Khoa Sƣ phạm, Trƣờng
Đại học Giáo dục - Đại
học Quốc gia Hà Nội
Điện thoại:
0983075618
TS. LÊ THỜI TÂN
Email:
ĐỌC HIỂU PHẦN
ĐỌC-HIỂU
VĂN
BẢN
HAI
CÂY
PHONG
CỦA NGỮ VĂN 8
– MỘT VÀI TRAO
ĐỔI XOAY QUANH
GĨC NHÌN TỰ SỰ
HỌC
TĨM TẮT
Ngữ văn 8 đã rất thành công trong việc chọn và xác định “văn bản đoạn trích” Hai
cây phong từ tác phẩm Ngƣời thầy đầu tiên. Vấn đề còn lại chỉ là “xử lí văn bản” này
cho tốt nữa mà thơi. Tiếp cận trở lại đoạn trích này từ giác độ tự sự học cho ta thấy công
việc thiết kế bài dạy học (soạn phần đọc hiểu văn bản) của nhà làm sách dƣờng nhƣ vẫn
còn nên đƣợc trao đổi thêm. Xuất phát từ góc nhìn tự sự học, bài viết này là một cố
gắng trao đổi trở lại về một bài học cụ thể cùng nhà biên soạn SGK.
Từ khóa: Ngữ văn 8, “Hai cây phong”, xử lí văn bản, tiếp cận tự sự học
ABSTRACT
“The Two Poplars” in Literature 8
and Attempts to Comprehend the Text in Light of Narratology
Literature 8 has done a good job of selecting and identifying the excerpt “The Two
Poplars” from the novel The First Teacher. The only thing left to deal with is how to
come up with a good lesson plan of the excerpt. From Narratology perspective, it seems
that the lesson plan making process proposed in the textbook (comprehension of the
text) can benefit from further discussions. From that perspective, this paper serves as an
attempt at exchanging views.
Key words: Literature 8, “The Two Poplars”, Lesson plan making process,
Narratology perspective.
Lẽ tự nhiên phần ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN là một phần hết sức quan trọng đối
với việc dạy - học các tác phẩm đã đƣợc đƣa vào SGK. Trong trƣờng hợp cụ thể bài Hai
685
cây phong, tiếp tục trao đổi thêm nữa về các câu hỏi gợi ý đọc hiểu vẫn là một việc cần
thiết. Để tiện cho việc theo dõi, chúng tôi xin trình bày nội dung trao đổi lần lƣợt gắn
với các câu hỏi đã nêu trong SGK.
1. Thế nào là “hai mạch kể...” hay là vấn đề ngôi trần thuật và kết cấu đoạn trích
Câu hỏi thứ nhất của phần ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN bài Hai cây phong là: Căn
cứ vào đại từ nhân xƣng (tôi, chúng tôi) của ngƣời kể chuyện, hãy xác định hai mạch kể
phân biệt lồng vào nhau trong Hai cây phong. Nhân vật ngƣời kể chuyện có vị trí nhƣ thế
nào (nhân danh ai) ở từng mạch kể ấy? Vì sao có thể nói mạch kể của ngƣời kể chuyện
xƣng “tôi” quan trọng hơn? Ngƣời chuẩn bị bài dạy này có thể hỏi ngay - Thế nào là “hai
mạch kể phân biệt lồng vào nhau”? Sự phân tách “hai mạch kể” này là sự phân tách văn
bản theo chiều ngang – một nửa với ngôi nhân xƣng thứ nhất số ít “tơi” và nửa kế tiếp với
