABSTRACT
Applications of Integration to Teaching Modern Literature Aiming At Developing
Reading and Speaking Skills for Philosophy Majors
Integration-based instruction is a view of modern education; therefore,
understanding and implementing this precisely will make contributions to upgrading
training quality. In order to put integration theory into teaching modern literature, we
would like to share our personal experiences in selection of methods and procedure to
graft activities of integration-based instruction with the aim of enhancing reading and
speaking skills for philology majors.
Key words: integration, modern literature, practice, reading and speaking skills
669
Trong hoạt động dạy học, tích hợp đƣợc hiểu là sự tổ hợp, kết hợp một số vấn đề
từ các môn học khác nhau hoặc lồng ghép kiến thức cần thiết vào những nội dung vốn
có của mơn học. Hình thức tích hợp này vừa đảm bảo tính khoa học, tính sƣ phạm, tính
liên thơng cùng mối quan hệ giữa các mơn học trong chƣơng trình. Nó có khả năng vƣợt
qua giới hạn nội dung của một môn học để thấu hiểu kiến thức các mơn học khác. Đó là
cơ hội để ngƣời học thiết lập mối liên hệ giữa các kiến thức đã đƣợc lĩnh hội phối hợp
với những đóng góp của các mơn học khác. Nó khai thác tính bổ sung lẫn nhau trong
nội dung kiến thức và kỹ năng giữa các học phần trên cơ sở chuyên ngành. Tƣ tƣởng
tích hợp cịn giúp chúng ta có thể giải quyết những khó khăn giữa thời gian hạn hẹp và
nhu cầu rộng lớn của kiến thức cần cập nhật. Vận dụng trong dạy học, hình thức tích
hợp nhằm góp phần giúp cho sinh viên thực hiện quá trình học tập một cách có hệ
thống, vừa tiếp thu kiến thức mới vừa củng cố đào sâu vừa rèn các kỹ năng cần thiết để
hành nghề. Không chỉ nhằm rút gọn thời lƣợng trình bày tri thức của nhiều mơn học mà
cịn để tập trung giải quyết những tình huống dạy học cụ thể và rèn luyện bồi dƣỡng, tạo
điều kiện cho ngƣời học tập dợt cách vận dụng tổng hợp các tri thức vào thực tiễn. Nó
góp phần tạo năng lực mới cho ngƣời học trong quá trình chủ động tiếp nhận tri thức.
Thời gian học tập trong nhà trƣờng khơng kéo dài thêm nhƣng ngƣời học có thể thu
nhận nhiều tri thức hơn nếu tìm đƣợc hƣớng dạy hợp lý. Ngƣời học cũng thực sự đƣợc
hoạt động nhiều hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Trong đào tạo giáo viên Trung học cơ sở (THCS) chuyên ngành Ngữ văn, các học
phần ln có mối quan hệ khá chặt chẽ, qua lại lẫn nhau. Đặc biệt mối quan hệ này lại
càng trở nên gần gũi, gắn bó mật thiết trong nội dung các học phần thuộc khối kiến thức
ngành. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong nội dung mô tả các học phần ở chƣơng trình
khung đào tạo giáo viên THCS. Mỗi học phần đều sử dụng kỹ năng đọc, nói làm cơng
cụ để thơng hiểu nội dung kiến thức. Chính điều này là cơ sở tốt để chúng ta lồng ghép
rèn các kỹ năng đọc, nói cho ngƣời học trong dạy học văn học hiện đại. Đối với nghề
giáo (đặc biệt là nghề dạy Văn) phải thƣờng xuyên rèn các kỹ năng nói, đọc. Tất nhiên,
việc rèn các kỹ năng này sẽ đƣợc thể hiện trong nhiều môi trƣờng khác nhau nhƣng
quan trọng nhất vẫn là ở nhà trƣờng. Bởi mỗi buổi lên lớp, ngƣời học phải nói (giao
tiếp) với mọi ngƣời để truyền đạt tƣ tƣởng tình cảm, trao đổi nội dung bài học, thực hiện
các hoạt động của lớp. Nói tốt là cơ sở để rèn luyện tƣ duy và diễn đạt tốt. Ở trong nhà
trƣờng, nói là một trong những công cụ để học tập, thể hiện những điều từ trong suy
nghĩ, biến ý nghĩ thành lời. Nói tốt là cơ sở của tƣ duy mạch lạc, nói đúng, diễn đạt
mạch lạc để sống và hành nghề. Đọc là quá trình biến hình thức chữ viết thành hình