với ngôi nhân xƣng thứ nhất số nhiều “chúng tơi”? Nếu thế thì khó mà hiểu đƣợc “lồng
vào nhau” nghĩa nhƣ thế nào? Hay sự phân tách “hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau”
này là sự men lách dịng trần thuật bổ dọc văn bản? Trƣớc khi tìm lời đáp cho câu hỏi này
ta hãy xem xét lại vấn đề “đại từ nhân xƣng (tôi, chúng tôi) của ngƣời kể chuyện”. Theo
chúng tôi đại từ nhân xƣng (phân biệt ngơi kể thứ nhất số ít “tơi” và số nhiều “chúng tôi”)
của ngƣời kể chuyện ở đây không phải là yếu tố căn bản tạo kết cấu toàn văn bản. Mặc dù
thoạt trông văn bản này tựa nhƣ là ghép lại từ hai nửa trƣớc (xƣng “tôi”) và sau (xƣng
“chúng tơi”). Ta phải biết rằng, về mặt tình tiết truyện nếu “tơi” một mình lên đồi lắng
hồn nghe tiếng lá thì ngơi kể lẽ tự nhiên phải là số ít. Một ngƣời muốn lặng yên để lắng
nghe ngƣời đó sẽ là “tơi” một mình “... đến với hai cây phong. Rồi sau đó cứ đứng dƣới
gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sƣa ngây ngất”. Ngƣợc lại khi cùng
chơi leo cây để nhìn ra mênh mơng xa thẳm thì cần chúng bạn để có thể xác nhận những
hình ảnh cùng trơng thấy. Khi đó nhân xƣng ngôi kể lẽ tự nhiên sẽ là “chúng tôi”. Tự
bản chất, chuyện phải đƣợc hiểu là vào lúc chỉ liên quan đến cá nhân (kỉ niệm nghĩ thầm,
một mình để lắng nghe cây) thì ngƣời kể chuyện dùng ngơi nhân xƣng “tơi”, vào lúc tình
tiết truyện liên quan đến một “tập thể” (cùng đua nhau leo lên cây) thì chuyển qua xƣng
“chúng tơi”. Là “tơi” để n tĩnh lắng nghe, là “chúng tơi” để cùng dõi nhìn và xác nhận
với nhau điều quan sát đƣợc. Sự thể dƣờng nhƣ vốn đơn giản có thế.
Vì thế, khơng nên đặt vấn đề “tôi”- ngƣời kể chuyện nhân danh ai dù là ở “mạch
kể” nào. Và cũng không nên quá tuyệt đối hóa sự phân biệt “tơi” và “chúng tơi” vì thực
tế văn bản trƣớc khi chủ yếu dùng ngôi “tôi” thì cũng đã mở màn trần thuật với “chúng
tơi” (câu đầu tiên trong văn bản). Ngay cả khi đã vào đoạn chủ yếu dùng ngơi “tơi” thì ở
một vài câu vẫn thấy lẫn vào đại từ “chúng tôi”. Cũng nhƣ sau trƣờng đoạn xƣng “chúng
686
tôi” kể chuyện cùng chúng bạn trèo cây lại thấy quay lại với ngôi nhân xƣng “tôi”.1 Thực
chất “chúng tôi” ở đây trong tính cách là một chủ thể lời kể (hình tƣợng nhân vật ngƣời
kể chuyện) vẫn là cái “tơi” đó. Chính cái “tơi” này thống hợp tất cả các chi tiết tự sự vào
trong một trƣờng quan cảm duy nhất. Trƣờng quan cảm này duy trì một tình điệu tâm tƣ
trữ tình thống nhất (chất thơ của đoạn trích tạo nên từ đó) trên tồn bài. Cái “tơi” đó về
cơ bản đang hồi tƣởng từ những cự li thời gian nhất định. Mẩu chuyện “bọn con trai
chúng tôi” vào buổi học cuối trƣớc kì nghỉ hè2 ào lên đồi leo cây phá tổ chim rồi bất