thức âm thanh để thơng hiểu nội dung của một văn bản. Đọc không chỉ là việc giải một
bộ mã gồm hai phần âm thanh và chữ viết mà cịn là q trình nhận thức để có khả năng
thơng hiểu ý nghĩa. Nghề giáo khơng thể khơng đọc. Nó lại cực kỳ quan trọng đối với
ngƣời dạy Văn. Đọc đúng và đọc tốt là cơ sở để hiểu, cảm, phân tích, bình để khơi gợi
670
cảm xúc, thấu hiểu đƣợc giá trị tác dụng của văn chƣơng đối với cuộc sống. Nói và đọc
là những vấn đề ln có quan hệ qua lại, hỗ trợ và cùng nhau phát triển. Hiệu quả của
công việc dạy Văn ở trƣờng THCS khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ học vấn, phƣơng
pháp, năng lực sƣ phạm đã trở thành kĩ xảo mà trong đó quan trọng nhất vẫn là các kỹ
năng nói, đọc của ngƣời giáo viên. Vì vậy công việc đào tạo nghề dạy Văn không thể
không gắn với rèn các kỹ năng nói, đọc Tiếng Việt thành kỹ xảo cho ngƣời học. Đó
cũng là một trong những mục tiêu quan trọng trong đào tạo giáo viên THCS.
Do đƣợc chun mơn hố cao nên ở trƣờng chun nghiệp, giảng viên thƣờng chỉ
chú trọng đến dạy kiến thức học phần mình đảm nhiệm. Nếu khơng có các cuộc hội
thảo, trao đổi chun mơn, liên mơn thì khó áp dụng dạy học tích hợp. Dạy học theo
hƣớng tích hợp giữa các học phần trong chƣơng trình chủ yếu phụ thuộc vào quan điểm
của bộ môn, vào ý thức và khả năng của từng giảng viên. Nó địi hỏi giảng viên cần phải
nắm rõ, am hiểu khung chƣơng trình đào tạo, nắm bắt mục tiêu cũng nhƣ nội dung đào
tạo, thông suốt tƣ tƣởng để cùng nhau áp dụng nhằm nâng cao năng lực sƣ phạm, rèn kỹ
năng đọc, nói cho sinh viên.
Giờ dạy học theo quan điểm tích hợp thực sự đƣợc diễn ra khi giảng viên ý thức
rõ ý nghĩa tầm quan trọng của vấn đề, đặt ra mục tiêu cụ thể trong đào tạo. Hơn nữa
giảng viên cần có năng lực vận dụng phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực. Bài
giảng có thể đi bằng nhiều cách để đạt đƣợc mục tiêu, nhƣng tất cả đều hƣớng vào
những hoạt động cơ bản sau:
- Rèn kỹ năng đọc từ dạy phần Văn học hiện đạị
Đặc thù của mọi nhà trƣờng là hoạt động đọc (giảng viên đọc, học sinh, sinh viên
đọc, đọc ở lớp, đọc ở nhà, đọc để làm bài tập, đọc tài liệu tham khảo, đọc để thơng hiểu
nội dung kiến thức). Vì vậy việc hình thành kỹ năng đọc cho sinh viên Ngữ Văn là việc
làm đầy ý nghĩa. Tất cả thành tựu tri thức của nhân loại từ ngàn xƣa đến nay đều đƣợc
lƣu lại bằng chữ viết. Nhờ đọc mà con ngƣời tiếp thu đƣợc nền văn minh nhân loại. Khi
đọc con ngƣời có khả năng nhân sự tiếp nhận lên nhiều lần tri thức về cuộc sống, tự
nhiên, xã hội...Biết đọc con ngƣời có khả năng chế ngự một phƣơng tiện văn hóa cơ bản
để giao tiếp. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên của mỗi ngƣời đi học. Đọc giúp
ngƣời học chiếm lĩnh ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Vì những lẽ đó,
chúng ta phải thƣờng xuyên rèn kỹ năng đọc cho ngƣời học trong đào tạo giáo viên
THCS. Đối với mỗi giờ lên lớp, chúng ta ln đặt ra mục tiêu tích hợp vốn kiến thức và
lồng ghép để nâng cao năng lực đọc, nói cho sinh viên. Chẳng hạn: Dạy bài khái quát về
văn học Việt Nam từ sau 1975, chúng ta có thể yêu cầu sinh viên đọc phần “Bối cảnh
lịch sử – xã hội và đòi hỏi đổi mới văn học” và sau đó trình bày trƣớc lớp những vấn đề
671
cơ bản trong các mục “Thời kỳ mới của lịch sử”, “Những chuyển biến về xã hội – văn
hóa – tƣ tƣởng” và “Đòi hỏi đổi mới về văn học”. Qúa trình đọc thầm để thơng hiểu nội
dung trả lời yêu cầu của giảng viên chính là lúc sinh viên đƣợc chủ động chiếm lĩnh tri
thức và tác động kép đến việc rèn kỹ năng đọc, kỹ năng nói.
Đọc tạo ra hứng thú và động cơ, tạo điều kiện để ngƣời học có khả năng và tinh
thần tự học. Đọc cịn tác động tích cực tới trình độ ngơn ngữ và tƣ duy của ngƣời đọc,
bồi dƣỡng lòng yêu cái thiện ghét cái ác, biết sống xứng đáng hơn, nhân ái hơn. Dạy
văn học hiện đại cần cho ngƣời học sống với chính tác phẩm văn học. Chẳng hạn dạy
tác giả Nguyễn Minh Châu, ta yêu cầu sinh viên tìm đọc tiểu thuyết “Cửa sơng”, “Dấu
chân ngƣời lính”, “Miền cháy” , “Lửa từ những ngôi nhà”, “Những ngƣời đi từ trong
rừng ra” “Mảnh đất tình yêu” hay tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau”, “Bức
tranh” và cả truyện viết cho thiếu nhi “Từ giã tuổi thơ”, “Những ngày lƣu lạc”, “Đảo đá
kỳ lạ”. Chúng ta biết, hơn bất cứ hoạt động ý thức tinh thần nào, văn học có khả năng
đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu vơ tận của đời sống tâm linh
con ngƣời. Qua đọc, sinh viên ý thức đƣợc mình,“nâng cao niềm tin vào bản thân mình
và tự hồn thiện nhân cách của chính mình, làm nảy nở ở con ngƣời khát vọng hƣớng
tới chân lý" (Mácxim Goorky). Qua đọc sinh viên đƣợc chắp cánh để đến với mọi thời
đại, với mọi nền văn hoá, trang bị vốn sống để vƣơn tới cái chân, thiện, mỹ. Đọc tác
phẩm văn học, sinh viên nhƣ đƣợc mở rộng vòng tay giúp họ sống nhân đạo hơn, yêu
cái thiện ghét cái ác. Từ đó họ biết chia sẻ, biết nhân nguồn vui chia nỗi buồn và biết
quý ngƣời hơn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thơng tin, đọc ngày càng có ý nghĩa to
lớn để tiếp nhận nguồn thông tin. Nhờ đọc mà ngƣời học có thể nhận thức đƣợc mọi vấn
đề trong nội dung Văn học hiện đại. Cho dù tiết dạy khái quát văn học Việt Nam hay tác
giả, phân tích tác phẩm thơ, truyện cũng đều phải coi trọng hoạt động đọc.
Nếu là tiết khái quát văn học thì yêu cầu sinh viên đọc giáo trình, bài giảng để
nắm nội dung kiến thức chung. Ở đây giảng viên cần phải có biện pháp cụ thể yêu cầu
sinh viên đọc. Có thể gọi bất kỳ sinh viên nào trả lời đúng nội dung yêu cầu của giảng
viên để buộc các em phải chủ động đọc hiểu. Công đoạn này đã tạo điều kiện cho giảng
viên tích hợp nhằm rèn kỹ năng đọc thầm, đọc hiểu. Sinh viên đọc, động não, tìm tịi
những vấn đề đặt ra trong bài giảng là q trình tích lũy thêm kiến thức và rèn kỹ năng
đọc. Tất nhiên ở đây giảng viên phải vận dụng các hình thức đổi mới phƣơng pháp dạy
học theo hƣớng tích cực hố hoạt động của ngƣời học. Linh hoạt vận dụng một cách
sáng tạo các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với yêu cầu tích hợp để nâng cao năng
lực đọc cho sinh viên.