thần sửng sốt trƣớc “đất rộng bao la” chẳng qua chỉ là mảnh nhỏ trong dịng hồi ức của
cái “tơi” đó. Dễ hiểu vì sao mà chỉ ở đoạn “chúng tơi leo lên cây” (một sự việc khá độc
lập và trọn vẹn) mới có đƣợc một sự xác định thời gian cụ thể cịn thì tất cả các đoạn
xƣng “tơi” bộc lộ tình cảm hơn là kể việc thì thời gian trần thuật đã trở nên rất “phiếm
chỉ” (“Đã bao lần tôi từ chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu” “và lần nào tôi cũng nghĩ thầm”
“ban ngày hay ban đêm” “có khi... có khi...”, “và khi...”). Ngay cả đoạn đã chuyển từ
“chúng tôi” sang “tôi” ở cuối văn bản thoạt trông cứ tƣởng nhƣ là đang tiếp nối vào
đoạn “chúng tôi” cả về hành động lẫn thời gian (các bạn đã về hết cịn tơi nán lại tiếp
tục “lắng nghe tiếng lá” “rồi trong tiếng lá..., cố hình dung ra những miền đất xa lạ”3 )
nhƣng xem đó là lần thăm cây phong khác có khi cịn đúng hơn.4
Thực ra, nếu nhƣ có thể nói đến một cái gì đó gọi là “mạch” văn ở văn bản này thì
ta có thể thấy dịng đi của nó là nối tiếp dựng lên các hình tƣợng Ngơi làng cao ngun Ngọn đồi có hai cây phong - Lên đồi đứng ngắm nghe hai cây phong - Leo lên cây và từ
trên những cành cây cao ngất phóng tầm mắt vào thảo nguyên rộng đến tận chân trời Quay về với ngọn đồi-ngôi trƣờng-cây phong. Vài ba điểm nhấn gợi khoảng cách thời gian
suy tƣ đƣợc chốt chèn một cách khéo léo vào những quãng thích hợp giữa chuỗi tiếp nối
các hình ảnh khơng gian mơ tả ngoại tại nói trên tạo nên một dƣ ba nội cảm bổ sung cho sự
diên triển của hình ảnh. Các điểm nhấn gợi khoảng cách thời gian suy tƣ này đƣợc đánh dấu
1
Giữa nguyên ngữ và bản dịch đƣơng nhiên đã có một sự chuyển đổi, bổ sung nhất định trong cách biểu đạt “làng
tơi”/“làng... chúng tơi”. Có khi dịch giả thêm “tôi” vào để dịch thành “làng tôi”, ngƣợc lại cũng có chỗ thay vì trực
dịch “làng của chúng tơi” dịch giả chọn cách nói “làng tơi”,...
2
Cụm trạng ngữ “В последний день учебы, перед началом летних каникул” đƣợc dịch trong bản Việt
ngữ là “Vào năm học cuối cùng, trƣớc khi bắt đầu nghỉ hè”.
3
Nguyên tác “Я слушал шум тополей, и сердце у меня колотилось от страха и радости, и под этот
неумолчный шелест я силился представить себе те далекие дали.” [4 tr.30] Tiếng Việt khơng nói (ví
dụ) “dƣới tiếng gió...” nên cách dịch “trong tiếng lá xạc xào” (под этот неумолчный шелест) có thể đã
hỗ trỡ cho cách đọc hiểu “tôi” đang ở trên cây phong (cùng chúng bạn hoặc chúng bạn đã về nhƣng “tơi”
vẫn cịn chƣa xuống).
4
Vào lúc kết thúc thiên truyện chia tay với bạn đọc, cái tơi này có đoạn tự nhủ mình “Hãy vẽ một đứa bé
đi chân khơng, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đơi mắt hân hoan
nhìn vào cõi xa xăm kì ảo.”
687
bởi các từ/cụm từ cụ thể “Đã bao lần...” - “Về sau...” - “Thuở ấy...” rải chèn vào giữa các
tiểu đoạn của văn bản. Mục đích nhằm tạo ra những “khoảng cách” thời gian tự sự nhất
định. Đƣơng nhiên, diễn giải về “kết cấu văn bản” đoạn trích trình bày ở trên sở dĩ đã có
thể diễn ra đƣợc ấy là vì chúng ta có VĂN BẢN HAI CÂY PHONG (Trích Ngƣời thầy
đầu tiên) đọc ở BÀI 9, Ngữ Văn 8 TẬP MỘT. Công việc đầu tiên của NBS là gì nếu
nhƣ khơng phải là tìm đoạn trích để “đem vào” SGK? Cơng việc này suy cho cùng
chính là hành động “văn bản hóa văn bản” - tức làm cho một trích đoạn tác phẩm trở
thành văn bản (bài học ĐỌC-HIỂU) giữa SGK (đặt cho đoạn trích một nhan/đầu đề
chính là một biểu hiện nổi bật của việc “văn bản hóa văn bản” này). Khó khăn đầu tiên
của cơng việc này chính là xác định đƣợc đoạn cần trích. Trích từ đâu (chọn điểm “mở
đầu”) và trích đến đâu (chọn điểm “kết thúc”) là những toan tính liên quan mật thiết với
các hành động “xử lí văn bản” của NBS từ nêu Kết quả cần đạt, đặt Chú thích, thiết kế
hệ thống câu hỏi ĐỌC-HIỂU cho đến đề nghị Ghi nhớ. Có thể nói việc xác định “văn
bản đoạn trích” HAI CÂY PHONG của NBS Ngữ văn 8 là rất lí tƣởng. Vấn đề chỉ cịn
lại là xử lí văn bản này cho tốt nữa mà thơi. Có thể giả định các kịch bản “kết thúc” cho
đoạn trích này để thấy sâu hơn sự thành công của NBS trong việc xác định trích đoạn.
Phƣơng án “kết thúc” đoạn trích có thể là: 1) Dừng lại đoạn hai câu: (a) Thuở ấy chỉ có
một điều tơi chƣa hề nghĩ đến: ai là ngƣời đã trồng hai cây phong trên đồi này? Ngƣời vơ
danh ấy đã ƣớc mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, ngƣời ấy đã ấp ủ
những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? 2) Tiến lên
thêm một câu nữa: (b) Quả đồi có hai cây phong ấy, khơng biết vì sao ở làng tơi họ gọi
là “Trƣờng Đuy-sen”. Tất nhiên việc nêu vấn đề phƣơng án “kết thúc” dừng lại ở một
trong hai câu (a) hay (b) này là một giả tƣởng phục vụ cho phân tích kết cấu văn bản và
cảm nhận văn pháp. Quan trọng hơn vẫn là cố gắng cắt nghĩa bản thân thực tế trần thuật
mà NBS đã chọn. Nhìn trong văn bản lớn (cả cuốn truyện) ta thấy câu (b) này là đã
thuộc về đoạn dƣới (qua hàng, khởi đoạn mới). Nếu chọn dùng phƣơng án 1) dừng lại
đoạn hai câu (a) thì trích đoạn cũng đã đạt đƣợc sự “tồn vẹn” nhất định (nhìn trong thế
kết cấu “nội bộ” đoạn trích). Vì sự xuất hiện của động tác xác nhận một hồi cố “Thuở
ấy” (chỉ có một điều tơi chƣa hề nghĩ đến) quả đã chốt lại dòng tự sự kể chuyện dõi mắt
về miền đất nơi chân trời xa từ trên những cành cao của hai cây phong đắm mình trong
tiếng gió. Thực vậy, sự chen ngang của “Thuở ấy” chí ít cũng hàm một ý nhắc rằng “tôi
bây giờ kể chuyện cách xa và trƣởng thành lên nhiều so với tơi ngày ấy leo cây”. Và cũng
chính bằng hồi cố đó mà tƣ thái kết bài đã hiện rõ.