Trong giờ dạy tác giả, giảng viên yêu cầu mỗi sinh viên đọc, chuẩn bị mọi điều
kiện để phân tích tác phẩm. Quá trình thực hiện hoạt động, sinh viên buộc phải đọc
672
đúng để có cơ sở cảm, hiểu tác phẩm mà phân tích. Đối với những tác phẩm thơ có thể
u cầu sinh viên đọc diễn cảm. Chẳng hạn dạy tác giả Xuân Quỳnh, ta có thể cho sinh
viên đọc một số bài thơ hay nhƣ: “Sóng”, “Tự hát”, “Thuyền và biển”, “Bàn tay em”
để nâng cao năng lực đọc diễn cảm. Giảng viên yêu cầu nhóm sinh viên hoạt động phân
tích và nhận xét đánh giá. Trong q trình đánh giá cần coi trọng những nhận xét về
phƣơng pháp phân tích, cách nhận diện điểm sáng thẩm mỹ, nhận vật. Nếu là tác phẩm
thơ thì nhận xét cách đọc diễn cảm bài thơ cả về phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu, tốc độ,
âm lƣợng và nét mặt điệu bộ, giọng điệu, nhạc điệu, nhịp điệu….Chẳng hạn: giảng viên
có thể nêu yêu cầu “khi đọc bài thơ Tiếng gà trƣa (Xuân Quỳnh), anh chị cần chú trọng
nhấn ở những từ ngữ nào? Đọc với giọng nhƣ thế nào? Nhịp điệu có gì đặc biệt? Đây
cũng là lúc giảng viên có thể tích hợp để củng cố tri thức và rèn kỹ năng đọc diễn cảm,
hiểu rõ văn bản tác phẩm cho sinh viên.
Nếu là tác phẩm văn xi thì chú ý nhận xét về cách nhập thân vào số phận nhân
vật để phân tích tâm lý, tính cách, giọng điệu, thâm nhập sâu vào nội dung văn bản, lựa
chọn cách đọc phù hợp. Chẳng hạn: dạy Tơ Hồi, chúng ta u cầu sinh viên đọc
“Truyện Tây bắc”, “Dế Mèn phiêu lƣu ký” và phân tích đặc điểm tính cách các nhân vật
Mị, A Phủ, thống lý Pá Tra, Dế mèn, trũi... để thơng hiểu tác phẩm, nắm chắc giọng
điệu, tính cách nhân vật và lựa chọn cách đọc phù hợp với ngơn ngữ. Đọc cũng chính là
hoạt động chuyển văn bản ngôn ngữ viết thành văn bản ngôn ngữ âm thanh. Mà ngơn
ngữ âm thanh thì lại có tác dụng truyền cảm đến ngƣời nghe. Nhƣ thế, tác phẩm văn học
sẽ tự tìm đến với trái tim bạn đọc. Ở đó sinh viên đƣợc bồi dƣỡng vốn sống, vốn hiểu
biết, năng lực thẩm mỹ, phát triển nhân cách và cả giá trị giáo dục, giáo dƣỡng.
- Rèn kỹ năng nói từ dạy phần Văn học hiện đại
Nói là một nghệ thuật, là cách ứng xử trong giao tiếp đạt đến mục đích. Tục ngữ
Việt Nam khun con ngƣời: “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa
lịng nhau”. Dù trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống xã hội, con ngƣời cũng cần có
nhu cầu trao đổi thơng tin (cần nói). Nói là một trong những kỹ năng quan trọng và cần
thiết không thể thiếu trong giao tiếp hàng ngày. Bất cứ ai cũng cần học cách nói chuyện
thật thuyết phục. Trong giao tiếp xã hội, lời nói đầy tính thuyết phục chính là yếu tố gây
thiện cảm, giúp cho quan hệ công tác tốt đẹp hơn, quan hệ giữa ngƣời với ngƣời mang
tính nhân văn hơn. Giáo dục cho sinh viên nói tốt, tự tin, sắc sảo nhƣng khiêm tốn và
chừng mực thì ngƣời học có cơ hội chủ động tích cực ứng xử tốt trong mọi tình huống.