Nhân tiện cũng nên thấy rằng việc đối chiếu câu cuối cùng này với những câu liền
kề phía trƣớc ngoài việc giúp ta cảm nhận đƣợc những tinh tế trong văn pháp ra còn
giúp ta thấy đƣợc chút khác biệt tuy nhỏ nhƣng quan trọng trong nghệ thuật tự sự. Đó là
sự khác biệt giữa nỗi băn khoăn về xuất xứ của hai cây phong trên ngọn đồi với băn
khoăn về gốc tích của tên gọi ngọn đồi (tự sự về sau của tồn thiên truyện chính là một
688
nỗ lực hợp nhất hai nội dung này vào trong một giải đáp trọn vẹn). Thực tế thì chuyện
Đuy-sen dựng trƣờng trên đồi là chuyện dân làng đã chứng kiến. Ngọn đồi hoang trên
làng từ đấy đã có tên. Trong lúc việc trồng hai cây phong bên cạnh nhau (không phải là
trồng tách ra hai bên lối đi hay hai bên cổng ngôi trƣờng) là việc riêng (đúng hơn chỉ là
chung giữa hai cá nhân) của một ngƣời “ấp ủ niềm hi vọng” khơng nói ra lời. Nếu
khơng có ngơi trƣờng hoặc trƣớc khi có ngơi trƣờng đã có hai cây phong “đi từ phía nào
đến làng... cũng đều trơng thấy...” đó thì rất có khả năng ngƣời ta đã gọi đó là “Đồi hai
cây phong”. Cịn nhƣ việc hai cây phong đồi cao kia gắn liền với câu chuyện con ngƣời
nhƣ nào, tại sao khơng có cái khả năng chuyện cây phong sẽ quảng truyền để đƣợc chỉ
tới với tên gọi “cây phong Đuy-sen”1 thì lại là một chuyện khác... Đây là cái “bất tri”
thuộc về (tầm nhận thức/điều kiện tri nhận) cá nhân ngƣời kể chuyện (“không biết vì sao
ở làng tơi họ gọi là”). Cái “bất tri” đó liên quan đến khoảng cách thời gian (“tơi” sinh
sau đẻ muộn không biết chuyện xƣa)! Khác với một “bất tri” khác chỉ đƣợc hé mở dần
cùng dòng trần thuật hoặc nói đúng hơn đƣợc khám phá trở lại bởi quá trình tự sự (lần
lại dĩ vãng bằng sự kể). Có thể nói, vì là một phần của hồi tƣởng nên những miêu tả hai
cây phong (ý thức đến và cố tình giữ vẻ ngun sơ tinh khơi ban đầu hay thực sự không
để cho sự trƣởng thành và phát giác về sau làm ảnh hƣởng đến cảm nhận trinh nguyên
đó) có thể đã nhuốm một vẻ “ƣớc lệ” “cách điệu” khơng tránh khỏi.2 Nhƣng dù sao thì
ngƣời kể chuyện “tôi” vẫn muốn cho ta thấy – ngay cả khi chƣa biết, chƣa nghĩ đến gốc
tích hai cây phong (thuở ấy chỉ có một điều...) thì “tơi” đã u hai cây phong bằng tất cả
tâm hồn thơ trẻ. Vì đó là hình ảnh nhìn thấy tự tuổi thơ...3 Tự sự là phát hiện một câu
chuyện để phát hiện lại chính mình. Cả đoạn trích Hai cây phong cho chí thiên truyện
mà SGK trích dẫn đoạn này ra từ đó suy cho cùng đều là một sự mƣợn cây để kể chuyện
ngƣời.
2. Thế nào là “ngòi bút đậm chất hội họa” hay là vấn đề bút pháp tự sự đoạn trích
Câu hỏi tiếp theo của phần ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN bài Hai cây phong là: Trong
mạch kể của ngƣời kể chuyện xƣng “chúng tơi”, cái gì thu hút ngƣời kể chuyện cùng bọn
trẻ và làm cho chúng ngây ngất? Tại sao có thể nói ngƣời kể chuyện (một họa sĩ) đã miêu
1
Khác với việc đại biểu đi thăm và trồng cây lƣu niệm có bia bảng ghi tên đƣợc báo đài trần thuật khơng
gây băn khoăn gốc tích của cây trồng để đến nỗi tiểu thuyết gia phải khám phá trở lại bằng tự sự nhƣ
chuyện hai cây phong này.
2
Làm sao ta có thể kể cho đƣợc một “câu chuyện mà ta hồn tồn khơng biết”? Đang kể bỗng xen ngang
bảo “đó là về sau tơi mới hiểu ra...” suy cho cùng cũng là một tu từ!
3
Vào phần kết thúc cuốn sách, cái “tơi” trần thuật này tự nhủ mình “Hãy vẽ hai cây phong của Đuysen và
Antƣnai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sƣớng vui, mặc dù mày không
biết rõ sự tích của chúng.”
689
tả hai cây phong và quang cảnh nơi đây bằng ngịi bút đậm chất hội họa? Khơng có lí do
gì buộc ta khơng dùng từ “ngây ngất” để nói về trạng thái tình cảm của lũ trẻ sau khi đã
leo lên những cành cây cao bất ngờ khám phá đất rộng bao la. Nhƣng có lẽ cũng nên
thấy rõ ràng trong văn bản đoạn trích cũng chỉ có một từ “ngây ngất” và từ này đã đƣợc
dùng ở mạch kể của ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” chứ không phải là ở mạch kể của
ngƣời kể chuyện xƣng “chúng tôi” (Đã bao lần tơi... Rồi sau đó cứ đứng dƣới gốc cây...
cho đến khi say sƣa ngây ngất [1, tr. 97]). Nhƣng vế đáng chú ý hơn cả trong câu hỏi
trên là “Tại sao có thể nói ngƣời kể chuyện (một họa sĩ) đã miêu tả hai cây phong và
quang cảnh nơi đây bằng ngòi bút đậm chất hội họa?”. Cách nói tu từ này có thể là xác
đáng khi dùng để nói về “mạch kể của ngƣời kể chuyện xƣng chúng tơi” (chỉ để tả cảnh
thảo ngun). Nhƣng có lẽ ta cũng khơng nên q lạm dụng cách nói này (đƣa hẳn vào
đóng khung Kết quả đạt được đầu bài, láy lại thêm lần nữa ở đóng khung Ghi nhớ cuối
bài). Nói rõ ra – bút pháp “miêu tả... đậm chất hội họa” khó mà trở thành một khái quát
hóa phong cách nghệ thuật của cả cái trích đoạn đƣợc “độc lập hóa” thành văn bản
“HAI CÂY PHONG” này. Có vẻ nhƣ tình tiết ngƣời kể chuyện xƣng tơi tự giới thiệu
mình là họa sĩ này cũng đã ám ảnh NBS không kém sự ám ảnh của chủ đề “ngƣời thầy
đầu tiên”. Trƣớc hết cần hiểu rằng giữa việc nhân vật ngƣời kể chuyện “tơi” nói bản
thân anh ta là họa sĩ1 với việc “miêu tả hai cây phong và quang cảnh nơi đây bằng ngòi
bút đậm chất hội họa” không nhất thiết phải chứa đựng một liên hệ tất yếu nào đó (ở
đây ngƣời kể chuyện xƣng “tơi” tự nói mình là họa sĩ thì cũng nhƣ ở một truyện khác