Lời nói phải xuất phát từ trái tim với vốn tri thức có sẵn, từ sự hiểu biết của ngƣời có
văn hóa. Một ngƣời biết cách nói chuyện, ứng xử tinh tế là ngƣời có phong cách trị
chuyện tự tin, rõ ràng, hợp lý, sâu sắc và rất riêng. Đơi khi cần một chút tinh tế trong
cách nói có thể làm giảm bớt sự căng thẳng, xoa dịu nỗi đau. Khi cần ta nói tránh để
673
khơng chạm lịng tự ái của ngƣời khác. Cách nói còn đƣợc ẩn sâu trong âm lƣợng, trong
thái độ, trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và đặc biệt là cách diễn đạt ý tƣởng. Một lời
đề nghị ngọt ngào sẽ là cơ hội tốt để đạt hiệu quả mong muốn. Một câu xin lỗi chân
thành tự đáy lòng sẽ nhận đƣợc những vị tha rộng lƣợng. Một lời phản biện rất sâu sắc
nhƣng ý nhị cũng làm ngƣời nghe tiếp thu trong cảm giác tâm phục. Nói có nghệ thuật
là một nét đẹp văn hóa cần đƣợc bồi đắp trong cộng đồng dân tộc. Kỹ năng này càng
cần đƣợc rèn luyện nhiều hơn trong môi trƣờng chuyên nghiệp để lời nói thực sự trở
thành cơng cụ giao tiếp hữu hiệu. Để đào tạo giáo viên chuyên ngành Ngữ văn khơng
thể khơng rèn kỹ năng nói. Nói trong giờ học để sinh viên chiếm lĩnh tri thức. Phƣơng
pháp dạy học hiện đại chú trọng đến ngƣời học, coi ngƣời học là trung tâm nên phải
thƣờng xuyên hoạt động, giao tiếp trao đổi, thảo luận các vấn đề về tri thức. Rèn kỹ
năng nói để sinh viên sƣ phạm ra trƣờng hành nghề dạy học. Mỗi buổi lên lớp muốn tổ
chức tiết giảng thì ngƣời dạy cần phải nói. Muốn truyền đạt nội dung thì ngƣời dạy phải
nói. Muốn giáo dục học sinh, điều khiển các hoạt động của lớp, ngƣời giáo viên khơng
thể khơng nói. Trong giảng dạy, học tập, họp hành, mọi hoat động của ngƣời giáo viên
luôn gắn liền với lời nói. Nói để diễn đạt tƣ tƣởng tình cảm, khí chất, ý chí của mình.
Hiệu quả của cơng việc dạy học khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ học vấn, phƣơng
pháp giảng dạy mà một phần quan trọng còn phụ thuộc vào năng lực giao tiếp bằng lời
của ngƣời giáo viên. Đó là một trong những hoạt động nghiệp vụ sƣ phạm không thể
thiếu, cần phải rèn luyện của giáo sinh. Để tăng cƣờng rèn kỹ năng nói cho sinh viên sƣ
phạm Ngữ Văn, chúng tơi thƣờng xun tích hợp, lồng ghép vào q trình tổ chức thực
hiện giảng dạy.
Chẳng hạn dạy mục “Khái quát Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945”,
giảng viên yêu cầu sinh viên thảo luận: Tại sao Giáo trình Văn học hiện đại I nhận định
“Ở nƣớc ta, một năm đã có thể kể nhƣ 30 năm của ngƣời”. Giảng viên yêu cầu sinh viên
chuẩn bị trƣớc dàn bài, nêu các ý chính, những thành tựu của văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Sinh viên trình bày ý kiến theo yêu cầu. Giảng viên có nhận xét sửa chữa để
giúp sinh viên hiểu nội dung, kiến thức đồng thời nhận thức đƣợc u cầu nói cái gì, nói
thế nào, có đầy đủ thơng tin và biết chọn lọc nói đúng mục đích đối tƣợng giao tiếp.