cũng của Aitmatov - Cây phong non trùm khăn đỏ chẳng hạn, ngƣời kể chuyện xƣng tơi
bảo mình là “nhà báo” vậy thơi).2 Cụm từ “miêu tả... bằng ngịi bút đậm chất hội họa”
nên đƣợc chấp nhận nhƣ là một cách nói tu từ. Đọc cẩn thận văn bản ta khơng khó phát
hiện thấy rằng, thực ra cách nói này dƣờng nhƣ chỉ thích hợp với tiểu đoạn tả cảnh thảo
nguyên nhìn từ trên “những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay” của hai
cây phong mà thơi. Và đó cũng chỉ là một phác họa nét lớn – miền đất bao la mất hút nới
chân trời với chỗ gần là chuồng ngựa tƣởng là tòa nhà to nhất thế gian nay thấy bé nhƣ
một căn nhà xép rồi đồng cỏ và những dịng sơng lấp lánh bên trời nhƣ sợi chỉ bạc. Phác
1
Aitmatov đã sử dụng khá ý vị tình huống một “ngƣời họa sĩ xƣng tôi kể chuyện” để tạo khung kết cấu
cho cả thiên truyện (xem phần mào đầu và phần sau cùng thiên truyện). Và nhƣ ta đọc thấy, tuy rất xúc
động về câu chuyện hai cây phong nhƣng – nhƣ chính lời kể của ngƣời họa sĩ, tất cả các bức tranh liên
quan đến đề tài đó vẫn cứ cịn ở trong dạng phác thảo và họa sĩ vẫn là đang trong trạng thái tìm tịi ý đồ
mà thơi... Từ một bình diện khác – ví dụ bình diện nhà văn và sáng tác, đặt vấn đề ảnh hƣởng của “nghề
nghiệp” hay thiên hƣớng quan cảm thế giới của nhà văn (nhà văn đồng thời là họa sĩ hay nhạc sĩ) đối với
phong cách và bút pháp tự sự cũng là một điều thú vị.
2
Tự sự là dựng dậy những câu chuyện. Trong tiểu thuyết khơng có cái gì là “thực”/“thật” cũng khơng có cái gì
là “hƣ”/“giả”. Tiểu thuyết tạo nên một thế giới bên cạnh (hoặc cao hơn?) hiện thực này.
690
họa đó rất nhanh đã đƣợc khép lại để quay về với cảm nhận âm thanh vốn bao trùm toàn
văn bản – “Chúng tơi ..., lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì
thầm to nhỏ...” [1, tr. 98]. Hình tƣợng hai cây phong về cơ bản là hình tƣợng “chan chứa
những lời ca”. Một cách “tóm lƣợc ngữ vựng” liên quan đến hình tƣợng hai cây phong
trong toàn bài cho ta thấy cụm từ “đậm chất hội họa” cần đƣợc sử dụng thận trọng hơn:
“... đứng dƣới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất. (...) chúng
có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, một tâm hồn chan chứa những lời
ca êm dịu. (...), lay động lá cành, khơng ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác
nhau. (...) nhƣ thuỷ triều dâng lên vỗ vào bãi cát, (...) như một tiếng thì thầm thiết tha (...),
(...) bỗng im bặt một thống, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt (...) và reo vù
vù như một ngọn lửa bốc chảy rừng rực. (...) và tiếng lá xào xạc dịu hiền. (...) Chúng tơi
... lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ (...) Tơi
lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, (...) rồi trong tiếng xạc xào không ngớt ấy,...” [1, tr.
97-99]. Thành ra điều quan trọng ở đây vẫn là thanh âm hoặc nói đúng hơn - một hịa
âm vang vọng (“tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ...”;
Cả hình ảnh rồi cũng tái hiện lên trong thanh âm – “trong tiếng xạc xào khơng ngớt ấy,
tơi cố hình dung ra những miền xa lạ...”). “Hai cây phong” dƣờng nhƣ đã trở thành hai
giàn đại phong cầm của ngọn đồi làng quê. Đọc một lƣợt văn bản này ta thấy ngƣời kể
chuyện ln tìm cách nhấn mạnh ấn tƣợng thính giác, khắc họa sự cộng hƣởng của thanh
âm. Chả trách ƣớc mơ của nhân vật ngƣời kể chuyện mỗi lần từ những chốn xa xôi trở về
làng quê là “Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong. Rồi
sau đó cứ đứng dƣới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sƣa ngây ngất” [2,
tr. 97]. Với anh ta, hai cây phong quê hƣơng là một dáng hình nhƣng là một dáng hình
ngập tràn tiếng nói, gắn kết liên đới với khung trời đồi cao xung quanh bằng tiếng bằng
âm (đọc xong đoạn trích ta có thể vẫn chƣa hình dung đƣợc những chiếc lá phong màu gì
trong lúc hàng loạt những từ “lá reo” “rì rào” “thì thầm” “im bặt” “cất tiếng thở dài” “reo
vù vù” “xào xạc” “xạc xào” tỏ ra hết sức ám ảnh.1 Có thể nói Hai cây phong là một sự tả
tiếng hơn là tả hình. Tất nhiên sự thể đâu có chuyện tiếng một đƣờng hình một nẻo. Hình
ảnh và âm thanh gắn liền với nhau. Ta nói “nghe thấy” mà ta cũng nói “nhìn thấy”, “thấy
thơm”, “thấy mát”, “thấy buồn”,... Nhƣ trong Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust) mùi
vị gợi về hình ảnh, ở đây chính hình ảnh gợi về những thanh âm. Quan hệ chuyển hóa âm
thanh và hình ảnh trong tri giác và hồi ức làm nên chiều sâu cho sự miêu tả ở đoạn trích
này. Khái quát về một sự “miêu tả... đậm chất hội họa” dƣờng nhƣ không phải là một kết
luận có sức thuyết phục thực sự.
3. Lời kết
1
Thống kê theo thứ tự xuất hiện từ đầu đến cuối, một số từ trong số đó đƣợc dùng lặp lại.
691
Dạy học tác phẩm văn chƣơng trong chƣơng trình ngữ văn nhà trƣờng phổ thông
hiện nay đã đi đến đƣợc với quan niệm giảng văn chính là “đọc hiểu văn bản”. SGK
thiết kế hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài chính là vì quan niệm đó. Điều dễ hiểu là để dạyhọc tốt mỗi bài giảng văn, thầy cũng nhƣ trò đều phải chuẩn bị trƣớc cho hệ thống câu
hỏi này. Mƣợn cách nói trong chính nhan đề bài viết này - đó chính cũng là một sự “đọc
hiểu” phần “ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN” mà NBS đã chuẩn bị. Tiếp cận trở lại đoạn trích
này từ giác độ tự sự học cho ta thấy cơng việc “xử lí văn bản” (soạn bài để dạy học lesson plan making process of the text) của NBS dƣờng nhƣ vẫn còn nên đƣợc trao đổi
thêm. Hi vọng những luận giải về ngơi kể, góc nhìn, kết cấu văn bản và bút pháp trần
thuật đoạn trích mà bài này trình bày theo lối đeo bám đối thoại với từng câu hỏi của
phần ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN sẽ giúp ích thêm cho việc dạy học tốt hơn đoạn trích
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khắc Phi (tổng cb. 2012), Ngữ Văn 8, Tập 1, Nxb GD Việt Nam, Hà Nội.
2. Tsingiz Aitơmatốp, Giamilia Truyện núi đồi và thảo nguyên (Phạm Mạnh Hùng,
Nguyễn Ngọc Bằng, Cao Xuân Hạo, Bồ Xuân Tiến dịch 2012), Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Tsingiz Aitơmatốp (1984), Giamilia Truyện núi đồi và thảo nguyên (Nguyễn Ngọc
Bằng, Cao Xuân Hạo, Bồ Xuân Tiến, Phạm Mạnh Hùng dịch), Nxb Cầu Vồng,
Mátxcơva.
4. Чингиз Айтматов (1976), “Первый учитель”, Издательство детской литературы
"Веселка", Киев.
692