Việc lựa chọn ngơn ngữ, nghi thức, lời nói, quy tắc hội thoại cũng góp phần nói đúng,
thuyết phục ngƣời nghe. Đặc biệt giảng viên phải biết khêu gợi, tạo cho sinh viên nhu
cầu đƣợc nói, đƣợc bộc lộ suy nghĩ của mình về vấn đề đã nêu. Giảng viên cần tạo hoàn
cảnh giao tiếp cho sinh viên bằng cách đặt câu hỏi, đặt vấn đề thảo luận, biết động viên
khích lệ, tạo điều kiện cho mọi ngƣời cùng tham gia, hợp tác. Đôi khi chỉ cần qua lời
nhận xét, đánh giá của giảng viên: “Em cần lựa chọn ngơn ngữ chính xác hơn, diễn đạt
rõ hơn...” cũng có thể giúp cho sinh viên rút kinh nghiệm đƣợc trong q trình nói.
Trong giảng dạy, chúng tôi luôn thiết kế một hệ thống câu hỏi tạo mơi trƣờng cho sinh
viên nói. Chúng tơi thƣờng đặt ra các tình huống có vấn đề tạo điều kiện cho sinh viên
674
đƣợc tham gia trao đổi thảo luận. Sau các phần trình bày của sinh viên, chúng tơi ln
định hƣớng cho bạn nhận xét về cách nói có hấp dẫn khơng? Có tạo đƣợc hứng thú
khơng? Phần mở đầu, kết thúc ra sao? Có những giao cảm bằng mắt khơng? Tƣ thế tác
phong nhƣ thế nào? Giọng nói đã phù hợp chƣa? v.v. Hoặc từ lời nhận xét của bạn về
nội dung, hình thức trình bày cũng có thể giúp sinh viên nhận thức cần nói đúng yêu cầu
của vấn đề đặt ra. Giảng viên chú trọng giúp cho sinh viên bộc lộ suy nghĩ, tình cảm
một cách thẳng thắn, chân thành để phát huy khả năng tự nghiên cứu, tự học cũng nhƣ
năng lực nói. Hiển nhiên trong bài dạy khơng chỉ chú trọng tích hợp để rèn luyện đọc,
nói mà quên nhiệm vụ chính yếu, mục tiêu của bài.
Để tích hợp tốt, có trọng điểm, giảng viên phải biết linh hoạt ứng phó trong mọi
tình huống, nắm chắc và vận dụng tốt phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hoá
hoạt động ngƣời học. Khi dạy các tác giả: Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Tản Đà, Xuân
Diệu, Thạch Lam, Nguyễn Tn, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tơ Hồi, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Xuân Quỳnh... giảng viên nên yêu cầu sinh viên tự trình bày ý
tƣởng, thảo luận nội dung các mục: tiểu sử và con ngƣời, quan niệm nghệ thuật tạo điều
kiện môi trƣờng cho ngƣời học đƣợc nói, đƣợc giao tiếp. Đây là cơ hội giúp ngƣời học
tự bộc lộ khả năng diễn đạt của mình trƣớc lớp, rèn luyện tính tự tin, mạnh dạn, tính chủ
động trọng mọi tình huống.Bài giảng sẽ thành cơng khi ngƣời giảng viên dừng lại đúng
mức trƣớc vấn đề, không quá thái chú trọng tích hợp để biến giờ văn học hiện đại thành
bài dạy rèn nghiệp vụ sƣ phạm. Rõ ràng bài giảng sẽ có tác động kép đến ngƣời học vừa
nắm tri thức Văn học hiện đại một cách chủ động sáng tạo, vừa có thêm kinh nghiệm
đọc, nói. Hơn nữa việc đọc tốt cũng tạo cơ hội cho sinh viên nói đúng giọng điệu, cao
độ, chuẩn ngữ âm, hình thành q trình phản xạ ngơn ngữ nhanh nhạy, thuyết phục
ngƣời nghe. Tích hợp là tƣ tƣởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo dục
và chúng ta cần vận dụng sáng tạo trong quá trình dạy học sao cho đạt hiệu quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh (1997), Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
2. Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2007), Giáo trình văn học Việt Nam
hiện đại, Tập 1, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2007), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Tập 2,
Nxb ĐHSP, Hà Nội.
675
4. Trƣờng Đại học Quảng Bình (2011), Chƣơng trình khung đào tạo giáo viên THCS
mơn Ngữ Văn, Quảng Bình (Lƣu hành nội bộ).
5. Xavier Roegiers (1996), Khoa Sƣ phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các
năng lực ở nhà trƣờng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
676